Thực trạng xây dựng và thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam trong những năm vừa qua cho thấy, mặc dù Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC), mà hiệu lực cao nhất là Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi năm 2008), cùng với nhiều văn bản dưới luật nhưng nhìn chung, hệ thống pháp luật về XLVPHC vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, thiếu sót như: tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa nhiều quy định trong lĩnh vực này, nhiều quy định không cập nhật kịp với sự thay đổi của tình hình kinh tế, xã hội, nhiều quy định thiếu tính khả thi trong thực tế cũng như việc bỏ trống chưa điều chỉnh nhiều vấn đề liên quan đến xử lý vi phạm hành chính… Những thiếu sót, bất cập này đang ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật XLVPHC trong công tác đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội.
Trước tình hình ấy, việc nghiên cứu, đánh giá những vẫn đề tồn tại, bất cập hiện nay, từ đó làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung, tiến tới nâng cấp và pháp điển hoá hệ thống pháp luật về XLVPHC đang đặt ra như một vấn đề cấp bách và vô cùng cần thiết. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không có tham vọng và cũng không đủ điều kiện để đề cập sâu và toàn diện đến tất cả các vấn đề có liên quan thuộc về pháp luật XLVPHC vì đây là lĩnh vực rất rộng, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội, mà chỉ đề cập đến một lĩnh vực rất hẹp nhưng có liên quan mật thiết đến việc áp dụng và thi hành pháp luật về XLVPHC, đó là hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm của các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công vụ của mình. Với phạm vi vấn đề được giới hạn như vậy, bài viết này sẽ được chia làm 02 phần chính: phần một sẽ đề cập đến những vấn đề bất cập, tồn tại của hệ thống pháp luật về XLVPHC được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo (trong đó có cả những điểm bất cập trong hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo - đang là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thi hành về luật XLVPHC) và phần thứ hai sẽ là những kiến nghị, giải pháp làm cơ sở để bảo đảm thi hành Luật về XLVPHC trong thời gian tới.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ XỦ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐƯỢC PHÁT HIỆN QUA CÔNG TÁC THANH, KIỂM TRA VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo với việc xử lý vi phạm hành chính
Thanh tra, kiểm tra cũng như hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước là một trong những công cụ không thể thiếu đối với quản lý hành chính nhà nước. Ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần có thanh tra, kiểm tra. Tương tự, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, tổ chức liên quan mà quyền lợi bị xâm hại bởi hành vi hành chính hay quyết định hành chính từ phía cơ quan nhà nước cũng là một việc tất yếu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng này. Điều3 Luật Thanh tra năm 2004 quy định “hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Như vậy, nếu như XLVPHC là quá trình xem xét, giải quyết đối với những vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực quản lý nhà nước (mà chưa phải là tội phạm hình sự) thì thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo có thể coi là một trong nhiều kênh để phát hiện ra những vi phạm đó, cũng như phát hiện những thiếu sót, bất cập trong hệ thống pháp luật có liên quan. Ngược lại, nếu các quy định về XLVPHC mà chặt chẽ, đầy đủ sẽ giúp cho việc xử lý các vi phạm được phát hiện qua thanh tra chính xác, hợp lý, phù hợp với mức độ vi phạm và đáp ứng được yêu cầu về tính giáo dục, răn đe đối tượng vi phạm, thoả mãn mục đích của việc thanh tra, kiểm tra. Do vậy, có thể khẳng định công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ mật thiết đối với các vi phạm hành chính và việc xử lý các vi phạm này.
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra bao gồm nhiều văn bản như Luật Thanh tra năm 2004, Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra, Quyết định số 2151/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006 của Tổng Thanh tra ban hành Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra, Quyết định số 2861/2008/QĐ-TTCP ngày 22/12/2008 của Tổng Thanh tra về việc ban hành Quy chế giám sát, kiểm tra hoạt động Đoàn thanh tra. Các văn bản quy định về khiếu nại, tố cáo gồm có Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (và sửa đổi các năm 2004, 2005), Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo… Riêng đối với hoạt động kiểm tra thì được quy định tại rất nhiều văn bản và không thể thống kê hết, vì trong hoạt động của hầu hết các cơ quan, tổ chức đều đã có cơ chế tự kiểm tra. Còn đối với hoạt động kiểm tra từ phía cơ quan nhà nước với các đối tượng nằm trong phạm vi quản lý của mình thì thường là hoạt động có tính chất đơn giản hơn nhiều so với thanh tra, cho nên không cần thiết phải quy định trong một số văn bản chuyên biệt về kiểm tra. Do đó, trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi sử dụng khái niệm “thanh tra, kiểm tra” ở đây chủ yếu mang ý nghĩa là hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước đối với các đối tượng thanh tra, mà không bao hàm hoạt động tự kiểm tra của bản thân các đối tượng cũng như việc kiểm tra nhỏ lẻ, đơn giản trong hoạt động quản lý nhà nước thông thường.
