Ở nước ta, hợp tác quốc tế về pháp luật được hiểu là các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật có sự tham gia hoặc tài trợ của nước ngoài trong các lĩnh vực: soạn thảo, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; giám sát việc thi hành pháp luật; tăng cường năng lực của các cơ quan xây dựng pháp luật, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp; đào tạo luật ở bậc đại học và sau đại học, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ của cán bộ, công chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, thẩm phán, thẩm tra viên toà án, thư ký toà án, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án, trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, cán bộ thi hành án hình sự, trọng tài viên, công chứng viên, đăng ký viên, luật sư và các chức danh tư pháp khác; thông tin pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý (căn cứ pháp lý: Điều 3 Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2008 về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật). Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, hợp tác pháp luật (legal cooperation/coopération juridique) được hiểu rộng hơn, bao gồm mọi hình thức hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp (tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự; các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật; bảo vệ trẻ em và hợp tác trong nuôi con nuôi quốc tế; các hoạt động hợp tác cụ thể như hỗ trợ chuyên gia tư vấn, cung cấp trang thiết bị, trao đổi sách báo, thông tin, tài liệu, trao đổi đoàn chuyên gia, các chuyến thăm cấp cao...[1]. Hình thức hợp tác rất đa dạng, có thể dựa trên điều ước/thoả thuận quốc tế song phương/đa phương hoặc cũng có thể dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc của hợp tác quốc tế về pháp luật, cũng như nguyên tắc hợp tác nói chung, đó là bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi và tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Hợp tác quốc tế về pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần vào mở rộng, củng cố và tăng cường mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia nói chung, mang lại những lợi ích thiết thực về kinh tế-xã hội, quốc phòng và an ninh. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi khái quát, hệ thống hoá quy trình vận động, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các dự án, chương trình hợp tác với nước ngoài về pháp luật (sau đây gọi tắt là các dự án HTPL) nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về “vòng đời” của các dự án HTPL với mong muốn giúp cho các cơ quan, tổ chức và các cán bộ trực tiếp thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng các quy trình hợp tác; đồng thời nêu ra một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện về mặt thể chế trong thời gian tới.
Hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật hiện nay chủ yếu bao gồm:
- Quyết định số 101-QĐ-TW ngày 04/6/2004 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại;
- Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp (thay thế Chỉ thị số 57 của Ban Bí thư năm 1995);
- Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005;
- Pháp lệnh ký kết và thực hiện thoả thuận quốc tế năm 2007;
- Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 của Chính phủ về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật;
- Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA);
- Nghị định số 93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức;
- Quyết định 122/2001/QĐ-TTg ngày 21/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam;
- Quyết định 290/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010”.
Xét về tính chất thì các dự án HTQT có cả hai loại: dự án ODA và dự án phi chính phủ. Quy trình của hai loại dự án này tuy có một số điểm khác biệt song về cơ bản là giống nhau, do đó chúng tôi cố gắng gộp những điểm giống nhau của hai quy trình này để tiện theo dõi, đồng thời phân tích kỹ những điểm khác biệt.
Trước khi đề cập đến quy trình vận động, hình thành các dự án HTPL, cần nắm vững các nguyên tắc, định hướng hợp tác như sau:
- Giữ vững nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội;
- Đa dạng hoá, đa phương hoá, tăng cường ký kết các thoả thuận song phương theo nguyên tắc có đi có lại; nâng cao tính hiệu quả,
phát huy những tác dụng tích cực của các chương trình, dự án đã được ký kết; đưa các mối quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu;
- Lựa chọn nội dung, đối tác và hình thức hợp tác hợp lý, thiết thực;
- Bảo đảm quản lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định, công khai, minh bạch các nguồn kinh phí của các chương trình, dự án; tránh quan niệm ODA là nguồn “cho không”;
- Việc tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm tốt của các nước phải có chọn lọc, phù hợp với truyền thống và thực tiễn Việt Nam; đồng thời bảo đảm sự tương thích của pháp luật trong nước với các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
I. QUY TRÌNH VẬN ĐỘNG
1. Căn cứ vận động
- Căn cứ chung: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; định hướng thu hút và sử dụng ODA; chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 48 năm 2005 của Bộ Chính trị); chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 49 năm 2005 của Bộ Chính trị); chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội; các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng ODA và quản lý, sử dụng nguồn viện trợ phi chính phủ nước ngoài;
- Riêng đối với dự án ODA, cần lưu ý thêm: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cả nước, ngành, vùng và các địa phương; Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo (CPRGS); Chiến lược quốc gia vay và trả nợ nước ngoài và Chương trình quản lý nợ trung hạn của quốc gia; Định hướng thu hút và sử dụng ODA; Các chương trình đầu tư công; các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu của các ngành, các địa phương; Chiến lược, chương trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
- Riêng đối với dự án phi chính phủ, cần lưu ý thêm: nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể, chương trình đầu tư công cộng, định hướng và kế hoạch thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài của Nhà nước hoặc từng ngành, địa phương trong từng thời kỳ; năng lực tiếp nhận; vận động viện trợ cho các mục đích nhân đạo được thực hiện trên cơ sở tình hình xã hội và nhu cầu thực tế của Bên tiếp nhận trong từng thời kỳ; vận động cứu trợ khẩn cấp được thực hiện trên cơ sở căn cứ vào mức độ thiệt hại cụ thể về người, tài sản, công trình đối với từng vùng, địa phương bị thiên tai hoặc thảm hoạ khác.
