Trong buổi sáng ngày 01/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam phản ánh: Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hôm 27/2 - thứ Bảy, là ngày làm bù cho ngày nghỉ mùng 6 Tết Nguyên Đán Canh Dần. Tại nhiều cơ quan, đơn vị trong cả nước, mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường như những ngày làm việc khác.
Hà Nội không thứ 7, đó là ghi nhận đầu tiên của nhóm phóng viên sau khi có mặt tại nhiều cơ quan, ban, ngành trên địa bàn thành phố ngày 27/2. Không khí làm việc khẩn trương, nghiêm túc thể hiện rõ trong mỗi cơ quan, đơn vị. Đến huyện uỷ, UBND huyện Từ Liêm sáng nay, cán bộ công chức huyện đến cơ quan làm việc khá đầy đủ. Đây cũng là thời điểm huyện Từ Liêm khẩn trương chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng cấp huyện dự kiến sẽ tổ chức vào tháng tư tới nên hôm nay cũng là một ngày bận rộn của cán bộ, viên chức huyện Từ Liêm. Cũng với tinh thần đó, cán bộ, công chức UBND quận Cầu Giấy hôm nay nay đều đến làm việc bình thường. Bên cạnh việc bố trí cán bộ tiếp dân chu đáo, trách nhiệm, hôm nay cũng đúng dịp kỷ niệm 55 năm Ngày thầy thuốc Việt , dù bận nhưng uỷ ban nhân dân quận vẫn cử cán bộ đến chúc mừng một số đơn vị, cá nhân ngành Y trên địa bàn quận.
Tại trụ sở Thanh tra Chính phủ, số 220 Đội Cấn, 15 giờ chiều nay, bãi gửi xe trước cửa cơ quan vẫn chật kín xe máy, ô tô. Với chức năng thanh tra, tham mưu cho Chính phủ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, cơ quan Thanh tra Chính Phủ chính là đơn vị phải giải quyết nhiều công việc. Bởi vậy, những ngày nghỉ luôn có ý nghĩa lớn với mỗi cán bộ, công chức đơn vị. Làm việc bù ngày thứ 7 hôm nay, không vì thế mà tinh thần làm việc của các cán bộ Thanh tra Chính phủ trở nên lơ là. Tiến sỹ Trần Đức Lượng, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ khẳng định: không chỉ ngày thứ 7 hôm nay mà ngay từ trong Tết, cơ quan Thanh Tra Chính Phủ đã thực hiện công việc với phương châm: tận tuỵ, hoà nhã và trách nhiệm. Tuy nhiên, vẫn có một số ít đơn vị chưa thực sự tận dụng ngày làm việc bù để hoàn thành các phần việc chuyên môn. Cán bộ, công chức đến “góp mặt, điểm tên, làm việc nửa vời” rồi ra về từ sớm. Dù thế nào, cảm nhận của chúng tôi hôm nay, các cơ quan Nhà nước tại Hà Nội làm việc bình thường. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ được các cấp, các ngành và cán bộ, công chức thực thi đầy trách nhiệm.
7h30 sáng thứ Bảy, ngày 27/2, tại Uỷ ban Nhân dân phường ĐaKao, quận 1, TP HCM đã có một số người dân tới để làm các thủ tục hành chính. Mọi hoạt động ở phường diễn ra một cách bình thường như các ngày từ thứ Hai đến thứ Sáu trong tuần. Tất cả các phòng, ban đều làm việc với sự có mặt của 100% cán bộ chuyên trách. Nhân viên ủy ban chăm chú vào công việc, người dân ngồi xếp hàng chờ đến lượt mình được giải quyết các thủ tục hành chính. Chị Nguyễn Thị Tuyết Mai, người dân ở khu phố 6, phường ĐaKao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Tôi có nghe tin Chính phủ quy định sáng nay các cơ quan công quyền làm việc bù cho ngày mùng 6 nên đến phường để công chứng giấy tờ. Tuy là thứ Bảy nhưng các anh chị em ở đây làm việc rất nghiêm túc. Lúc đầu tôi cũng có hơi ngại là công việc không được nhanh nhưng các anh chị ở đây làm việc nhiệt tình nên công việc của tôi được suôn sẻ”.