Thực tiễn hoạt động thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo những năm vừa qua cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được trong việc phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những hành vi vi phạm hành chính của các cá nhân, tổ chức liên quan, vẫn còn tồn tại một số vấn đề về mặt cơ chế cần phải xem xét thêm trong hệ thống pháp luật về thanh, kiểm tra cũng như về XLVPHC. Những vấn đề này sẽ được đề cập trong các phần dưới đây.
2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Hiện nay, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã dành hẳn một chương (chương IV, từ Điều 28 đến Điều 42) để quy định chi tiết các đối tượng có thẩm quyền tiến hành xử phạt cũng như một số vấn đề liên quan đến việc xác định thẩm quyền xử phạt. Để cụ thể hóa hơn việc xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực chuyên ngành, nhiều bộ, ngành đã tham mưu, xây dựng và trình Chính phủ ban hành các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực chuyên ngành đó. Trong các văn bản này, thẩm quyền xử phạt của đối tượng đã được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC sẽ được quy định chi tiết hơn nữa, gắn với từng loại hành vi vi phạm cụ thể trong từng lĩnh vực. Như vậy, nhìn vào những quy định này, có thể thấy phạm vi những chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử phạt vi phạm hành chính là khá rộng, bao gồm nhiều vị trí, chức danh cụ thể trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, có một số vấn đề nổi lên ở đây cần phải xem xét:
Thứ nhất, Pháp lệnh XLVPHC và các Nghị định về XPVPHC chuyên ngành thường quy định đối tượng có thẩm quyền xử phạt là tên một chức danh cụ thể, ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp, chiến sỹ công an nhân dân, Trưởng công an xã, Đội trưởng Đội nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan, Cục trưởng Cục Hải quan, kiểm lâm viên…. Quy định này có ưu điểm là chỉ đích danh chỉ những người này mới có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trên thực tế, có rất nhiều trường hợp tên các chức danh này bị thay đổi do sự đổi tên, sáp nhập, chia tách, giải thể… các cơ quan nhà nước nhất định, khi đó thì vị trí các chức danh, nhiệm vụ, quyền hạn của họ - những người có thẩm quyền XLVPHC có thể bị thay đổi theo. Như vậy, liệu các chức danh mới (tương đương hoặc không tương đương) sẽ có thẩm quyền xử lý VPHC đến đâu? Thẩm quyền XLVPHC có tính kế thừa hay không, hay sẽ phải ban hành một Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh cũ để quy định thẩm quyền xử phạt của những chủ thể có sự thay đổi về tên gọi, chức vụ này? Rõ ràng, các văn bản pháp luật về XLVPHC hiện hành chưa có những quy định dự liệu về việc này.
Thứ hai, PLXLVPHC đóng vai trò là văn bản mang tính quy định những vấn đề chung nhất, nguyên tắc nhất của việc XLVPHC. Để triển khai những quy định này vào trong các trường hợp cụ thể của cuộc sống, một hệ thống các Nghị định quy định về XPVPHC trong các lĩnh vực chuyên ngành đã được ban hành. Tuy nhiên, quản lý hành chính nhà nước là một phạm trù rất rộng lớn, bao trùm rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Mặc dù các ngành, các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng hệ thống văn bản về XLVPHC trong lĩnh vực của mình nhưng có thể khẳng định chắc chắn một điều là sẽ còn rất nhiều loại hành vi vi phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt chưa có văn bản pháp luật nào về XLVPHC điều chỉnh. Rơi vào tình trạng này có thể có 2 trường hợp: hoặc là lĩnh vực chuyên ngành mà hành vi gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân phát sinh chưa có văn bản điều chỉnh hoặc là tuy lĩnh vực chuyên ngành đã có văn bản điều chỉnh song hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật lại là rất mới, chưa có điều luật nào quy định phải bị xử lý bằng các biện pháp XLVPHC. Như vậy, khi các hành vi dạng này nảy sinh, do chưa có quy dịnh nào điều chỉnh nên cũng không thể xác định được ai sẽ là chủ thể có thẩm quyền để ngăn chặn những hành vi này.
