Thứ trưởng Thường trực Hoàng Thế Liên và Bà Setsuko Yamazaki, Giám đốc quốc gia UNDP tại Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có gần 200 đại biểu đại diện các cơ quan Chính phủ Việt Nam, các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế, các cơ quan hợp tác phát triển của các nước tại Việt Nam, các chuyên gia quốc tế đang làm việc cho các dự án, chương trình hợp tác pháp luật với Việt Nam.
I. Đối thoại chính sách về pháp luật tố tụng hành chính –Diễn đàn hiệu quả về đối thoại phát triển của Việt Nam, góp phần bảo đảm pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Từ tháng 12/2010, để thực hiện nhiệm vụ điều phối viện trợ và xây dựng chiến lược quy định tại Kế hoạch chung Một Liên hợp quốc đã được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc, theo đề nghị của các đối tác phát triển, Bộ Tư pháp và Liên hợp quốc đã thiết lập một diễn đàn mới về Đối thoại chính sách pháp luật, đó là Diễn đàn đối thoại chính sách pháp luật theo chuyên đề. Diễn đàn này được tổ chức hàng Quý và trở thành một thiết chế bên cạnh Diễn đàn Đối tác Pháp luật thường niên phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về hợp tác pháp luật và tư pháp của Bộ Tư pháp.
Tiếp nối thành công của Diễn đàn đối thoại chính sách theo chuyên đề lần thứ nhất về theo dõi thi hành pháp luật, theo đề nghị của Liên hợp quốc và cộng đồng các nhà tài trợ, Bộ Tư pháp và UNDP tổ chức Diễn đàn đối thoại chính sách lần thứ hai với chủ đề Pháp luật tố tụng hành chính.
Pháp luật tố tụng hành chính nói chung và Tòa án hành chính nói riêng giữ một vai trò quan trọng đặc biệt trong việc bảo đảm pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước trước Tòa án, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhận thức rõ tầm quan trọng của Tòa án hành chính, cùng với công cuộc đổi mới về quản lý kinh tế, Nhà nước Việt Nam từ lâu đã dành sự quan tâm lớn trong việc nghiên cứu và thiết lập Tòa án hành chính tại Việt Nam. Sau nhiều năm nghiên cứu, tham khảo học tập kinh nghiệm của nước ngoài, năm 1996 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, theo đó Tòa án hành chính đã được thành lập: ở Trung ương có Tòa án hành chính thuộc Tòa án nhân dân tối cao, ở cấp tỉnh có Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh, ở cấp huyện có thẩm phán xét xử các vụ án hành chính. Sau 14 năm thành lập và hoạt động theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này, ngày 24 tháng 11 năm 2010 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật tố tụng hành chính. Theo quy định, Luật tố tụng hành chính sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21 tháng 5 năm 1996, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính số 10/1998/PL-UBTVQH10 và số 29/2006/PL-UBTVQH11 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực. Việc ban hành Luật tố tụng hành chính là một mốc son quan trọng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về tố tụng hành chính. Cụ thể
- Đây là lần đầu tiên hoạt động tố tụng hành chính được quy định và điều chỉnh ở văn bản quy phạm pháp luật là luật. Cùng với Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng ở nước ta. Như vậy, ba hoạt động tố tụng quan trọng là tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính đã được điều chỉnh ở văn bản luật. Việc này đã góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Việc ban hành Luật tố tụng hành chính đã khắc phục những vướng mắc trong việc thi hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây, mặt khác nhằm tiếp tục phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong hoạt động tố tụng hành chính thời gian qua.
- Luật tố tụng hành chính được ban hành đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Luật tố tụng hành chính quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan; trình tự, thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính. Như vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức khi không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính (trừ một số lĩnh vực) thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính để đề nghị Tòa án giải quyết khiếu kiện hành chính. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể lựa chọn phương thức tư pháp, bên cạnh phương thức hành chính, để giải quyết khiếu kiện hành chính. Luật tố tụng hành chính cũng có nhiều quy định để tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức như quy định về: những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; quyền khởi kiện vụ án hành chính; thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai để bảo đảm tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật…
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực lập pháp về tố tụng hành chính như đã nêu ở trên, nhưng hệ thống pháp luật về tố tụng hành chính cũng như hoạt động của Tòa án hành chính Việt Nam vẫn cần được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện bởi lẽ trên thực tế, so với nhiều nước trên thế giới, thì sự hình thành và phát triển của Tòa án hành chính Việt Nam vẫn còn khá non trẻ. Diễn đàn đối tác pháp luật về pháp luật tố tụng hành chính do Bộ Tư pháp và UNDP đồng tổ chức với sự tham gia của đông đảo chuyên gia Việt Nam và quốc tế là một trong các hoạt động nhằm thực hiện mục đích trên.