Việc bám sát các căn cứ trên có tác dụng đảm bảo cho các dự án, chương trình, hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật ngay từ đầu đã không bị “chệch hướng” khỏi các mục tiêu mang tính định hướng chiến lược của đất nước và của ngành, lĩnh vực, bởi lẽ hợp tác quốc tế về pháp luật là một bộ phận của hợp tác quốc tế nói chung, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Các vấn đề cần lưu ý trong quá trình vận động dự án HTPL
2.1. Lĩnh vực ưu tiên thu hút
Để hợp tác có trọng tâm, trọng điểm, tránh phân tán nguồn lực, các VBQPPL nói trên đã đưa ra một danh sách các lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài, cụ thể như sau:
- Lĩnh vực ưu tiên thu hút ODA: Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản) kết hợp xoá đói, giảm nghèo; xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác); bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai;
- Lĩnh vực ưu tiên thu hút nguồn vốn NGO: phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản) kết hợp xoá đói giảm nghèo; phát triển hạ tầng cơ sở xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, lao động, việc làm, dân số); bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phòng chống, giảm nhẹ hậu quả thiên tai, dịch bệnh; tăng cường năng lực thể chế, quản lý, kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai; các hoạt động nhân đạo.
Như vậy, trong cả 2 lĩnh vực là ODA và NGO, thì hợp tác với nước ngoài về pháp luật “gián tiếp” được coi là một trong các lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài, vì pháp luật đương nhiên là yếu tố cơ bản của thể chế (“tăng cường năng lực thể chế”).
2.2. Danh mục yêu cầu tài trợ ODA (chỉ đặt ra đối với các dự án ODA)
Để đảm bảo vai trò làm chủ trong thu hút và sử dụng ODA, các VBQPPL nói trên cũng đã quy định rõ về danh mục yêu cầu tài trợ ODA làm cơ sở để vận động hỗ trợ. Danh mục yêu cầu tài trợ ODA bao gồm các chương trình, dự án được lựa chọn, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để vận động từng nhà tài trợ cụ thể. Trình tự xây dựng Danh mục yêu cầu tài trợ ODA gồm các bước sau:
- Cơ quan chủ quản chủ động xây dựng danh mục yêu cầu tài trợ ODA;
- Cơ quan chủ quản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư danh mục yêu cầu tài trợ ODA kèm theo đề cương chi tiết của từng chương trình, dự án;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về ODA, các cơ quan và nhà tài trợ có liên quan lựa chọn các chương trình, dự án ODA đưa vào Danh mục yêu cầu tài trợ ODA trên cơ sở hệ thống các tiêu chí ưu tiên phân bổ và sử dụng ODA theo lĩnh vực và địa phương.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục yêu cầu tài trợ ODA.
Sau khi có quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo cho từng nhà tài trợ Danh mục yêu cầu tài trợ ODA.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo cho các cơ quan chủ quản Danh mục tài trợ chính thức để triển khai các bước chuẩn bị tiếp theo theo quy định của Chương III Quy chế này.
- Đối với chương trình, dự án mà cơ quan chủ quản và nhà tài trợ đã thống nhất đề xuất tài trợ nhưng không nằm trong Danh mục yêu cầu tài trợ ODA đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép bổ sung chương trình, dự án đó vào Danh mục tài trợ chính thức.
2.3. Trình tự, thủ tục vận động:
- Cơ quan chủ quản có nhu cầu hợp tác với nước ngoài về pháp luật và đã có đối tác hợp tác phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan để hình thành nội dung hợp tác dưới hình thức chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật;
- Trong trường hợp cơ quan chủ quản có nhu cầu hợp tác về pháp luật, nhưng chưa có đối tác nước ngoài, thì có thể đề nghị Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Uỷ ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hỗ trợ trong việc tìm kiếm đối tác;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ về việc chuẩn bị Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và các diễn đàn quốc tế về ODA cho Việt Nam;
- Cơ quan cấp Bộ, ngành chủ trì và phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị và tổ chức hội nghị điều phối ODA theo ngành. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì tổ chức hội nghị vận động ODA của địa phương mình theo sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Hội nghị vận động ODA liên ngành, liên vùng, liên địa phương do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì hoặc do một cơ quan khác chủ trì theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao tiến hành vận động ODA với nước, tổ chức quốc tế tiếp nhận Cơ quan đại diện đó.
- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Kkế hoạch và Đầu tư chuẩn bị và tổ chức Hội nghị điều phối hỗ trợ quốc tế về pháp luật. Trên cơ sở các chương trình, dự án ODA về pháp luật thuộc danh mục yêu cầu tài trợ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và danh mục chương trình, dự án đề nghị vận động viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, cam kết hỗ trợ của các đối tác nước ngoài, Bộ Tư pháp điều phối hoạt động hợp tác quốc tế theo các tiêu chí sau đây:
+ Mức độ ưu tiên của vấn đề hợp tác;
+ Kinh nghiệm quản lý, năng lực tiếp nhận và sử dụng nguồn hỗ trợ;
+ Không trùng lặp về nội dung hợp tác.