Thứ ba, Pháp lệnh XLVPHC quy định trong lĩnh vực thanh tra, chỉ có thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ mới có thẩm quyền XLVPHC, còn thanh tra viên hành chính không có thẩm quyền này. Theo quy định của pháp luật về thanh tra thì thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp. Còn thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Mặc dù pháp luật đã có định nghĩa khá rõ như trên để phân biệt giữa hai loại hoạt động thanh tra này, nhưng trên thực tế trong nhiều trường hợp, việc xác định rạch ròi thế nào là hoạt động thanh tra hành chính và thế nào là thanh tra chuyên ngành vẫn còn có sự nhầm lẫn, chưa thống nhất ở một vài nơi, vài lúc, trong một vài trường hợp. Điều này có thể dẫn đến khả năng sẽ xảy ra một số tình huống là ngay bản thân cơ quan thanh tra cũng có thể bị nhầm lẫn trong việc xác định loại hoạt động thanh tra và như vậy, sẽ kéo theo hậu quả tất yếu là chưa xác định đúng thẩm quyền của thanh tra viên tham gia hoạt động thanh tra đó có được quyền xử phạt hay không. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, việc phân biệt giữa thanh tra viên “hành chính” và thanh tra viên “chuyên ngành” có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính khác nhau là chưa công bằng, vì lý do hệ thống pháp luật về thanh tra không có sự phân biệt giữa hai loại thanh tra viên nói trên (không khác nhau về trình độ, tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ mà chỉ phân biệt khi thanh tra viên đó tham gia vào Đoàn thanh tra loại nào: chuyên ngành hay hành chính). Trong khi thanh tra viên chuyên ngành, trước những vi phạm hành chính nhất định sẽ có thẩm quyền xử lý nhất định (phạt cảnh cáo; phạt tiền đến 500.000 đồng; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng hoặc áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả, trừ biện pháp buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép)thì thanh tra viên hành chính lại không được pháp luật trao cho quyền này, mà chỉ có quyền kiến nghị để cấp có thẩm quyền xử lý (trong quá trình thanh tra hành chính, các thanh tra viên cũng có thể phát hiện các đối tượng liên quan - không phải là cấp dưới trực tiếp của mình - có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngành mình quản lý và cần thiết phải xử lý đối với các vi phạm này). Như vậy, việc này sẽ làm kéo dài thời gian để xử lý vụ việc và rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu về việc xử lý “kịp thời” các hành vi vi phạm hành chính. Thêm nữa, cũng cần đề cập đến vấn đề hiện nay pháp luật về XLVPHC đã không trao quyền cho Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành có quyền xử lý vi phạm hành chính, trong khi Thanh tra viên chuyên ngành khi thi hành công vụ lại có quyền này. Rõ ràng, trong phạm vi một đoàn thanh tra chuyên ngành, vai trò của Trưởng đoàn thanh tra là rất quan trọng, chỉ đạo trực tiếp việc thanh tra, kiểm tra của Thanh tra viên, tuy nhiên họ lại không có quyền xử lý vi phạm hành chính như “cấp dưới” của mình (với tư cách là Trưởng đoàn thanh tra, chứ không phải với tư cách cũng là thanh tra viên). Quy định này của pháp luật về XLVPHC hiện nay là có sự mâu thuẫn với quy định tại khoản 3, Điều 49 Luật Thanh tra năm 2004 khi cho rằng Trưởng đoàn thanh tra cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Được biết, trong dự thảo Luật Thanh tra sửa đổi sắp tới, sẽ có thêm loại hình cơ quan thanh tra cấp Tổng cục, trực thuộc Thanh tra Bộ. Với sự xuất hiện của một “cấp” thanh tra mới này, đòi hỏi (dự án) Luật về XLVPHC sẽ phải cân nhắc và có phương án điều chỉnh thích hợp, đảm bảo sự tương thích của hệ thống pháp luật.
3. Về mức xử phạt tiền:
Phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính trong pháp luật về XLVPHC, được áp dụng trong trường hợp mà mức độ, tính chất của vi phạm hành chính là khá nghiêm trọng, cần thiết phải áp dụng hình thức xử phạt nặng hơn là cảnh cáo. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể về mức phạt tiền đối với rất nhiều loại hành vi vi phạm hành chính thì có thể thấy mức phạt tiền là thấp, nếu không nói là quá thấp trong nhiều trường hợp, không đảm bảo được mục đích răn đe, phòng ngừa cho nhiều trường hợp vi phạm hành chính về sau.
Điều 14 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 quy định: “Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng” và “căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau: phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ các công trình giao thông; quản lý và bảo vệ công trình thủy lợi; lao động; đo lường và chất lượng hàng hóa; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội. Phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường thủy; văn hóa - thông tin; du lịch; phòng, chống tệ nạn xã hội; đất đai; đê điều và phòng chống lụt, bão; y tế; giá; điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thú y; quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản; quốc phòng; an ninh. Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: thương mại; hải quan; bảo vệ môi trường; an toàn và kiểm soát bức xạ; trật tự, an toàn giao thông đường sắt; xây dựng; bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện; chứng khoán; ngân hàng; chuyển giao công nghệ. Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: khoáng sản; sở hữu trí tuệ; hàng hải; hàng không dân dụng; thuế (trừ trường hợp các luật về thuế có quy định khác). Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm nghiên cứu, thăm dò, khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác. Những hành vi vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được quy định tại khoản 2 Điều này thì Chính phủ quy định mức phạt tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng”.