Tại Diễn đàn đối thoại chính sách pháp luật về tố tụng hành chính, các đại biểu đã nghe và thảo luận các tham luận của đại diện Tòa án nhân dân tối cao về Những nội dung mới của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 so với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành, tham luận của đại diện Bộ Tư pháp về Cơ chế bảo đảm thi hành các phán quyết của Tòa án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Ngoài ra, với mục đích tiếp tục học hỏi kinh nghiệm quốc tế về pháp luật Tố tụng hành chính, Hội nghị cũng đã thảo luận các bài trình bày của đại diện Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp TW và của chuyên gia UNDP về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới (Thụy Sĩ, Trung quốc, Nhật Bản) về tính chung thẩm của bản án và kiến nghị với Việt Nam về việc xem xét lại quyết định cuối cùng của Tòa án tối cao.
Các tham luận cũng như những ý kiến thảo luận tại Diễn đàn là nguồn tư liệu thông tin vô cùng hữu ích giúp các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính và bổ sung kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án hành chính tại Việt Nam.
Tại Hội nghị, các đại biểu cũng đánh giá cao vai trò của Bộ Tư pháp trong công tác điều phối hợp tác pháp luật và tư pháp. Hội nghị tin tưởng rằng Diễn đàn đối tác pháp luật cũng như Diễn đàn đối thoại chính sách theo chuyên đề do Bộ Tư pháp và UNDP đồng tổ chức sẽ trở thành một hoạt động đối thoại và trao đổi thường xuyên, đa dạng và phong phú hơn về nhiều lĩnh vực và chủ đề là mối quan tâm chung của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ, góp phần hỗ trợ việc hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ Việt Nam, cũng như cung cấp thêm thông tin về những cơ hội đầu tư, kinh doanh ngày một mở rộng ở Việt Nam cho cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài.
II. Tính chung thẩm trong phán quyết của tòa án nhìn từ góc độ độc lập của hệ thống tư pháp.
Một trong những điểm nhấn của nội dung Diễn đàn đối thoại về pháp luật tố tụng hành chính là vấn đề Tính chung thẩm trong phán quyết của tòa án nhìn từ góc độ độc lập của hệ thống tư pháp.
1. Trong Bài tham luận tại Hội nghị, trao đổi về kinh nghiệm của một số nước trong xem xét, giải quyết các quyết định của Toà án tối cao và nhận xét đối với cơ chế của Việt Nam, Ông Nguyễn Văn Hiện, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp TW đã chia sẻ các kinh nghiệm của một số quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Thuy Sĩ, Tòa án Liên minh Châu Âu về cơ chế xem xét, giải quyết các quyết định của Toà án tối cao và nhân xét về cơ chế này tại Việt Nam như sau:
“… Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tố tụng hành chính và hiện đang thảo luận về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự. Trong đó, có quy định về cơ chế kiến nghị và xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC.
Hai đạo luật quy định khác nhau về mặt thủ tục để xem xét, giải quyết các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC. Tuy nhiên, về cơ bản 2 đạo luật đều đưa ra cơ chế tương tự để xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam theo 4 bước….
Đây là vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Về bản chất, việc Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC ra quyết định “huỷ quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC; huỷ quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới” là những quyết định mang tính chất tài phán. Trong trường hợp này, đối tượng đưa ra quyết định là cơ quan xét xử, nội dung quyết định không có sự khác biệt với quyết định giám đốc thẩm bình thường theo quy định của pháp luật tố tụng. Hậu quả pháp lý của việc ra quyết định của Hội đồng thẩm phán Toà án NDTC là vụ án có thể sẽ tiếp tục bị đưa ra xem xét, giải quyết ở cấp dưới, thậm chí xét xử lại ở cấp sơ thẩm. Điều này vi phạm nguyên tắc “toà án xét xử theo 2 cấp”, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, làm giảm lòng tin của xã hội đối với tính nghiêm minh của công lý, sự thống nhất của pháp luật và hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nói chung và hệ thống toà án nói riêng.