Bà Đỗ Thị Lan Dung, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường 2, quận 3 cho biết: “Ngày thứ Bảy làm việc thêm thì cũng bình thường như những ngày khác trong tuần. 100% cán bộ công nhân viên làm việc trong ngày hôm nay giải quyết những thủ tục, giấy tờ của người dân. Lãnh đạo phường đã quán triệt trong cán bộ nhân viên, các anh em cũng rất đồng thuận làm việc hăng hái, không có một ý kiến phiền hà nào cả.” Điều đáng ghi nhận là hôm nay 27/2, từ lãnh đạo đến chuyên viên các Văn phòng UBND các cấp đều bước vào ngày làm việc bù theo quy định và lịch đã được sắp xếp hết sức nghiêm túc. Ngoài các cơ quan chính quyền, nhiều sở ngành khác của thành phố Hồ Chí Minh mọi hoạt động diễn ra bình thường, không có tình trạng làm việc nửa vời. Các cơ quan công sở làm việc bình thường trong ngày thứ Bảy này, tuy nhiên, theo ghi nhận của phóng viên chúng tôi, lượng người dân đến yêu cầu giải quyết công việc ở phường, xã, quận huyện không đông như ngày thường, chỉ chiếm không đầy 1/3…..Có lẽ vì là thứ 7 và dư âm của những ngày Tết Nguyên Đán vẫn còn nên nhiều người dân dành cho việc nghỉ ngơi thay vì đi đến các cơ quan công sở.
Tại Đà Nẵng, không khí làm việc tại các cơ quan hành chính sự nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Tại Phòng quản lý Hành chính về trật tự xã hội, Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh, Công an thành phố, hay như các Chi cục Thuế quận Hải Châu, Thanh Khê - nơi thường xuyên tiếp xúc với công dân, số người đến giao dịch ít hơn ngày làm việc bình thường. Thượng tá Lê Quốc Dân, Phó Trưởng phòng Cảnh sát Giao thông, Công an thành phố Đà Nẵng cho biết, thực hiện chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an, đơn vị bố trí đầy đủ các bộ phận tiếp dân để giải quyết công việc nhưng số người dân đến giải quyết công việc ít hơn so với ngày thường.
Tại Phòng Công chức số 1, Sở Tư Pháp thành phố Đà Nẵng, trong buổi sáng chỉ có 6 hồ sơ được giao dịch. Ông Huỳnh Bá Hảo, Trưởng phòng Công chứng số 1, Sở Tư pháp thành phố Đà Nẵng cho biết: “Theo quy định của Chính phủ, tất cả anh chị em đi làm đầy đủ. Tuy nhiên số lượt khách đến giao dịch rất vắng. So với các thứ Bảy khác thì thứ Bảy này ít khách đến giao dịch công chứng hơn”.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Sau một tháng khoảng 4 tấn vàng đã được nhập về nhưng giá vàng trong nước vẫn cao hơn gần 1 triệu đồng/lượng so với giá thế giới. Điều này đang khiến nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đặt ra vấn đề phải chăng Ngân hàng Nhà nước “bốc thuốc” chưa đúng.
Ông Đỗ Xuân Quỳnh, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Bảo Tín Minh Châu (Hà Nội), cho rằng mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước can thiệp thị trường vàng thông qua Công ty SJC là đưa giá vàng trong nước ngang giá thế giới, qua đó kéo giá USD tiền mặt tại thị trường tự do ngang với giá của ngân hàng. Tuy nhiên, việc Ngân hàng Nhà nước cho phép SJC được phép nhập khẩu vàng không hạn chế số lượng khiến các doanh nghiệp kinh doanh vàng khác đang phải kinh doanh trong tình trạng thiếu bình đẳng, tạo nên tình trạng độc quyền. Trong việc nhập khẩu này, một lượng lớn ngoại tệ được cấp cho SJC để nhập hàng ngàn tấn vàng.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Phó Tổng Giám đốc Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ), nếu chỉ một mình Công ty SJC nhập vàng thì khó đưa giá trong nước ngang giá thế giới. Vì hiện nay nhiều doanh nghiệp đang kinh doanh trong tình cảnh còn hàng trong kho nhưng không dám bán vì bán ra mà không có nguồn để mua vào sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối nguồn hàng. Do đó, hàng vẫn còn trữ trong kho nhưng vẫn phải mua lại của các bạn hàng khác với giá cao tương ứng với giá thị trường. Do đó, giá giao dịch vẫn luôn cao chứ không thể hạ thấp xuống được. Theo bà Cúc, trước thông tin cho phép nhập vàng, có những đơn vị mạnh dạn tung hàng bán theo thị trường nhưng sau đó lại không được cấp quota nên buộc phải mua lại hàng của các doanh nghiệp theo giá thị trường với giá cao. Ngay cả doanh nghiệp mua với số lượng lớn còn phải gom hàng giá cao để bán thì đương nhiên giá vàng vẫn tiếp tục cao. Đây là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp. Trong khi đó, SJC có quyền quyết về giá vì chủ động nguồn hàng, đủ cân đối cung cầu. Điều này cũng gây bất bình đẳng cho các doanh nghiệp mà cũng không giúp bình ổn được giá vàng trong nước. Bà Cúc cũng cho rằng mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là ghìm giá xuống nhưng phương pháp chưa phù hợp nên dù có tung hàng với số lượng lớn thì giá vẫn không xuống. “Cần phải cho các ngân hàng thương mại và các công ty lớn kinh doanh vàng nhập vàng thì mới mong kéo giá trong nước ngang giá thế giới. Điều này cũng tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp” - bà Cúc nói.