- Nếu lĩnh vực đối tác cam kết tài trợ đã có nhiều đối tác khác hỗ trợ hoặc không phù hợp với mức độ ưu tiên hợp tác, Bộ Tư pháp phối hợp với cơ quan chủ quản tổ chức đàm phán với đối tác nước ngoài để chuyển cam kết tài trợ sang lĩnh vực khác phù hợp hơn.
II. QUY TRÌNH ĐÀM PHÁN, THẨM ĐỊNH, PHÊ DUYỆT
1. Đàm phán
- Đối với các chương trình, dự án dưới danh nghĩa điều ước quốc tế: quy trình đàm phán tuân thủ quy định tại các điều từ Điều 9 đến Điều 16 Luật Điều ước quốc tế và Thông tư số 01/2008/TT-BNG ngày 04/2/2008 của Bộ Ngoại giao hướng dẫn trình tự, thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế về ODA, trong đó bao gồm một số điểm đáng chú ý sau:
+ Với các điều ước quốc tế về ODA danh nghĩa Chính phủ: cơ quan đề xuất ký kết phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp trình Chính phủ uỷ quyền đàm phán, xây dựng dự thảo văn kiện, tiến hành đàm phán;
+ Với các điều ước quốc tế về ODA danh nghĩa Nhà nước (Chủ yếu là các hiệp định vay ưu đãi): cơ quan đề xuất ký kết phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp trình Chính phủ để Chính phủ trình Chủ tịch nước uỷ quyền đàm phán, xây dựng dự thảo văn kiện, tiến hành đàm phán;
Điều cần lưu ý là trong mọi trường hợp, trước khi đề xuất với Chính phủ về việc đàm phán, ký điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất phải lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan.
- Đối với các chương trình, dự án dưới danh nghĩa thoả thuận quốc tế: quy trình đàm phán tuân thủ quy định của Pháp lệnh thoả thuận quốc tế. Trình tự, thủ tục đàm phán được quy định khá mềm dẻo, chủ yếu do các cơ quan chủ quản tự quyết định và tổ chức thực hiện.
2. Thẩm định
Theo quy định của các VBQPPL nói trên, thì các dự án, chương trình HTPL thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ có một điểm hết sức đặc thù là phải trải qua 02 lần thẩm định (“thẩm định kép”) tại Bộ Tư pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Riêng đối với các dự án, chương trình thuộc thẩm quyền phê duyệt của các cơ quan chủ quản thì cơ quan chủ quản tự quyết định việc giao cho một đơn vị trực thuộc tiến hành thẩm định (quy trình, thủ tục thẩm định thường được quy định cụ thể trong các quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của các Bộ/ngành).
2.1. Thẩm định tại Bộ Tư pháp:
Chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ phải được Bộ Tư pháp tiến hành thẩm định trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Trong quá trình thẩm định chương trình, dự án, Bộ Tư pháp có quyền hạn:
- Yêu cầu cơ quan chủ quản thuyết trình về chương trình, dự án hợp tác pháp luật, đề nghị cơ quan chủ quản cung cấp thông tin và tài liệu có liên quan đến chương trình, dự án hợp tác trong trường hợp dự thảo văn kiện chương trình, dự án hợp tác còn có nội dung chưa rõ ràng hoặc có nhiều vấn đề còn có ý kiến khác nhau;
- Tổ chức cuộc họp với sự tham gia của cơ quan chủ quản và đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan, các tổ chức tư vấn và chuyên gia tư vấn độc lập để thảo luận, trao đổi ý kiến về nội dung thẩm định trong trường hợp cần thiết.
Việc thẩm định chương trình, dự án hợp tác pháp luật phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: Bảo đảm tính khách quan và khoa học; Tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn thẩm định
Nội dung thẩm định bao gồm:
- Sự cần thiết của chương trình, dự án.
- Sự phù hợp của mục tiêu, nội dung, hình thức hợp tác và kết quả dự kiến của chương trình, dự án với các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này và với mức độ ưu tiên hợp tác, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản.
- Tính hợp hiến, hợp pháp và mức độ tương thích của chương trình, dự án với các quy định của pháp luật Việt Nam; sự phù hợp của chương trình, dự án với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Tính không trùng lặp với các chương trình, dự án khác.
- Tính khả thi của chương trình, dự án; tư cách, khả năng chuyên môn, kinh nghiệm hợp tác của cơ quan, tổ chức nước ngoài.
- Hiệu quả kinh tế - xã hội của việc thực hiện chương trình, dự án; nhân tố bất lợi có thể có của chương trình, dự án.
- Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Hồ sơ thẩm định gửi Bộ Tư pháp (05 bộ) bao gồm các giấy tờ sau:
- Công văn đề nghị thẩm định.
- Dự thảo Tờ trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chương trình, dự án.
- Dự thảo văn kiện chương trình, dự án.
- Văn bản thuyết minh, tài liệu chứng minh sự cam kết của cơ quan, tổ chức nước ngoài.
- Bản tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành liên quan về chương trình, dự án hợp tác pháp luật và bản sao ý kiến của mỗi Bộ, ngành có liên quan đó.
Quy trình thẩm định gồm các bước:
- Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ thẩm định.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, nếu thấy hồ sơ thẩm định chưa đầy đủ các tài liệu, Bộ Tư pháp có quyền yêu cầu cơ quan chủ quản bổ sung hồ sơ.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu bổ sung hồ sơ của Bộ Tư pháp, cơ quan chủ trì soạn thảo, đàm phán có trách nhiệm bổ sung hồ sơ thẩm định.