Đến Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, mức phạt tiền đã được nâng lên một mức: “mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng”, “Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định như sau: phạt tiền tối đa đến 30.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quản lý và bảo vệ các công trình giao thông; khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi; lao động; đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hoá; kế toán; thống kê; tư pháp; bảo hiểm xã hội; phòng cháy, chữa cháy. Phạt tiền tối đa đến 40.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: giao thông đường bộ; giao thông đường thủy nội địa; văn hoá - thông tin; du lịch; phòng, chống tệ nạn xã hội; đê điều, phòng chống lụt, bão; y tế; giá; điện lực; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; thú y; giống cây trồng; giống vật nuôi; quốc phòng; dân số và trẻ em; lao động đi làm việc ở nước ngoài; dạy nghề; biên giới quốc gia. Phạt tiền tối đa đến 70.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: thương mại; phí, lệ phí; hải quan; an toàn và kiểm soát bức xạ; giao thông đường sắt; bưu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện; chuyển giao công nghệ; kinh doanh bảo hiểm; quản lý vật liệu nổ công nghiệp; thể dục, thể thao. Phạt tiền tối đa đến 100.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: hàng hải; hàng không dân dụng; khoa học, công nghệ; đo đạc, bản đồ; giáo dục; công nghệ thông tin; tài nguyên nước; thuế. Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các loại khoáng sản khác. Đối với hành vi vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quản lý nhà nước chưa được quy định tại khoản 2 Điều này thì Chính phủ quy định mức phạt tiền, nhưng tối đa không vượt quá 100.000.000 đồng”.
Như vậy, mặc dù so sánh với Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 thì Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 đã nâng mức phạt lên ở một số lĩnh vực. Tuy nhiên, nếu so với mức độ trượt giá của đồng tiền Việt Nam, mức tăng trưởng của nền kinh tế và tốc độ lạm phát cao thì rõ ràng mức phạt tiền này trong nhiều trường hợp là quá thấp, bất hợp lý. Ví dụ: mức phạt tiền thấp nhất có thể là 10.000 VNĐ, nhưng, nếu xử phạt một trường hợp vi phạm hành chính nào đó với mức 10.000VNĐ như này thì có đảm bảo được mục đích giáo dục, răn đe người vi phạm hay không? Hoặc quy định phạt tiền tối đa đến 20 triệu đồng trong lĩnh vực đo lường chất lượng hàng hoá (trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002) và nay là tối đa đến 30 triệu đồng thì có nhiều ý kiến cho rằng với mức tiền này vẫn không thể theo kịp lạm phát và trượt giá của nền kinh tế, cũng như “nếu chỉ phạt với mức này thì không tương xứng với tính chất mức độ vi phạm đó”.Hệ quả tất yếu của việc quy định mức xử phạt quá thấp, không theo kịp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước là việc người dân sẽ “nhờn” luật. Ví dụ, trước đây hành vi không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng xe máy chỉ bị phạt có 20.000 đồng, nhưng khi nâng mức lên 150.000 đồng đã có tác động rất tích cực và góp phần tạo thành thói quen cho người dân. Rõ ràng, mức phạt tiền là rất quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng và chống vi phạm hành chính. Do đó, Pháp lệnh XLVPHC hiện nay cần thiết phải tính đến việc nâng cao mức xử phạt tiền này.
4. Về thủ tục tiến hành xử phạt vi phạm hành chính:
Hiện nay, căn cứ theo quy định của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi năm 2008, Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh XLVPHC thì có thể thấy có hai loại thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đang được áp dụng là thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản. Thủ tục đơn giản áp dụng đối với những vi phạm hành chính đơn giản, nhỏ lẻ, rõ ràng, vụ việc không có nhiều tình tiết phức tạp đến mức cần phải xác minh thêm. Với loại vi phạm này, người có thẩm quyền có thể ra quyết định xử phạt ngay và đối tượng vi phạm có thể tiến hành nộp phạt ngay tại chỗ. Có thể nói thủ tục này là rất đơn giản, gọn nhẹ và nên được duy trì trong quy định về xử lý vi phạm hành chính. Loại thủ tục thứ hai là thủ tục xử phạt cần phải lập biên bản, được áp dụng đối với những vi phạm có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hơn. Trong công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các Thanh tra viên và những người có thẩm quyền trong cơ quan thanh tra thường xuyên gặp phải các loại hành vi vi phạm hành chính, từ đơn giản đến phức tạp. Quá trình xử lý các hành vi vi phạm này cho thấy việc áp dụng cả hai loại thủ tục xử phạt như trên là rất cần thiết, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả cho công tác thanh tra, kiểm tra được nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy hai loại thủ tục xử phạt trên hiện nay đang gặp phải một số điểm bất cập, đòi hỏi các cơ quan xây dựng pháp luật cần nghiên cứu và có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình. Với thủ tục đơn giản, hiện pháp luật quy định mức phạt tối đa có thể áp dụng thủ tục này là 200.000VNĐ. Tuy nhiên rất nhiều ý kiến cho rằng mức tiền phạt tối đa này là vẫn còn quá thấp, chưa phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay và với quy định này thì nhiều vụ việc chưa thể xử phạt bằng thủ tục này.Đối với loại thủ tục xử phạt có lập biên bản thì hiện nay, mẫu biên bản xử phạt còn quá dài dòng, chứa nhiều thông tin không cần thiết, rườm rà, không phù hợp với thực tiễn. Do đó trong nhiều trường hợp, cơ quan có thẩm quyền xử phạt để tránh sự rắc rối khi sử dụng mẫu biên bản đã chuyển ngay sang sử dụng thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều lần. Kết quả là nhiều hành vi vi phạm đã không được xử lý thỏa đáng.