Theo ông Huỳnh Trung Khánh, cố vấn Hội đồng vàng thế giới tại Việt Nam, để kéo giá vàng trong nước về sát với giá thế giới, cần cung ứng hạn ngạch nhập vàng cho các doanh nghiệp. Trong bối cảnh giá vàng trong nước luôn bỏ xa giá thế giới thì việc cấp quota cho doanh nghiệp nhập vàng là một trong những vấn đề ảnh hưởng đến giá. Nên quản lý vàng theo quy luật cung cầu của thị trường vì việc cho các doanh nghiệp cùng nhập khẩu sẽ tránh tình trạng “chạy” quota. Phải tránh tình trạng chỉ có doanh nghiệp nhà nước và Ngân hàng Nhà nước mới được tham gia, còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì không có cửa.
Đại diện một ngân hàng thương mại cho rằng nếu doanh nghiệp thiếu nguồn cung thì họ vẫn phải tự xoay xở mua ngoài thị trường bằng tỉ giá của ngoại tệ trên thị trường tự do. Chính điều này khiến doanh nghiệp vô tình đẩy giá vàng lên cao do thiếu nguồn hàng. Theo một chuyên gia của Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt , hiện nay quy trình xin cấp quota là doanh nghiệp làm tờ trình xin nhập khẩu vàng. Về nguyên tắc, Ngân hàng Nhà nước phải trả lời bằng văn bản cho hay không cho, giải thích rõ lý do trong thời hạn bao lâu chứ không thể “im lặng suy nghĩ” như hiện nay.
Tuy nhiên, hiện quy định pháp luật về cấp hoặc từ chối cấp quota cho các doanh nghiệp và việc cho hay không cho nhập khẩu dựa trên tiêu chí nào? Cũng như các vấn đề liên quan đến bình ổn giá, đưa vàng vào diện ngoại tệ thuộc mặt hàng quản lý của Ngân hàng Nhà nước hay coi là hàng hóa đặc biệt cần sự quản lý giá của Bộ Tài chính… cũng chưa phù hợp. Điều này dẫn đến sự bị động trong kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như khó đưa thị trường vàng ổn định. Sắp tới, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam và Hội đồng vàng thế giới tại Việt Nam sẽ phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng nghị định mới về quản lý vàng và sàn vàng để phù hợp với bối cảnh mới.
Báo cũng phản ánh: Ngày 28-2, thông tin từ Công an tỉnh Vĩnh Phúc cho biết chiều 27-2, tại nhà riêng của ông Đỗ Văn Thành, Phó Giám đốc Công ty Môi trường và Đô thị thị xã Phúc Yên (số 4 phố Sóc Sơn, phường Trưng Trắc, thị xã Phúc Yên).
Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội (PC14), Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã bắt quả tang bốn con bạc đang ngồi chơi bài lá ăn tiền. Trong số các đối tượng bị bắt quả tang có ông Nguyễn Văn Bình, Phó Giám đốc Sở Công thương tỉnh Vĩnh Phúc, nguyên Phó Bí thư Thị ủy Phúc Yên. Hiện cơ quan chức năng đang tạm giữ hơn 40 triệu đồng, xe ôtô và nhiều điện thoại của các con bạc trên. Theo xác minh ban đầu, trên chiếu bạc này còn có em trai của Phó Giám đốc Thành và Nguyễn Văn Đính - đối tượng cờ bạc chuyên nghiệp, năm 2008 đã bị TAND thị xã Phúc Yên xử án treo về tội đánh bạc.