- Thời hạn thẩm định là 10 ngày làm việc, tính từ ngày Bộ Tư pháp nhận được hồ sơ hợp lệ.
Hội đồng thẩm định
Hội đồng thẩm định đối với các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ được Bộ Tư pháp thành lập trong các trường hợp sau đây:
- Dự án có nội dung liên quan đến nhiều Bộ, ngành;
- Các Bộ, ngành có ý kiến khác nhau về các nội dung quy định tại Điều 10 của Nghị định này;
- Các chương trình, dự án do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ quản.
Thành phần của Hội đồng thẩm định gồm Chủ tịch Hội đồng thẩm định, Thư ký Hội đồng và các thành viên là đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Uỷ ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Chủ tịch và Thư ký Hội đồng thẩm định do Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ định.
Quy trình và các bước thẩm định cụ thể được quy định chi tiết trong Thông tư số 10/2008/TT-BTP ngày 31/12/2008 Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 của Chính phủ về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
2.2. Thẩm định tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đối với những dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ)
2.2.1. Thẩm định các dự án ODA
Hồ sơ thẩm định bao gồm:
- Tờ trình đề nghị phê duyệt chương trình, dự án của cơ quan chủ quản (đối với chương trình, dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ); của chủ dự án (đối với chương trình, dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của cơ quan chủ quản);
- Thông báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Danh mục tài trợ chính thức;
- Văn kiện chương trình, dự án (bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài, nếu có);
- Các văn bản và ý kiến trả lời của các cơ quan liên quan trong quá trình chuẩn bị chương trình, dự án và các văn bản thoả thuận, bản ghi nhớ với nhà tài trợ hoặc đại diện của nhà tài trợ, báo cáo của đoàn chuyên gia thẩm định thực hiện theo yêu cầu của nhà tài trợ (nếu có);
- Báo cáo tài chính của chủ dự án trong ba năm gần nhất, có xác nhận của cơ quan chủ quản (đối với chương trình, dự án theo cơ chế cho vay lại).
Thời hạn thẩm định không quá 45 ngày làm việc đối với chương trình, dự án đầu tư và không quá 15 ngày làm việc đối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chương trình, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan chủ quản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính báo cáo thẩm định chương trình, dự án và quyết định phê duyệt chương trình, dự án (bản sao có công chứng), kèm theo văn kiện chương trình, dự án đã được phê duyệt có đóng dấu giáp lai.
2.2.2. Thẩm định các dự án NGO
Nội dung cần làm rõ trong quá trình thẩm định:
- Tính phù hợp của mục tiêu chương trình, dự án với mục tiêu phát triển cụ thể của Bộ, ngành, địa phương, đơn vị thực hiện và thụ hưởng chương trình, dự án.
- Tính khả thi của phương thức tổ chức thực hiện.
- Khả năng đóng góp của phía Việt Nam.
- Tính hợp lý trong cơ cấu ngân sách của chương trình, dự án dành cho các hạng mục chủ yếu của chương trình, dự án.
- Những cam kết, điều kiện tiên quyết và các điều kiện khác đối với khoản viện trợ của Bên tài trợ (nếu có). Nghĩa vụ và cam kết của Bên tiếp nhận để thực hiện chương trình, dự án.
- Thông tin liên quan về đăng ký hoạt động hoặc tư cách pháp nhân của Bên tài trợ.
- Hiệu quả, khả năng vận dụng kết quả chương trình, dự án vào thực tiễn và tính bền vững của chương trình, dự án sau khi kết thúc.
- Những ý kiến đã được thống nhất hoặc còn khác nhau giữa các bên.
Cơ quan chủ trì tổ chức thốm định tổng hợp ý kiến của các cơ quan liên quan, lập báo cáo thẩm định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt nội dung văn kiện chương trình, dự án. Trong trường hợp cần thiết, báo cáo thẩm định phải kèm theo dự thảo quyết định phê duyệt nội dung chương trình, dự án.
Hồ sơ và báo cáo thẩm định khoản viện trợ PCPNN
Hồ sơ thẩm định bao gồm:
- Văn bản đề nghị trình phê duyệt của: cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN đối với các khoản viện trợ PCPNN thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ; cơ quan chủ quản hoặc chủ khoản viện trợ PCPNN (trong trường hợp cơ quan chủ quản trực tiếp quản lý) đối với các khoản viện trợ PCPNN thuộc thẩm quyền phê duyệt của cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN.
- Văn bản của Bên tài trợ thống nhất với nội dung khoản viện trợ PCPNN và thông báo hoặc cam kết xem xét tài trợ cho khoản viện trợ PCPNN đó.
- Dự thảo văn kiện chương trình, dự án, danh mục các khoản viện trợ phi dự án (bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài) và dự thảo Thoả thuận viện trợ PCPNN cụ thể (nếu được yêu cầu để ký kết thay văn kiện chương trình, dự án sau này).
- Toàn bộ văn bản góp ý kiến của các cơ quan liên quan về khoản viện trợ PCPNN.
Đối với các khoản viện trợ PCPNN có nội dung liên quan đến Bộ, ngành, địa phương nào thì phải lấy ý kiến chính thức bằng văn bản của Thủ trưởng Bộ, ngành, địa phương đó như một phần của hồ sơ trong quá trình thẩm định để làm cơ sở cho việc phê duyệt nêu tại Điều 15 Quy chế này.