5. Về cơ chế bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Pháp luật về XLVPHC đã có một loạt các quy định về hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục… nhưng hiện tại lại đang rất thiếu các quy định về việc bảo đảm thi hành quyết định xử phạt. Mặc dù Điều 66, 67 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và 2008 đã quy định rõ về các biện pháp cưỡng chế quyết định xử phạt, cũng như những cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế nhưng hiện nay, việc cưỡng chế để bắt đối tượng vi phạm phải tuân thủ nghiêm túc quyết định xử phạt VPHC vẫn gặp nhiều khó khắn, xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết là chưa có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan về việc cưỡng chế. Một ví dụ đơn giản là biện pháp cưỡng chế bằng cách khấu trừ tiền từ tài khoản ngân hàng, trong những trường hợp này, không phải ngân hàng nào (nhất là các ngân hàng ngoài quốc doanh) cũng sẵn sàng phối hợp cùng cơ quan nhà nước để khấu trừ tiền trong tài khoản của khách hàng của mình.Thứ hai là việc bản thân các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế cũng không có đầy đủ lực lượng để tiến hành cưỡng chế. Ví dụ: một quyết định xử phạt của Chánh Thanh tra cấp Bộ yêu cầu một doanh nghiệp phải nộp phạt 1 tỷ VNĐ, nhưng doanh nghiệp này không chịu nộp phạt khi hết hạn, để cưỡng chế doanh nghiệp trên, Chánh Thanh tra Bộ không thể tự mình triệu tập lực lượng trong ngành của mình để xuống cưỡng chế mà bắt buộc phải có sự phối hợp với các ban ngành chức năng ở địa phương để tiến hành cưỡng chế. Tuy nhiên, để phối hợp cùng với đầy đủ cơ quan ban ngành địa phương tiến hành cưỡng chế lại không phải là việc đơn giản. Chính vì vậy mà việc bảo đảm thi hành cho quyết định xử lý vi phạm hành chính luôn luôn được nghiêm túc thi hành là bài toán không hề dễ dàng. Mặc dù hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC, tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề khó thực hiện trong thực tế đối với công tác này. Vì trên thực tế, rất nhiều hành vi vi phạm hành chính là các hành vi nhỏ lẻ, nên khi bị phát hiện, xử lý thì mức phạt tiền có thể sẽ là rất nhỏ. Như vậy, không phải cứ có bất kỳ trường hợp nào không chấp hành nghiêm túc quyết định xử phạt thì cũng phải tiến hành cưỡng chế (vì số tiền phải thu là rất nhỏ, trong khi chi phí cưỡng chế sẽ là rất lớn, dù rằng chi phí này người phải chấp hành quyết định xử phạt sẽ phải trả). Do đó, vấn đề quan trọng cần bàn tới là việc sẽ cần cơ chế nào để bảo đảm đối tượng vi phạm hành chính sẽ nghiêm túc thực hiện quyết định xử phạt mà không cần dùng biện pháp cưỡng chế (dù số tiền phạt là nhều hay ít)?
Liên quan đến vấn đề này, Điều 43 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đã quy định về các biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm việc xử lý VPHC, trong đó có biện pháp “tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”. Tuy nhiên, trong công tác thanh tra, có nhiều trường hợp cơ quan thanh tra tiến hành xử phạt đối với đối tượng vi phạm nhưng đối tượng này không có tang vật, phương tiện gì để tạm giữ, chỉ có giấy phép hoạt động trong ngành, nghề, lĩnh vực đó thì liệu có thể coi giấy phép đó chính là “phương tiện vi phạm” hay không. Nếu như không coi là phương tiện vi phạm để thu giữ thì sẽ không có cơ chế gì để bảo đảm đối tượng sẽ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử phạt, còn nếu coi là “phương tiện vi phạm” thì cũng có điểm không hợp lý về mặt lý luận, vì “phương tiện vi phạm” theo cách hiểu thông thường phải là những công cụ, đồ vật được sử dụng như một sự hỗ trợ trực tiếp vào hoạt động vi phạm của đối tượng, chứ không phải là giấy phép hoạt động (được coi là điều kiện hoạt động) của đối tượng đó. Trường hợp không coi là phương tiện vi phạm, mà coi nó thuộc dạng “giấy tờ cần thiết khác có liên quan” để tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 thì lại có điểm bất cập là chỉ áp dụng được trong trường hợp “áp dụng hình thức phạt tiền”, chứ không áp dụng các hình thức khác, biện pháp xử lý khác (khoản 3 Điều 57 quy định: “trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt có quyền tạm giữ giấy phép lưu hành phương tiện hoặc giấy phép lái xe hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan cho đến khi cá nhân, tổ chức đó chấp hành xong quyết định xử phạt. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không có những giấy tờ nói trên, thì người có thẩm quyền xử phạt có thể tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm”).