Báo cũng có bài TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH: “Cần xem lại việc cho thuê đất rừng”. Bài báo phản ánh: Đầu tháng 2, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh có thư kiến nghị lên Trung ương Đảng nêu ý kiến cảnh báo mạnh mẽ việc một số tỉnh cho doanh nghiệp nước ngoài thuê dài hạn một diện tích lớn đất rừng đầu nguồn. Pháp Luật TP.HCM có cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Trọng Vĩnh.
. Vì sao ông phản đối các dự án cho thuê đất rừng?
+ Như tôi đã nêu trong thư kiến nghị, cho nước ngoài thuê rừng, nhất là rừng đầu nguồn, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hiểm họa. Người ta có thể chặt phá, khai thác bừa bãi mà hậu quả sẽ hết sức nghiêm trọng: thủy lợi hết nước, lũ lụt, lũ quét đổ về đồng bằng. Đó là chưa kể mối đe dọa về an ninh quốc phòng. Cho thuê dài hạn lại càng không thể được. 50 năm là quá dài, ba thế hệ chứ có ít đâu. Phía doanh nghiệp nước ngoài sẽ đưa người sang khai thác, làm nhà, định cư, hình thành những cộng đồng dân cư ở một số vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng…
. Nhưng phản hồi từ phía địa phương như Lạng Sơn cho rằng chính quyền có cơ chế để có thể giám sát, kiểm soát các dự án?
+ Họ nói vậy chứ cho thuê dài hạn ai mà kiểm soát được! Họ không kiểm soát nổi đâu mà có khi cũng chẳng buồn kiểm soát. Ở đây tôi cũng muốn nói rõ không ai lại đi phản đối các địa phương thu hút đầu tư nước ngoài, tôi cũng vậy. Nhưng thu hút đầu tư thì phải là đầu tư vào các ngành công nghiệp, công nghệ, sản xuất ra hàng tiêu dùng chứ không phải đầu tư vào đất đai. Nước ta là nước nông nghiệp, dân rất đông, người cày còn thiếu ruộng, sao lại đem đất cho nước ngoài thuê?
. Bây giờ trở lại với các dự án cho thuê đất rừng, ông nghĩ có giải pháp nào?
+ Phải đình chỉ ngay các dự án chưa ký kết, còn nếu đã ký rồi thì cũng chấm dứt, chấp nhận bồi thường. Về dài hạn, phải có chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý. Tôi chỉ có thể kiến nghị như vậy thôi.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử của Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Chiều 26/2, hai đoàn cán bộ cấp cao của Bộ Tư pháp và Bộ Công an Việt Nam, do bà Đặng Hoàng Oanh, Phó Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp dẫn đầu, đã đến Algeria, bắt đầu chuyến thăm và làm việc tại Algeria. Chuyến đi nằm trong khuôn khổ chương trình đàm phán về Hiệp định tương trợ tư pháp giữa hai nước. Theo kế hoạch, đoàn của Bộ Tư pháp Việt Nam ngày 2/3 sẽ đàm phán với Bộ Tư pháp Algeria các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại và Nghị định hợp tác giữa hai bộ Tư pháp của hai nước. Cùng ngày, đoàn của Bộ Công an Việt Nam cũng sẽ đàm phán với Bộ Tư pháp nước chủ nhà Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ.
2. Báo Công an nhân dân online có bài Cán bộ thi hành án vì tham chiếm 10 kg ma túy. Bài báo phản ánh: Đầu xuân Canh Dần, chúng tôi gặp Vũ Quốc Việt, nguyên cán bộ cơ quan Thi hành án tỉnh Lai Châu tại Trại tạm giam - Công an tỉnh này. Việt là thủ phạm chiếm đoạt hơn 10kg ma túy mà cơ quan Thi hành án chuẩn bị đem đi tiêu hủy. Giúp sức cho Việt là em họ của hắn - Nguyễn Hồng Quân, 29 tuổi. Hai án tử hình là kết cục quá đau xót cho những kẻ liều lĩnh, tham lam. 3 năm ăn Tết trong trại giam, Vũ Quốc Việt có quá đủ thời gian suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình. Hối hận, tiếc nuối về phút nông nổi tội lỗi, Việt chỉ mong rằng, không còn ai vì tham lam mà đánh mất tự do của chính bản thân mình như anh ta nữa.