- Các văn bản ghi nhớ với Bên tài trợ, báo cáo của đoàn chuyên gia thẩm định thực hiện theo yêu cầu của nhà tài trợ (nếu có).
- Bản sao Giấy đăng ký hoạt động và/hoặc bản sao giấy tờ hợp pháp về tư cách pháp nhân của Bên tài trợ.
- Hồ sơ thẩm định được lập thành 8 bộ đối với các khoản viện trợ PCPNN thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có ít nhất 1 bộ gốc. Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải có bản dịch tiếng Việt kèm theo.
- Thời hạn thẩm định đối với các khoản viện trợ PCPNN là không quá 20 ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
3. Thủ tục phê duyệt
3.1. Đối với dự án ODA
- Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư chương trình, dự án quan trọng quốc gia; b) Phê duyệt chương trình, dự án kèm theo khung chính sách và chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
- Thủ trưởng cơ quan chủ quản chương trình, dự án quyết định đầu tư các chương trình, dự án đầu tư và phê duyệt các chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật không thuộc trường hợp trên;
3.2. Đối với dự án NGO
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền phê duyệt:
+ Các khoản viện trợ PCPNN có nội dung liên quan đến an ninh, quốc phòng, tôn giáo và các khoản viện trợ trực tiếp hỗ trợ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chủ trương, chính sách thuộc thẩm quyền ban hành của Thủ tướng Chính phủ và các cấp cao hơn, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả nước, ngành, lãnh thổ;
+ Danh mục cụ thể các chủng loại hàng hoá, trang thiết bị có kết cấu đơn giản đã qua sử dụng (còn hơn 80% so với giá trị sử dụng mới) phù hợp với nhu cầu và điều kiện sử dụng của Việt Nam trong từng thời kỳ, do Thủ trưởng các Bộ, ngành xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ, để làm cơ sở cho việc phê duyệt việc tiếp nhận;
+ Các khoản viện trợ PCPNN liên quan tới việc nhập khẩu ô tô và các phương tiện vận tải khác (máy bay, tàu, thuyền…).
- Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng cơ quan Trung ương của các tổ chức có thẩm quyền phê duyệt:
+ Các khoản viện trợ PCPNN không thuộc quy định tại điểm a của khoản này;
+ Các khoản hàng hoá đã qua sử dụng có kết cấu đơn giản còn hơn 80% so với giá trị sử dụng mới (được Bên tài trợ có văn bản xác nhận) thuộc danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
+ Các khoản cứu trợ khẩn cấp đã có địa chỉ cụ thể.
- Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có thẩm quyền phê duyệt các khoản cứu trợ khẩn cấp không có địa chỉ cụ thể (Bên tài trợ không ấn định cứu trợ cho một địa phương cụ thể nào).
- Các trường hợp còn lại do các Thủ trưởng cơ quan Trung ương và Chủ tịch UBND cấp tỉnh phê duyệt.
III. QUY TRÌNH THỰC HIỆN, ĐIỀU CHỈNH DỰ ÁN
1. Thực hiện Dự án
1.1. Những vấn đề chung
Cơ quan chủ quản chỉ được triển khai thực hiện hoặc cho phép thực hiện chương trình, dự án sau khi văn bản ký kết có hiệu lực pháp luật;
- Việc thực hiện nội dung hợp tác và các hoạt động cụ thể của chương trình, dự án phải được chuẩn bị kỹ về nội dung, bảo đảm đạt kết quả dự kiến, thiết thực, đúng mục tiêu, bảo vệ bí mật Nhà nước;
- Thủ tục quyết định đoàn ra, đoàn vào, cung cấp thông tin theo chương trình, dự án hợp tác phải tuân theo quy định hiện hành của pháp luật;
- Trong quá trình thực hiện, cơ quan chủ quản phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Ủy ban công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài về các vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý chuyên ngành của mỗi cơ quan.
1.2. Đối với Dự án ODA
* Nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan chủ quản
- Đảm bảo quyết định đầu tư chương trình, dự án đúng mục tiêu, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, đúng luật pháp, có hiệu quả; đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và hoàn trả vốn vay (đối với chương trình, dự án ODA cho vay lại); đảm bảo đủ vốn đối ứng theo tiến độ đã thoả thuận với nhà tài trợ. Đảm bảo chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật đạt được mục tiêu tăng cường năng lực và thể chế thuộc lĩnh vực quản lý.
- Phê duyệt các nội dung trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầu.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình, dự án của chủ dự án trong quá trình thực hiện chương trình, dự án.
- Xây dựng và triển khai các biện pháp theo quy định của pháp luật hiện hành về phòng và chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng vốn sai mục đích làm ảnh hưởng đến mục tiêu của chương trình, dự án và uy tín quốc gia.
- Chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật hiện hành về các hành vi vi phạm các quy định về thẩm quyền trong quá trình lựa chọn chủ dự án, thẩm định, ra quyết định đầu tư và phê duyệt văn kiện dự án hỗ trợ kỹ thuật cũng như giám sát quá trình thực hiện chương trình, dự án.
- Chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về việc triển khai chậm, không đúng với quyết định đầu tư và quyết định phê duyệt văn kiện chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật; về việc có sai phạm trong quá trình triển khai chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí và tham nhũng.