Những thông tin về những vấn đề có liên quan đến cơ chế giải quyết các quyết định của Toà án tối cao Thuỵ Sỹ, Nhật Bản, Trung Quốc khi phát hiện có sai lầm cho thấy: Không có nước nào áp dụng cơ chế đặc biệt như đã nêu trong Luật Tố tụng hành chính (kể cả Trung Quốc). Bản án, quyết định cuối cùng của Toà án tối cao đều được coi là biểu tượng công lý của một quốc gia, có giá trị pháp lý chung thẩm; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có quyền huỷ bỏ, sửa đổi hoặc xem xét lại bản án, quyết định đó. Việc tôn trọng phán quyết của Toà án tối cao được dựa trên nguyên tắc cốt lõi của pháp quyền là sự “chắc chắn và giới hạn ổn định của pháp lý”, bảo đảm tính độc lập của toà án cũng như sự độc lập xét xử của thẩm phán. Trong những trường hợp bản án, quyết định của Toà án tối cao bị phát hiện có sai lầm, việc xem xét lại các bản án, quyết định này chỉ có thể được đặt ra trong các vụ án hình sự có liên quan đến vi phạm quyền con người với những quy định hết sức ngặt nghèo. Thông thường, các nước áp dụng cơ chế phi tài phán (thông qua bồi thường của Nhà nước) để khắc phục sai lầm của quyết định cuối cùng của Toà án tối cao gây ra cho đương sự. Tuy nhiên, vấn đề cơ quan, tổ chức nào có đủ thẩm quyền xem xét và ra kết luận là bản án cuối cùng của Toà án tối cao có sai lầm nghiêm trọng cũng là vấn đề lớn và còn nhiều ý kiến rất khác nhau.
Do vậy, về lâu dài, cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, đề xuất các phương án khả thi khi sửa đổi, bổ sung Luật Tố tụng hành chính và xây dựng mới Bộ luật Tố tụng dân sự”.
2. Ông Nicholas Booth, cố vấn pháp quyền và tiếp cận công lý của UNDP nhấn mạnh một số quan điểm quốc tế về tính chung thẩm của bản án nhìn từ các tiêu chuẩn và thực tiễn quốc tế như sau:
- “Tính tin cậy của pháp luật là một phần không thể thiếu của nguyên tắc pháp quyền, và một nguyên tắc cốt lõi của quyền con người để đảm bảo xét xử công bằng trên phạm vi quốc tế.
- Quá trình xét xử của Toà án Nhân quyền Châu Âu đã phản đối nhiều vụ vi phạm tính tin cậy của pháp luật khi chánh án toà án hoặc công tố viên khởi xướng yêu cầu xem xét lại quyết định chung thẩm của toà án, thường thông qua thủ tục ‘kháng nghị’ hoặc ‘xem xét lại’ nhằm bảo vệ quyền được xét xử công bằng và chỉ tán thành một số rất ít trường hợp yêu cầu xem xét lại.
- Cụ thể, các thủ tục đó, để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế:
a. Phải trong thời hạn được quy định rất nghiêm ngặt;
b. Chỉ được sử dụng để sửa chữa những oan sai nghiêm trọng như sai về tố tụng dẫn đến việc xét xử không công bằng theo tiêu chuẩn quốc tế;
c. Không thể viện dẫn đến thủ tục này chỉ đơn giản do toà án xem xét lại không đồng ý với cách giải thích hoặc áp dụng pháp luật của toà án cấp dưới;
d. Không thể viện dẫn đến thủ tục này để sửa đổi những sai sót mà một bên đáng ra đã hoặc phải nêu ra trong qúa trình tố tụng trước đó.
- Thực tiễn của Toà án nhân quyền Châu Âu cho thấy nên sử dụng biện pháp bồi thường cho nạn nhân của xét xử oan sai hơn là mở lại quyết định chung thẩm để xem xét lại, trừ trường hợp việc bồi thường không phải là biện pháp thích hợp.
- Các vụ án kiểu này thông dụng nhất là trong pháp luật hình sự - hầu hết các hệ thống pháp luật có thủ tục lật lại kể cả việc kết án hình sự chung thẩm nếu có oan sai. Ví dụ, Hệ thống của Anh cho phép xem xét lại các trường hợp như vậy mặc dù số lượng các vụ như vậy được toà án xét xử lại rất ít - chỉ khoảng 30 vụ một năm – và trong đó khoảng 22 quyết định chung thẩm bị huỷ bỏ mỗi năm.