Ngày 12/10/2007, Công an tỉnh Lai Châu nhận được tin báo, cơ quan Thi hành án tỉnh Lai Châu bị kẻ gian đột nhập, lấy đi 10kg ma tuý là vật chứng của hàng chục vụ án đã có hiệu lực pháp luật chờ tiêu huỷ. Ngay sau đó, một tổ công tác đặc biệt của Công an tỉnh Lai Châu đã có mặt tại hiện trường để khám nghiệm, thu thập dấu vết. Qua khám nghiệm hiện trường được biết, kẻ gian đã lấy khóa cửa kho, đột nhập lấy trộm 1 hòm tôn bên trong đựng 2,686kg heroin và 7,816kg thuốc phiện, là vật chứng của 29 vụ án. Quá trình điều tra, Công an tỉnh Lai Châu đã làm rõ đối tượng chiếm đoạt là Vũ Quốc Việt - chuyên viên của cơ quan Thi hành án và em con cô ruột của Việt tên là Nguyễn Hồng Quân, 29 tuổi, làm ở Công ty Máy tính Vạn Niên.
Theo lời khai của Việt thì anh ta được làm Thư ký Hội đồng tiêu hủy vật chứng nên biết rõ nơi để tang vật và nảy sinh ý định chiếm đoạt. Cuối năm 2007, TAND tỉnh Lai Châu đã mở phiên xét xử tuyên án Vũ Quốc Việt và Nguyễn Hồng Quân đều ở mức án tử hình. Không chấp nhận cái chết, Việt và Quân đồng loạt kháng án, nhưng Tòa phúc thẩm TAND tối cao cũng không thể nhẹ tay hơn, bởi quy định pháp luật đã rõ ràng. Và kết cục buồn dành cho hai kẻ có học, con nhà gia giáo này là điều không ai muốn xảy ra.
Tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Lai Châu một ngày đầu xuân Canh Dần, ngoài phòng đợi, chúng tôi gặp một phụ nữ ngoài 50 tuổi, mặc áo đen, mái tóc pha sương. Một cán bộ quản giáo giới thiệu, đó là mẹ của phạm nhân Vũ Quốc Việt. Nói trong nước mắt, người đàn bà này cho biết, vợ chồng chị đều là những công chức. Chồng chị từng làm Giám đốc một Sở ở Yên Bái, bản thân chị cũng là cán bộ Tòa án, kinh tế khá giả, các con được ăn học tử tế. Họ có 4 người con, 3 trai, 1 gái, Việt là con thứ hai. Anh trai của Việt đã chết vì nghiện ma tuý, mọi hy vọng của gia đình đều dành cho Việt khi anh ta tu chí, tốt nghiệp trường Luật, ra trường làm ở TAND huyện Yên Bình (Yên Bái).
Năm 2007, Việt chuyển về làm ở cơ quan Thi hành án Lai Châu. Lúc đó, đứa em con cô ruột là Nguyễn Hồng Quân cũng đã tốt nghiệp cao đẳng tin học, chưa có việc làm ổn định nên Việt đã đưa em sang Lai Châu xin việc cho. Nhận công tác tại cơ quan Thi hành án tỉnh Lai Châu mới được hơn 2 tháng thì Việt phát hiện cơ quan kiểm kê ma túy là tang vật của các vụ án đã có hiệu lực thi hành để hôm sau tiêu hủy. Biết số lượng ma túy sẽ là rất lớn, có giá trị cao, có thể mua được chiếc ôtô mà mình hằng mong ước nên Việt đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý vật chứng, anh ta đã thực hiện hành vi. Lúc đầu, Việt không nghĩ đến hậu quả nhưng khi bị cơ quan Công an hỏi đến, Việt lo lắng đến tột độ. Dù vậy, anh ta vẫn ngoan cố, bí mật mua sim điện thoại khác gọi điện cho Quân để bày mưu tính kế giấu tang vật. Có lẽ, Việt nghĩ rằng, với trình độ hiểu biết pháp luật của mình, anh ta sẽ che giấu được tội lỗi của mình. Giá như lúc đó, sau giây phút nông nổi ban đầu, Việt biết hối hận và tự thú với cơ quan Công an thì chắc chắn anh ta đã được khoan hồng…
Việt kể rằng, sau khi anh ta bị tuyên án, bố mẹ anh ta rất suy sụp, họ đã phải bán nhà ở TP Yên Bái để lên tận Mù Căng Chải sống với người con trai út. Hằng ngày, mẹ Việt phải bán rau ở chợ vừa để khuây khỏa nỗi buồn vừa có tiền để thăm nuôi con trai. Việt kể, thực sự ai cũng muốn mình được sống, nhất là những người đang đối diện cái chết như anh ta. Nhưng, bản thân từng tốt nghiệp Đại học Luật, từng công tác ở Tòa án, cơ quan thi hành án nên anh ta cũng hiểu cái giá phải trả của mình nên khi biết bố mẹ không "chạy" để mình thoát tội chết, Việt cũng không hề giận dỗi hay oán trách những người sinh thành. Điều mà Việt tiếc và ân hận nhất không chỉ là tự đánh mất cuộc sống của mình mà còn lôi kéo đứa em họ vào con đường chết. Việt bảo, giá như tôi không mờ mắt vì lòng tham thì đâu đến nỗi bản thân và Quân phải vào tội chết.