- Các quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
* Nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của chủ dự án
- Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện chương trình, dự án; ký kết các hợp đồng theo quy định của pháp luật. Nếu trực tiếp quản lý chương trình, dự án, chủ dự án phải đảm bảo có đủ bộ máy, đủ năng lực quản lý dự án, được cơ quan có thẩm quyền cho phép và được ghi trong quyết định đầu tư hoặc quyết định phê duyệt chương trình, dự án;
- Tổ chức thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, dự toán các hạng mục công trình;
- Đàm phán, ký kết, giám sát việc thực hiện các hợp đồng và xử lý các vi phạm hợp đồng;
- Kiến nghị với cơ quan chủ quản về cơ chế, chính sách bảo đảm việc thực hiện chương trình, dự án phù hợp với cam kết quốc tế;
- Các quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
* Ban Quản lý Dự án: Chủ dự án ban hành quyết định thành lập Ban quản lý dự án ngay sau khi văn kiện chương trình, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cơ quan chủ quản ban hành quyết định thành lập Ban quản lý dự án đối với chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật ngay sau khi văn kiện chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chủ dự án cũng có thể thuê tư vấn quản lý dự án theo quy định của pháp luật.
1.3. Đối với dự án NGO
- Các khoản viện trợ PCPNN (ngoại trừ cứu trợ khẩn cấp) chỉ được triển khai thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt và được cơ quan chủ quản thông báo chính thức bằng văn bản cho Bên tài trợ.
- Không tiếp nhận những hàng hoá (kể cả vật tư, thiết bị) thuộc danh mục các mặt hàng cấm nhập khẩu theo quy định của Chính phủ. Trong trường hợp cần thiết, việc tiếp nhận phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Ngoài việc thỏa thuận tiếp nhận các hàng hóa chưa sử dụng, mới 100%, cơ quan chủ quản chỉ thỏa thuận tiếp nhận những hàng hóa đã qua sử dụng, nếu có văn bản xác nhận của Bên tài trợ là hàng hóa đó còn hơn 80% so với giá trị sử dụng mới (đối với những hàng hóa đã qua sử dụng có kết cấu đơn giản) hoặc văn bản giám định hàng hóa đó còn hơn 80% so với giá trị mới của tổ chức giám định có thẩm quyền của nước bên tài trợ (đối với những hàng hóa đã qua sử dụng không thuộc Danh mục cụ thể các chủng loại hàng hoá, trang thiết bị có kết cấu đơn giản đã qua sử dụng). Cơ quan chủ quản chỉ thông báo cho Bên tài trợ gửi hàng khi được cấp có thẩm quyền của Việt Nam phê duyệt việc tiếp nhận.
Bên tài trợ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về chất lượng hàng hóa do mình xác nhận cho tới khi hàng hóa được tiếp nhận.
Những lô hàng viện trợ không thực hiện đúng các quy định nêu trên khi nhập khẩu vào Việt Nam, được giao cơ quan chức năng xử lý theo quy định, chủ khoản viện trợ chịu mọi chi phí liên quan đến việc xử lý này.
- Sau 6 tháng kể từ ngày chương trình, dự án được phê duyệt, nếu chương trình, dự án vẫn chưa triển khai được hoạt động nào mà không có lý do chính đáng, cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi quyết định phê duyệt chương trình, dự án đã ban hành. Cơ quan chủ quản có trách nhiệm thông báo cho Bên tài trợ về việc thu hồi quyết định phê duyệt chương trình, dự án.
Các chương trình, dự án phải có Ban Quản lý chương trình, dự án.
- Ban Quản lý chương trình, dự án là người đại diện cho chủ khoản viện trợ PCPNN, được thay mặt chủ khoản viện trợ PCPNN thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ được giao. Ban Quản lý chương trình, dự án chịu trách nhiệm trước chủ khoản viện trợ PCPNN, cơ quan chủ quản, cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN và trước pháp luật về các quyết định của mình. Ban Quản lý chương trình, dự án phải được chủ khoản viện trợ PCPNN hoặc cơ quan chủ quản (trong trường hợp cơ quan chủ quản trực tiếp quản lý, điều hành thực hiện) ban hành quyết định thành lập trong vòng 15 ngày sau khi chương trình, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tại quyết định này, chủ khoản viện trợ PCPNN hoặc cơ quan chủ quản bổ nhiệm Giám đốc cũng như các thành viên và phê duyệt đồng Giám đốc Ban Quản lý chương trình, dự án (do Bên tài trợ giới thiệu, nếu có) và quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Quản lý chương trình, dự án. Ban Quản lý chương trình, dự án được mở tài khoản tại ngân hàng được thành lập và hoạt động theo pháp luật của Việt Nam hoặc Kho bạc Nhà nước Việt Nam và có con dấu riêng để thực hiện chương trình, dự án viện trợ PCPNN phù hợp với quy định của pháp luật và các thoả thuận hoặc cam kết đã ký kết. Ban Quản lý chương trình, dự án phải có trụ sở là nơi làm việc và giao dịch chính thức, thường xuyên trong quá trình thực hiện chương trình, dự án.