- Nhiều hệ thống trên thực tế tránh xung đột giữa công lý và tính tin cậy của pháp luật bằng việc hạn chế thẩm quyền của toà án cao nhất trong việc xem xét lại bản án về lý do pháp luật. Theo cách này, các vụ án bị mở lại là thấp nhất và thẩm quyền của toà án tối cao vẫn là cấp để duy trì hàng rào cuối cùng bảo vệ tính tin cậy của pháp luật.
Tính chung thẩm của bản án, tính tin cậy của pháp luật và nguyên tắc pháp quyền
- Vấn đề về tính chung thẩm của quyết định của toà án phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về tính tin cậy của pháp luật, theo đó (ngoài những vấn đề khác) các bên trong tranh chấp có quyền dựa vào tính chung thẩm của quyết định của toà án để xác định quyền và nghĩa vụ của mình.
- Tính tin cậy của pháp luật là một phần không tách rời của nguyên tắc pháp quyền với tư cách là “một trong các nguyên tắc và giá trị toàn cầu không thể tách rời của Liên Hợp quốc”. Nó tạo nên một trong các nguyên tắc được áp dụng trong công việc và hoạt động pháp luật của các cơ quan nhân quyền quốc tế như Hội đồng Nhân quyền của Liên Hợp quốc (và Uỷ ban trước đó) và các Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp quốc về tính độc lập của thẩm phán và luật sư.
- Liên quan đến tính chung thẩm của bản án, khái niệm này đã được làm rõ trong hoạt động pháp luật của Toà án Nhân quyền Châu Âu về quyền được xét xử công bằng bởi một hội đồng xét xử theo Điều 6 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với thành viên của Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị (như Việt Nam), cũng có quy định về quyền này (tại Điều 14) bằng một thuật ngữ về cơ bản giống hệt Công ước Châu Âu về Nhân quyền.
Tính chắc chắn của pháp luật trong các hệ thống pháp luật Châu Âu
- Nhiều Hệ thống pháp luật Tây Âu, ngoài việc tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tin cậy của pháp luật, trong hệ thống pháp luật tố tụng trong nước không quy định cơ chế xem xét lại bản án chung thẩm của toà án (với một ngoại lệ rất hạn chế trong trường hợp có xét xử oan sai trong các vụ án hình sự). Nếu bên thua kiện không thể kháng cáo đúng hạn hoặc không kháng cáo lên toà án cấp cao nhất thì quyết định sẽ không được xem xét lại vì bất cứ lý do gì”.
2. Kinh nghiệm Nhật Bản theo chuyên gia YAMASHITA, Terutoshi, Giám đốc và Luật sư Chính phủ, Viện Nghiên cứu và Đào tạo, Bộ Tư pháp Nhật Bản:
“ Tính độc lập của hệ thống tư pháp và tính chung thẩm trong phán quyết của Tòa án ở Nhật Bản
Hiến pháp hiện tại của Nhật Bản ghi rõ: "Toàn bộ quyền lực của hệ thống tòa án được trao cho Tòa án Tối cao và những tòa án cấp dưới được thành lập theo quy định của pháp luật. Không có tòa đặc biệt nào được thành lập cũng như không có một cơ quan nào hoặc một bộ máy hành pháp nào có quyền xét xử cuối cùng. Tất cả thẩm phán phải độc lập trong việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng lương tâm và chỉ chịu sự ràng buộc bởi Hiến pháp này và pháp luật" (Điều 76, Hiến pháp Nhật Bản). Ở đây có thể thấy Hiến pháp Nhật Bản quy định tính độc lập trong xét xử và tính độc lập của thẩm phán là nền tảng cơ bản. Chúng ta cũng có thể thấy là quyết định cuối cùng của tòa án mang tính quyết định. Không một tổ chức hoặc bộ máy nhà nước nào khác có thể can thiệp, làm đảo ngược hoặc hủy bỏ quyết định của một tòa án dưới bất cứ hình thức gì. Đó chính là tính chung thẩm trong phán quyết của tòa án nhìn từ góc độ độc lập của hệ thống tư pháp. Tóm lại, nêu ai đó nêu câu hỏi là “Ở Nhật Bản, có quyền lực nhà nước nào để xem lại hoặc sửa đổi một quyết định cuối cùng của tòa không?” thì nhận được ngay câu trả lời là “không”. Theo Hiến pháp, hệ thống (tư pháp) Nhật Bản dựa trên cơ sở quan điểm về hệ thống tư pháp độc lập, phản ánh quan điểm cơ bản là sự xét xử khách quan, vô tư và công bằng mọi tranh chấp hoặc mâu thuẫn pháp lý theo quy định của pháp luật chỉ có thể do một bộ máy không dính líu tới quá trình xây dựng hoặc thực thi pháp luật thực hiện.