Thế mới biết, không chỉ những kẻ thiếu hiểu biết pháp luật mới ham làm giàu bất chính mà kể cả những người từng cầm cân nảy mực, từng bảo vệ pháp luật thì việc phải chiến thắng chính mình cũng thật khó. Mong rằng, đây cũng là bài học đắt giá cho tất cả mọi người, nhất là những người có điều kiện tiếp xúc với kinh tế. Đừng vì tham lam mà phải trả giá đắt.
3. Báo Lao động có bài Dự thảo Luật Thủ đô của Nguyễn Quang A. Bài báo phản ánh: Ngày 23.7.2009, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo dự án Luật Thủ đô, cuối tháng 8.2009 có quyết định phân công. Việc xây dựng Luật Thủ đô được tiến hành với tốc độ nhanh để trình Quốc hội xem xét, thông qua trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tại phiên họp sáng 9.2, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận đưa dự án Luật Thủ đô vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010.
Sau 4 tháng làm việc, tháng 12.2009, Ban soạn thảo trình làng bản Dự thảo Luật Thủ đô với 7 chương, 55 điều. Dự thảo lần 1 và lần 2 chưa được dư luận quan tâm nhiều. Nhưng Dự thảo lần thứ 3, được công bố ngày 16.1.2010, với 6 chương và 59 điều, đã bị dư luận phản ứng gay gắt. Sự phản đối chủ yếu là đối với Điều 19 của Dự thảo. Theo đó, người lần đầu đăng ký thường trú tại Thủ đô phải chứng minh có việc làm hợp pháp với mức lương ít nhất bằng hai lần mức lương tối thiểu của người lao động do pháp luật quy định; công dân muốn đăng ký thường trú tại Thủ đô phải đã tạm trú liên tục tại Thủ đô từ 5 năm trở lên; những người không thường trú hoặc tạm trú muốn làm việc tại Thủ đô thì phải có giấy phép lao động do Sở Lao động-Thương binh-Xã hội cấp. Đấy là những quy định trái với Hiến pháp và vi phạm quyền con người bị dư luận phản ứng dữ dội.
Có đại biểu Quốc hội cho rằng “Hiến pháp không có điều khoản nào nói rằng có quy định riêng cho thủ đô;...quy định riêng biệt cho thủ đô không những vướng một số luật hiện hành mà còn vướng Hiến pháp”. Theo tôi, đấy không phải là lý do “vướng Hiến pháp”, mà lý do chính là Điều 19 của Dự thảo lần 3 nêu trên. Hiến pháp không nói tường minh rằng phải có quy định riêng cho thủ đô, thì việc có Luật Thủ đô cũng không trái với Hiến pháp miễn là nội dung của nó phù hợp. Vướng các luật hiện hành thì đã được giải quyết bằng Điều 8 của Dự thảo lần 4.