2. Điều chỉnh dự án
2.1. Dự án ODA
Trong trường hợp những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nội dung chương trình, dự án trong quá trình thực hiện dẫn đến:
- Sự thay đổi về điều ước quốc tế cụ thể về ODA đã ký kết: cơ quan chủ quản thực hiện các quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế;
- Sự thay đổi về cơ chế tài chính trong nước hoặc điều kiện cho vay lại trong nước áp dụng cho chương trình, dự án: cơ quan chủ quản báo cáo Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Trong trường hợp nhà tài trợ chấp thuận cho sử dụng phần vốn dư sau đấu thầu của chương trình, dự án vốn vay (vốn dư là phần chênh lệch giữa tổng giá trị tài trợ quy định trong điều ước quốc tế về ODA đã ký và tổng giá trị kết quả lựa chọn nhà thầu đã được phê duyệt):
- Nếu việc sử dụng phần vốn đó để thực hiện chương trình, dự án mới theo hướng ưu tiên nhằm phát huy hiệu quả của chương trình, dự án đang thực hiện: cơ quan chủ quản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo giải trình kèm theo văn kiện chương trình, dự án dự kiến sử dụng phần vốn dư này để Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc sử dụng vốn dư;
- Nếu việc sử dụng vốn dư để bổ sung khối lượng trong phạm vi chương trình, dự án đang thực hiện: cơ quan chủ quản quyết định việc sử dụng vốn dư.
2.2. Dự án NGO
* Đối với các chương trình, dự án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt:
- Các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung sau đây phải trình Thủ tướng Chính phủ:
+ Các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung dẫn đến thay đổi các mục tiêu cụ thể, cơ cấu tổ chức quản lý và thực hiện, các kết quả chính và địa bàn thực hiện của chương trình, dự án đã được phê duyệt, các điều chỉnh về tiến độ thực hiện dẫn đến vượt quá 12 tháng so với thời hạn hoàn thành dự án đã được phê duyệt;
+ Các điều chỉnh, bổ sung làm cho chương trình, dự án viện trợ PCPNN thuộc vào một trong những trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
- Các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung không thuộc quy định tại điểm a khoản 1 Điều này do Thủ trưởng cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN phê duyệt.
* Đối với chương trình, dự án do Thủ trưởng các cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN phê duyệt:
- Những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung làm cho chương trình, dự án trở thành một trong các trường hợp thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
- Các điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung không thuộc trường hợp trên do Thủ trưởng các cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN phê duyệt.
- Cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN quy định cụ thể và ban hành quy trình và thời hạn điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung chương trình, dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt của cơ quan phê duyệt khoản viện trợ PCPNN trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về yêu cầu cơ bản và quy trình chung đối với việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nêu trên.
IV. THEO DÕI, ĐÁNH GIÁ
1. Trách nhiệm theo dõi, đánh giá chương trình, dự án hợp tác
- Ban Quản lý chương trình, dự án có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đánh giá chương trình, dự án.
- Chủ chương trình, dự án có trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc, hỗ trợ Ban Quản lý chương trình, dự án trong việc theo dõi, đánh giá chương trình, dự án.
- Cơ quan chủ quản chủ trì lập kế hoạch, phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành hoặc thuê tư vấn tiến hành đánh giá tác động của chương trình, dự án.
- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện việc giám sát đánh giá năng lực quản lý thực hiện các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
- Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng các chỉ tiêu thống kê định kỳ về tình hình tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật; phối hợp với các cơ quan có liên quan thiết lập và vận hành hệ thống thông tin theo dõi và đánh giá chương trình, dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin và khai thác hệ thống này.
2. Chế độ báo cáo tình hình thực hiện chương trình, dự án
- Cơ quan chủ quản có trách nhiệm định kỳ 6 tháng và hàng năm gửi Bộ Tư pháp báo cáo về tình hình thực hiện hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật và dự kiến thực hiện chương trình, dự án hợp tác cho thời kỳ tiếp theo theo biểu mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp ban hành (theo Thông tư 10/2008/TT-BTP ngày 31/12/2008).
- Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp tình hình, phân tích, đánh giá hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật và định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án
- Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án hợp tác về pháp luật của cơ quan chủ quản; cơ quan chủ quản có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra.
- Cơ quan chủ quản thực hiện việc kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật.
- Trong trường hợp cần thiết, Bộ Tư pháp thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án.
- Khi kiểm tra, Bộ Tư pháp và Đoàn kiểm tra liên ngành được quyền yêu cầu cơ quan chủ quản thực hiện chương trình, dự án chấn chỉnh hoạt động hợp tác; nếu thấy có hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
V. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Nhận xét
- Hệ thống VBQPPL điều chỉnh hoạt động HTQT về PL có thể nói là khá đầy đủ, đồng bộ, vừa chặt chẽ vừa mềm dẻo, góp phần thực hiện những mục tiêu đã được đề ra trong Tuyên bố Paris và Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ.