Ngoài ra, pháp luật hiện nay cũng chưa có quy định về việc nếu đối tượng vi phạm vẫn cố tình không chấp hành quyết định xử phạt thì sẽ xử lý thế nào, tiếp tục xử phạt với một mức nặng hơn hay sẽ xem xét chuyển sang một hình thức xử lý khác, ví dụ truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Về cơ chế giám sát việc phát hiện và xử lý vi phạm hành chính:
Mặc dù pháp luật hiện hành quy định về nguyên tắc mọi công dân, cơ quan, tổ chức đều có quyền và nghĩa vụ giám sát, phát hiện để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm hành chính, tuy nhiên quy định này mới chỉ mang tính chất định hướng, chung chung chứ chưa có cơ chế cụ thể để có thể huy động sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc phòng và chống vi phạm hành chính. Trên thực tế, trách nhiệm phát hiện, xử lý các vi phạm hành chính mới chỉ chủ yếu thuộc về phía các cơ quan nhà nước, trong đó một phần đáng kể là do các cơ quan thanh tra phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ở nhiều nơi, nhiều lúc, người dân vẫn còn có tâm lý bao che cho các vi phạm với tâm lý ngại va chạm với các đối tượng vi phạm hoặc có ý nghĩ “có tố giác ra cũng chẳng đem lại lợi ích gì”. Vi phạm hành chính là loại vi phạm diễn ra hàng ngày, hàng giờ với nhiều dạng khác nhau, tính chất mức độ khác nhau, cho nên nếu chỉ trông chờ từ riêng phía cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan thanh tra nói riêng thì sẽ không thể nào phát hiện và xử lý hết các vi phạm này trong cuộc sống. Điều này đòi hỏi pháp luật cần phải có cơ chế hiệu quả để xã hội hóa công tác phòng và chống vi phạm hành chính thì mới đem lại hiệu quả.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH QUA CÔNG TÁC THANH, KIỂM TRA VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Từ một số điểm bất cập như đã phân tích ở trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm thi hành Luật về xử lý vi phạm hành chính như sau:
1. Về thẩm quyền xử phạt và mức phạt:
Luật về XLVPHC cần tăng thẩm quyền xử phạt hơn cho các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xử phạt trong Pháp lệnh XLVPHC hiện hành. Rất nhiều ý kiến cho rằng thẩm quyền xử phạt của một số đối tượng hiện nay là còn hạn chế, kèm với đó là mức xử phạt pháp luật quy định đối với những hành vi nhất định là còn thấp. Do đó, để tăng tính hiệu lực, hiệu quả của việc phòng và chống vi phạm hành chính thì cần thiết phải trao thêm quyền cho người có thẩm quyền và nâng mức xử phạt lên tương xứng với tình hình. Ví dụ: hiện nay Pháp lệnh XLVPHC (sửa đổi) năm 2008 quy định Thanh tra viên chuyên ngành có thẩm quyền phạt tiền đến 500.000 đồng. Theo quan điểm cá nhân, mức phạt này vẫn là rất thấp, nhất là đặt trong tình hình kinh tế xã hội hiện nay, số tiền 500.000 đồng đã trở thành quá nhỏ bé. Do đó, mức phạt tiền tối đa này nên tăng ít nhất đến 2.000.000 đồng thì mới là hợp lý. Ở phạm vi rộng, Luật về XLVPHC nên có quy định mở theo hướng, các mức phạt tiền cần phải được điều chỉnh theo tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường, mức lạm phát của nền kinh tế….chứ không nên quy định cứng nhắc một mức phù hợp với tình hình hiện tại (ở thời điểm xây dựng Luật) nhưng sẽ tỏ ra lạc hậu, lỗi thời sau một thời gian áp dụng.
Liên quan đến việc thành lập mới, hoặc chia tách, giải thể các cơ quan hành chính làm mất đi/ hoặc phát sinh các chức danh mới, cơ quan mới mà cũng có thẩm quyền xử lý VPHC, Luật về XLVPHC cũng nên cân nhắc để có quy định về việc chuyển giao, kế thừa thẩm quyền XLVPHC, thay vì việc phải sửa đổi cả Luật về việc quy định thẩm quyền cho các đối tượng này (như cách sửa đổi trong Pháp lệnh năm 2008).