Ngày 21.2.2010 trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp đã có thể thấy bản Dự thảo mới nhất (lần thứ 4) và nhân dân có thể góp ý trước 1.3.2010. Đáng mừng là các quy định bị phản ứng tại Điều 19 của Dự thảo lần 3 đã được bỏ đi. Ngoài ra Dự thảo lần này chỉ còn 4 chương và 34 điều. Đi kèm với dự thảo là các Dự thảo về Tờ trình dự án luật, Báo cáo đánh giá tác động, Bản thuyết minh chi tiết, Báo cáo nghiên cứu pháp luật thủ đô nước ngoài, Báo cáo tổng kết Pháp lệnh Thủ đô. Tất cả các tài liệu này đều có thể thấy trên trang thông tin của Bộ Tư pháp. Đó là một điều rất đáng mừng xét về mặt thủ tục.
Tuy nhiên, cần xem xét hiệu quả của việc góp ý trên trang thông tin điện tử. Trên trang thông tin đó của Bộ Tư pháp có 13 văn bản quy phạm pháp luật đang lấy ý kiến đóng góp, kể cả dự thảo Luật Thủ đô, nhưng tất cả mục ý kiến đóng góp đều thấy con số là 0. Tôi tò mò vào 25 văn bản quy phạm pháp luật đã hết thời hạn lấy ý kiến góp ý cũng tại trang tin đó và thấy tất cả các mục ý kiến đóng góp cũng đều là 0. Không rõ trang đó có lỗi kỹ thuật nào không. Nếu các con số đó là thực, thì số thống kê đáng buồn ấy cho thấy cách góp ý qua trang thông tin điện tử không mấy hiệu quả. Không rõ có bao nhiêu ý kiến đóng góp bằng văn bản được gửi đến Bộ qua đường bưu điện. Như thế cách góp ý trên các phương tiện thông tin đại chúng (kể cả trên Internet) có lẽ vẫn là kênh được sử dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất vì nó cho phép thảo luận. Nếu so sánh các Dự thảo lần 3 và lần 4 cũng như các ý kiến đóng góp, phê phán, đôi khi có đóng góp bị đánh giá là “đao to búa lớn”, nhưng những đóng góp mang tính xây dựng đã có hiệu quả thực sự. Đấy là một dấu hiệu rất đáng khích lệ đối với các nhà soạn thảo đã biết lắng nghe ý kiến phản biện, cũng như đối với dân chúng góp ý kiến. Sự đối thoại lành mạnh như vậy rất cần được trân trọng và phát huy không những cho việc góp ý cho Dự thảo Luật Thủ đô mà còn cho các chủ đề khác nữa.
Quay lại vấn đề gay cấn của Điều 19 Dự thảo lần 3. Điều này đã được thay bằng Điều 23 trong Dự thảo lần 4 với tên “Quản lý dân cư”: “1. Dân cư trên địa bàn được quản lý với quy mô, mật độ, cơ cấu hợp lý theo quy hoạch chung, phù hợp đặc điểm của thủ đô”. “2. Chính quyền thủ đô (hoặc Chính phủ) quy định về quản lý dân cư, các biện pháp kiểm soát nhập cư tự phát trên địa bàn Thủ đô, đặc biệt là khu vực nội đô”.
Báo cáo đánh giá tác động dài 38 trang đã dành hẳn 7 trang (từ trang 7 đến trang 14) để đánh giá 3 phương án giải quyết vấn đề nhập cư (để như hiện trạng; kiểm soát nhập cư theo Điều 19 của Dự thảo 3 chẳng hạn; và dùng các biện pháp khuyến khích để hạn chế tập trung dân cư trong khu vực nội thành và giãn dân ra khu vực ngoại thành), phân tích chi phí và lợi ích của từng phương án và đi đến kiến nghị dùng phương án cuối cùng. Tuy có thể bàn cãi về nội dung phân tích, nhưng đáng mừng là kết luận hợp đạo lý cuối cùng. Đáng tiếc là hành văn của mục 2 Điều 23 của Dự thảo lần 4 lại không toát ra ý tưởng đó mà vẫn dành cho chính quyền thủ đô (hoặc Chính phủ) quyền đưa ra các biện pháp kiểm soát rất có thể được hiểu và thực thi theo những cách khác nhau. Thay cho đoạn “các biện pháp kiểm soát ... nội đô” nên nêu tường minh là “các biện pháp khuyến khích để hạn chế tập trung dân cư trong khu vực nội thành và giãn dân ra khu vực ngoại thành”.
Có những dấu hiệu đáng khích lệ, nên tăng cường thảo luận vì làm như vậy sẽ góp phần nâng cao dân chủ và có thể tạo ra các chính sách hiệu quả hơn.