- Tuy nhiên, qua thực tế triển khai các văn bản nói trên, có thể thấy vẫn còn một số bất cập như sau:
+ Hiện nay vẫn còn có những rắc rối dẫn đến cách hiểu khác nhau về chương trình/dự án và điều ước/thỏa thuận quốc tế. Đặc biệt trong trường hợp dự án dưới danh nghĩa điều ước quốc tế thì quy trình hết sức phức tạp (vừa tuân thủ các nghị định về ODA, đồng thời phải tuân thủ Luật Điều ước quốc tế);
+ Danh mục yêu cầu tài trợ đối với dự án ODA là công cụ hữu hiệu để Bộ KHĐT phát huy vai trò “tiền kiểm” trong công tác quản lý nhà nước, nhưng nhiều ý kiến cho rằng trên thực tế nó không khác gì quy trình phê duyệt theo NĐ 17/200/NĐ-CP trước đây, tức là nói phân cấp mà chưa thực sự phân cấp (đằng nào cũng phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt-dù là phê duyệt đề cương);
+ Cơ chế “thẩm định kép” của Bộ Tư pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư mặc dù xét về hình thức là rất chặt chẽ, song trên thực tế đặt trách nhiệm khá nặng nề cho các cơ quan chủ quản trong khâu hình thành dự án; quy trình thẩm định (thẩm định ở đâu trước? ai đề nghị thẩm định, cơ quan chủ quản hay Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vẫn chưa rõ ràng dẫn đến cách thực hiện khác nhau trên thực tế. Tại một số hội nghị hoặc khóa tập huấn đã có không ít ý kiến thắc mắc về vấn đề này;
+ Giá trị pháp lý của văn bản thẩm định của Bộ Tư pháp chưa được làm rõ, cụ thể là nó có mang tính ràng buộc đối với các cơ quan chủ quản trong việc chỉnh lý hồ sơ, văn kiện dự án trước khi trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt không?
+ Thẩm quyền phê duyệt đối với các dự án phi chính phủ hầu như vẫn giữ nguyên so với QĐ 64/2001/QĐ-TTg, chưa có sự phân cấp hợp lý, tạo sự thông thoáng trong khâu vận động và hình thành các dự án, chương trình;
+ Quy trình sửa đổi, bổ sung chương trình, dự án vẫn chưa được hướng dẫn chi tiết, gây nhiều khó khăn trong khâu áp dụng (các văn bản hiện hành vẫn “dẫn chiếu” sang nhau, nhiều khi dẫn chiếu ngược, gây khó hiểu cho người áp dụng pháp luật);
+ Chế độ báo cáo còn phức tạp, gây nặng nề trong khâu thực hiện các dự án, đặc biệt là dự án ODA (hiện nay mỗi Quý các Ban quản lý dự án và các cơ quan chủ quản đều phải làm báo cáo, không phụ thuộc vào việc các hoạt động có được triển khai trong Quý hay không).
2. Một số kiến nghị
2.1. Về hoàn thiện thể chế
Trong thời gian tới, nhằm thực hiện tố chủ ttrương thu hút và sử dụng các nguồn hỗ trợ của nước ngoài đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ, bảo đảm thực hiện thành công các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và của ngành, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản điều chỉnh hoạt động hỗ trợ quốc tế nói chung, HTQT về PL nói riêng theo hướng sau:
- Làm rõ mối quan hệ giữa chương trình/dự án với điều ước quốc tế /thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là quy trình, thủ tục đối với mỗi loại văn kiện này có điểm gì có thể kết hợp được với nhau làm giảm thiểu thủ tục hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ;
- Xem xét lại sự cần thiết và tính hiệu quả của Danh mục yêu cầu tài trợ dự án ODA. Theo chúng tôi, nếu đã mạnh dạn phân cấp thì chúng ta nên phân cấp toàn bộ, đi liền với nó là cơ chế “hậu kiểm” vẫn đảm bảo được việc các nguyên tắc và định hướng lớn trong thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài được tuân thủ trong thực tiễn;
- Cần khẳng định rõ giá trị pháp lý của văn bản thẩm định (kể cả thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thẩm định của Bộ Tư pháp);
- Làm rõ quy trình thẩm định kép, nghiên cứu khả năng nhất thể hoá 2 quy trình theo hướng tinh giản, hiệu quả, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức trong khâu vận động và hình thành các chương trình, dự án;
- Phân cấp mạnh mẽ hơn nữa thẩm quyền phê duyệt chương trình, dự án, kể cả dự án ODA và phi chính phủ;
- Cải tiến chế độ báo cáo chương trình, dự án. Theo chúng tôi chỉ nên yêu cầu các cơ quan chủ quản báo cáo 6 tháng/lần thay vì chế độ báo cáo hàng quý như hiện nay (vì trên thực tế Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cũng đang được tổ chức 6 tháng và hàng năm, nên với chế độ báo cáo 6 tháng một lần cũng đủ để cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng trong việc tổ chức Hội nghị này cũng như trong việc xác định các chỉ số để điều hành kinh tế vĩ mô).
2.2. Về tăng cường năng lực thực thi pháp luật
- Bộ Tư pháp cần tăng cường mở các khoá tập huấn nhằm giúp cho các cơ quan trung ương và địa phương hiểu đầy đủ và thống nhất về quy trình hình thành và thực hiện các dự án, chương trình HTPL, đặc biệt trong bối cảnh Nghị định mới về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật (NĐ 78/2008/NĐ-CP) đã phân cấp cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh được quyền phê duyệt các dự án, chương trình HTPL ở địa phương;
- Cần nghiên cứu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thực hiện chế độ báo cáo và quy trình giám sát, kiểm tra các chương trình, dự án (nên học tập kinh nghiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc sử dụng công nghệ AMT trong việc tổng hợp báo cáo và theo dõi, đánh giá các chương trình, dự án.).
Phòng Tổng hợp - Vụ Hợp tác quốc tế