Điều gì sẽ xảy ra nếu xét xử oan sai ?
"Nhân bất thập toàn." Theo nghĩa này, không có quan tòa nào là hoàn hảo nên việc xét xử oan sai, ít nhất về lý thuyết, là có thể xảy ra. Hệ thống Nhật Bản cố gắng khắc phục cho những người đã bị ảnh hưởng do việc sử dụng các hệ thống nói trên. Tuy nhiên khi đã sử dụng hết mọi phương tiện, người ta phải chung sống với nó. Đặc biệt, khi một vụ việc đã được đưa lên Tòa án Tối cao và tòa cấp cao nhất đã đưa ra quyết định quan trọng, có nghĩa là vụ việc đã được xem xét nhiều lần vào lúc đó. Điều đó có nghĩa là sẽ có rất ít cơ hội để đưa vụ án xử oan sai ra xem lại. Giả thuyết là, tòa cấp cao nhất đã phạm một sai phạm pháp luật rõ ràng và nghiêm trọng khi đưa ra phán quyết cuối cùng mà ai cũng có thể dễ dàng thấy được rằng quyết định đó là sai lầm rành rành. Có vẻ như bây giờ điều này được thảo luận ở Việt Nam, còn ở Nhật Bản thì không có cách nào để thay đổi quyết định cuối cùng trừ phi có kháng nghị đặc biệt đối với các vụ án hình sự.
Như vậy, nếu thiệt hại xảy ra bởi sai lầm của tòa cấp cao nhất thì bên bị ảnh hưởng bởi các thiệt hại đó có thể làm gì? Có thể có một cách, và hầu hết các trường hợp chỉ có thể theo cách đó, là đi kiện mặc dù cơ hội để thắng kiện là rất hiếm. Điều này một lần nữa mang tính giả thuyết nhiều hơn là tính thực tế. Tuy nhiên về mặt lô-gic, bạn có thể kiện Nhà nước Nhật Bản theo Luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Với tuyên bố là quyết định của tòa án cấp cao nhất là bất hợp pháp và gây thiệt hại cho bạn, ít nhất bạn có thể kiện đòi nhà nước bồi thường. Bạn có thể cố gắng phản đối tính hợp pháp của quyết định đó tại một tòa sơ thẩm bình thường, ví dụ tòa án cấp huyện. Việc phản đối đó không phải là vụ kiện vì vấn đề kiện ở đây là hoàn toàn khác biệt vì không cần nói cũng thấy bên bị kiện là Nhà nước Nhật Bản. Bản thân việc kiện không phải là hợp pháp hay bất hợp pháp. Tòa án cấp huyện sẽ nhận đơn kiện của bạn như mọi trường hợp khác. Do Luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không loại trừ các hành động của hệ thống tòa án ra khỏi phạm vi áp dụng nên bất kỳ hành động nào của Nhà nước cũng có thể bị chất vấn theo quy định tại Luật này.
Tuy nhiên đừng quá lạc quan với điều đó. Có một tiền lệ của tòa án và được hiểu là "Ngay cả khi có sai sót trong xét xử ..., để khẳng định trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, phải đưa ra hoàn cảnh đặc biệt trong đó thẩm phán khi thực thi quyền hạn của mình đã vi phạm rõ ràng quyền hạn được trao; khi đó gọi là thẩm phán đã đưa ra phán quyết trái pháp luật hoặc với các mục đích phi pháp.” (Quyết định số 2 của Tòa Tối cao, 12/3/1972). Đây là vụ kiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước khi cho rằng phán quyết của một tòa cấp dưới là bất hợp pháp.
3. Tính chung thẩm của bản án nhìn từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, theo các giáo sư Samantha Hinderling và Pip Nichonlson
“…Một bản án chung thẩm của Tòa án Tối cao Liên bang không thể bị kháng cáo tiếp trong phạm vi hệ thống pháp luật Thụy Sỹ, đặc biệt không thể tới các cơ quan phi tư pháp.