Trong lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, theo quan điểm cá nhân thì Luật về XLVPHC sắp tới cần nghiên cứu, cân nhắc thêm về khả năng cho phép Thanh tra viên hành chính thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong những trường hợp nhất định để đảm bảo yêu cầu về tính “kịp thời” khi phát hiện vi phạm. Đồng thời, cần trao cho Trưởng đoàn thanh tra (nhất là Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành) thẩm quyền XLVPHC với mức cao hơn mức của Thanh tra viên cho phù hợp (vì hiện nay nếu phát hiện mức xử phạt tiền cao hơn 500.000 thì Thanh tra viên không có quyền xử phạt, lại phải báo cáo lên Chánh Thanh tra cấp sở hoặc bộ mới có thể tiến hành xử phạt được. Việc này làm mất thời gian hơn trong việc xử lý vi phạm và khắc phục ngay hậu quả của vi phạm). Hệ thống pháp luật về thanh tra cũng cần hoàn thiện khi quy định về cơ cấu hệ thống cơ quan thanh tra, đảm bảo xây dựng được một hệ thống cơ quan thống nhất từ trung ương tới địa phương, đủ khả năng và thẩm quyền để có thể phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính nảy sinh trong hoạt động quản lý nhà nước.
Ngoài ra, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, Luật về XLVPHC còn nên tăng thêm quyền cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để áp dụng biện pháp nhất định trong quá trình xác minh điều tra, tìm ra các sai phạm trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Việc này là rất quan trọng vì trong thực tế, cơ quan thanh tra chỉ có thể áp dụng những biện pháp điều tra, xác minh nhất định chứ không có đủ điều kiện và phương tiện để tiến hành nghiệp vụ điều tra sâu như các cơ quan điều tra chuyên trách. Chính vì vậy mà khả năng phát hiện vi phạm hành chính là không thể nhanh chóng so với các cơ quan điều tra. Do đó, trước tình hình các loại vi phạm hành chính ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp thì việc mở rộng thêm quyền hạn cho các cơ quan thanh tra theo hướng như trên rõ ràng là rất cần thiết. Song song với việc này, về phía các cơ quan thanh tra nhà nước, cũng cần phải có kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thanh tra về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng xác minh, điều tra, phát hiện vi phạm. Giải quyết được đồng bộ các vấn đề này sẽ là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính trong tình hình mới.
2. Về thủ tục tiến hành xử phạt:
Chúng tôi cho rằng, vẫn nên duy trì hai hình thức hiện đang áp dụng là thủ tục xử phạt đơn giản và xử phạt có lập biên bản. Tuy nhiên, cần khắc phục ngay những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng hai hình thức này. Đối với thủ tục xử phạt đơn giản, nên nâng mức xử phạt tối đa của hình thức này lên ít nhất là 500.000 đồng mới phù hợp với tình hình hiện nay (nhưng rất có thể sẽ là thấp sau một thời gian ngắn nữa, khi đó vấn đề lại quay trở lại là cần có quy định mở để cập nhật theo sự phát triển của tình hình như đã nói ở trên). Hiện tại, mức xử phạt tối đa là 200.000 đồng được quy định áp dụng đối với không nhiều các hành vi vi phạm (đặc biệt là các vi phạm trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, lĩnh vực giao thông đường bộ theo quy định của Nghị định số 150/2005/NĐ-CP, Nghị dịnh số 146/2007/NĐ-CP của Chính phủ).Do đó, nếu cứ quy định xử phạt đơn giản đối với số ít hành vi này thì hiệu quả áp dụng sẽ là không đáng kể. Đối với thủ tục xử phạt có lập biên bản thì cần phải cải tiến ngay các mẫu biên bản xử phạt. Một số ý kiến cho rằng không nên quy định một loại mẫu biên bản xử phạt cứng nhắc như hiện nay mà nên giao việc xây dựng mẫu xử phạt cho các bộ, ngành để “vừa đảm bảo yêu cầu của thực tiễn, vừa đúng pháp luật”.