Cụ thể hơn, Luật Tòa án Tối cao Liên bang (Bundesgerichtsgesetz, BGG) quy định rằng Tòa án Tối cao Liên bang độc lập trong thực thi nhiệm vụ tư pháp của mình và chỉ tuân theo pháp luật. Hơn nữa, Tòa án Tối cao Liên bang có thể tự mình hủy bỏ hoặc sửa đổi quyết định của mình theo pháp luật.
Khi Tòa án Tối cao Liên bang ban hành một bản án chung thẩm, phương thuốc duy nhất đối với một cá nhân hoặc pháp nhân là yêu cầu Tòa án Tối cao Liên bang sửa đổi bản án chung thẩm.
Thủ tục sửa đổi đó chỉ được thực hiện trong một số trường hợp rất hạn chế, bao gồm:
- nếu vi phạm các quy định liên quan đến thành phần hội đồng xét xử hoặc thay đổi một thẩm phán;
- nếu phán quyết cho một bên được kết quả nhiều hơn hoặc khác với những gì bên đó yêu cầu;
- nếu các khiếu kiện đơn lẻ chưa được xét xử;
- nếu Tòa án đã vô tình không xem xét các tình tiết phù hợp trong tài liệu đã có.
Ngoài ra, có thể yêu cầu sửa bản án nếu vi phạm bất cứ quy định nào của Công ước Nhân quyền Châu Âu hoặc các nghị định thư của Công ước theo phán quyết của Tòa án Nhân quyền của Liên minh Châu âu trong một bản án chung thẩm. Tuy nhiên, khả năng này chỉ có thể xảy ra trong trường hợp bồi thường thiệt hại là không thích hợp và việc sửa bản án là cần thiết để sửa chữa vi phạm đó.
Một căn cứ hợp pháp khác để có thể yêu cầu sửa bản án là trong trường hợp một bên biết về một tình tiết liên quan hoặc phát hiện ra chứng cứ mới đã không thể có được trong quá trình tố tụng trước đó. Trừ các tình tiết diễn ra sau khi bản án chung thẩm đã được tuyên.
Khi nhận yêu cầu sửa bản án, thẩm phán thụ lý yêu cầu (instructing judge (Instruktionsrichter)) có thể đình chỉ thi hành bản án kháng cáo.
Nếu Tòa án tối cao quyết định chấp nhận yêu cầu sửa bản án, bản án trước đó sẽ bị hủy bỏ và một bản án mới sẽ được đưa ra.
Tóm lại, điều này có nghĩa là một bản án chung thẩm của Tòa án Tối cao hầu như luôn luôn tuyệt đối và không thể bị kháng cáo tiếp. Trong một số trường hợp rất hạn chế, có thể yêu cầu sửa bản án, tuy nhiên, điều này có thể đòi hỏi Tòa án Tối cao hủy bản án chung thẩm của mình và quyết định một bản án mới. Cấp xét xử này rất ít khi xảy ra.
Một khi Tòa án Tối cao đã đưa ra một quyết định chung thẩm, mọi ngả đường pháp luật cho việc kháng cáo trong phạm vi hệ thống pháp luật Thụy Sỹ là không còn. Tuy nhiên, do Thụy Sỹ là thành viên của Công ước Nhân quyền Châu Âu, một cá nhân hoặc pháp nhân có thể khiếu nại đến Tòa án Nhân quyền Châu Âu nếu có nghi nghờ vi phạm bất cứ quyền nào quy định trong Công ước hoặc các nghị định thư của Công ước.
Cần phải lưu ý rằng trong khi các bản án của Tòa án Nhân quyền Châu Âu có giá trị ràng buộc các nước thành viên, Tòa án không hoạt động như một Tòa án kháng cáo như các tòa án trong nước và không thể hủy, thay đổi hoặc sửa đổi quyết định của các tòa án trong nước. Nhưng như đã nêu ở trên, một bản án chung thẩm của Tòa án Nhân quyền Châu Âu trao quyền cho một cá nhân hoặc pháp nhân yêu cầu Tòa án Tối cao Liên bang Thụy Sỹ sửa bản án theo Điều 122 của Luật Tòa án Liên bang”.
Đặng Hoàng Oanh, Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp
Bài có liên quan
Cục Công nghệ thông tin