3. Về cơ chế bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Theo chúng tôi, Luật về XLVPHC cần phải quy định theo hướng siết chặt hơn về cơ chế bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đặc biệt là những loại vi phạm nhỏ. Thực tế chứng minh rằng khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm chính nhưng lại không nắm giữ một số giấy tờ hay phương tiện hay tài sản gì đó của đối tượng vi phạm thì rất khó có biện pháp nào bảo đảm rằng đối tượng vi phạm sẽ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử phạt. Tuy nhiên, cũng sẽ là không hợp lý khi quy định trong mọi trường hợp người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có quyền tạm giữ giấy tờ, phương tiện của đối tượng vi phạm vì việc này còn tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm của từng hành vi nhất định. Đối với những vi phạm mà mức xử phạt thấp như này, có thể nghiên cứu kinh nghiệm về cách thức xử phạt ở một số nước phát triển. Ví dụ, tại Úc khi phát hiện một hành vi vi phạm hành chính nhỏ như trốn vé khi đi trên các phương tiện giao thông công cộng của nhà nước, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành lập biên bản, xác định địa chỉ của người vi phạm (thông qua việc gọi điện trực tiếp cho một vài người theo thông tin của người vi phạm cung cấp để xác nhận sự đúng đắn của địa chỉ được cung cấp), sau đó sẽ gửi giấy phạt về địa chỉ của người vi phạm. Sau một khoảng thời gian ấn định cho người vi phạm nộp tiền hoặc giải trình nếu thấy quyết định xử phạt là không đúng mà người vi phạm không nộp tiền hoặc không có giải trình thì cơ quan có thẩm quyền xử phạt tiếp tục gửi một giấy phạt nữa, nhắc lại quyết định xử phạt và phạt thêm tiền chậm nộp. Nếu người vi phạm vẫn tiếp tục không nộp phạt thì vụ việc sẽ được chuyển đến cơ quan tư pháp để xem xét việc mở vụ án xét xử về hành vi này. Như vậy, với cách xử lý như vậy thì rõ ràng cơ quan có thẩm quyền không cần phải tạm giữ một giấy tờ nào của người vi phạm nhưng vẫn làm cho đối tượng vi phạm phải nghiêm túc chấp hành quyết định xử phạt.
Ở Việt Nam, đối với những loại vi phạm hành chính có mức xử phạt lớn, cần nghiên cứu cơ chế để việc cưỡng chế được tiến hành hiệu quả. Nếu như trong việc thi hành các bản án của Toà án thì đã có cơ quan chuyên trách về thi hành án dân sự, hình sự đảm nhiệm thì có thể thấy, trong lĩnh vực thi hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, chưa có một cơ quan đầu mối nào đảm nhận việc này. Về mặt lý thuyết, việc thành lập một cơ quan có nhiệm vụ thi hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên phạm vi toàn quốc là khó khả thi. Tuy nhiên, đây cũng có thể là một hướng đi cần cân nhắc khi nghiên cứu việc nên thành lập, giao cho một số cơ quan, ở từng địa phương nhất định làm đầu mối trong việc theo dõi, giám sát và chịu trách nhiệm thi hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính mà không được chấp hành nghiêm chỉnh (những trường hợp vi phạm mà đối tượng vi phạm trây ỳ, trốn tránh việc tuân thủ quyết định xử phạt, những trường hợp vụ việc phức tạp, cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành mới cưỡng chế được…).
4. Về cơ chế giám sát việc phát hiện và xử lý vi phạm hành chính
Cần có quy định khuyến khích sự tham gia của các tầng lớp xã hội trong việc phát hiện và xử lý vi phạm hành chính, thay vì việc trách nhiệm này chỉ thuộc về các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó có các cơ quan thanh tra. Điều 120 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định “cá nhân, tổ chức có thành tích trong đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính được khen thưởng theo chế độ chung của Nhà nước. Nghiêm cấm việc sử dụng tiền thu được từ xử phạt vi phạm hành chính hoặc từ bán tang vật, phương tiện bị tịch thu để trích thưởng”. Quy định này rõ ràng là còn mang tính chất rất chung chung trong việc khen thưởng những người có công trong việc phát hiện và thông báo vi phạm hành chính để cơ quan có thẩm quyền xử lý. Tuy nhiên, hình thức khen thưởng thế nào và mức khen thưởng ra làm sao hiện vẫn còn chưa rõ ràng. Như phía trên đã phân tích, tâm lý chung của nhiều người dân là thờ ơ với những vi phạm không liên quan gì đến mình, cho nên nếu Nhà nước không có quy định cụ thể để khuyến khích người dân phát hiện vi phạm thì sẽ còn vô số trường hợp vi phạm bị bỏ lọt, không xử lý được. Theo quan điểm cá nhân tôi, nên gắn chặt vấn đề lợi ích đối với việc phát hiện, tố giác vi phạm của người dân trước khi đòi hỏi mỗi công dân đều có ý thức cao trong việc phòng và chống các loại vi phạm pháp luật. Muốn làm được việc này, cần thiết phải quy định rõ hình thức và mức khen thưởng dành cho những người có công phát hiện vi phạm hành chính, đồng thời với việc giữ gìn bí mật thông tin liên quan đến người trình báo vi phạm. Làm được việc này, tôi cho rằng Nhà nước sẽ khuyến khích được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào công cuộc phòng và chống vi phạm hành chính trong xã hội.
Đó là một số vấn đề liên quan đến cơ chế bảo đảm thi hành luật thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong quá trình thực thi các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính mà chúng tôi muốn trình bày tóm tắt trong bài viết này./.
Hoàng Quốc Hùng – Thanh tra Bộ Tư pháp