Trong buổi sáng ngày 26/02/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Kinh tế và đô thị phản ánh: Số lượng doanh nghiệp ở nước ta đang gia tăng mạnh mẽ, ước tính đến hết năm 2009 là 460 nghìn doanh nghiệp, tăng 15 lần trong vòng 9 năm. Song đáng tiếc là phần lớn các doanh nghiệp vẫn ở quy mô vừa và nhỏ, số doanh nghiệp tư nhân lớn còn quá khiêm tốn, trong khi các doanh nghiệp quy mô vừa cũng rất thưa thớt.
Trong báo cáo Top 500 doanh nghiệp lớn nhất của VietNam Report và VietNamNet công bố mới đây, vào năm 2009, chỉ có 28,9% trong số các doanh nghiệp này là của khu vực tư nhân. Tỷ lệ này có tăng so với mức 24% của năm 2008 nhưng phần lớn con số tăng trưởng có được là nhờ sự góp mặt của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Số các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, tập đoàn đi lên từ mô hình tư nhân, trải qua các giai đoạn từ công ty gia đình, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn chỉ rất giới hạn ở một vài tên tuổi quen thuộc như: Đồng Tâm, Kinh Đô, Trung Nguyên, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Saigon Invest, SSI, CMC..
Trên thực tế, sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa rất gian nan. Môi trường kinh doanh cũng như những hạn chế về trình độ quản trị, điều hành, vốn, công nghệ… là những rào cản khiến các doanh nghiệp khó có thể nhanh chóng lớn mạnh thành những đầu tàu cho nền kinh tế hoặc cho toàn bộ khu vực tư nhân. Trong năm 2008 và 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, số doanh nghiệp tư nhân có thể đảm đương vai trò là chỗ dựa giúp Chính phủ triển khai các chính sách chống khủng hoảng là vô cùng ít ỏi.
Còn nhớ trong danh sách 200 doanh nghiệp lớn nhất do UNDP công bố thì chỉ có 17 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Con số này quả là ít ỏi. Báo cáo này cũng cho biết, trong số 17 doanh nghiêp có rất ít doanh nghiệp xuất phát ban đầu là doanh nghiệp tư nhân, phần lớn là các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Ông Lê Duy Bình, thành viên Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư lo ngại: “Thiếu vắng doanh nghiệp lớn cũng đồng nghĩa với việc về trung hạn sẽ khó hy vọng có một vài doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có thể vươn xa hơn tới các quốc gia khác nhằm xây dựng một thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô đa quốc gia”. Mặc dù đã có một số doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam gặt hái được thành công trong việc xây dựng thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế như: Hoàng Anh Gia Lai, Trung Nguyên, Phở 24, Sacombank, CAVICO… nhưng để trở thành một tập đoàn đa quốc gia theo đúng nghĩa thì quả là còn một chặng đường gian nan.
Cũng theo ông Bình, khu vực tư nhân ở Việtđang thực sự thiếu vắng những doanh nghiệp cỡ vừa để có thể sớm trở thành những doanh nghiệp lớn. Nhằm củng cố nhận định này, đại diện Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư còn dẫn thêm các con số khảo sát trong Báo cáo Đánh giá 2 năm thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TƯ (CIEM) và UNDP năm 2008. Theo đó, 80% doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam có quy mô nhỏ, trong đó 80% có quy mô vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng và 87% sử dụng dưới 50 lao động. Điều này rõ ràng cho thấy, đang tồn tại một vài điểm “trũng” về chất lượng trong khối doanh nghiệp tư nhân ở nước ta. Nếu không được các nhà quản lý và nhà hoạch định kịp thời quan tâm đề xuất chính sách xử lý thì vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế sẽ có nguy cơ bị mờ nhạt trước bối cảnh toàn cầu có quá nhiều biến động như hiện nay.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Chiều 25-2, TP.HCM công bố kết quả của chương trình bình chọn 100 điều thú vị. Trong đó, 10 đặc sản được bình chọn là lụa tơ tằm, kế đến là áo dài và đồ thêu. Các đặc sản như đồ gốm sứ, xoài, sầu riêng, vú sữa, cà phê, hạt điều và nem Thủ Đức cũng được bình chọn.
Đường Nguyễn Huệ - Lê Lợi được bình chọn là khu phố về đêm hấp dẫn nhất, thứ hai là phố người Hoa ở chợ Lớn, kế đến là Công viên 23-9 - phố Tây Phạm Ngũ Lão, khu vực chợ Bến Thành, đường Đồng Khởi, đường Lê Thánh Tôn, Công viên Bến Bạch Đằng, Hồ Con Rùa, đường Nguyễn Tri Phương. Sự hấp dẫn của phố đêm có thể do phục vụ nhu cầu thư giãn, nhu cầu mua sắm hoặc ăn uống. Các điểm tham quan tiêu biểu gồm có dinh Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà - Bưu điện TP, chợ Bến Thành, Bến Nhà Rồng, địa đạo Củ Chi, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, Bảo tàng lịch sử, chùa Vĩnh Nghiêm, Du lịch Cần Giờ, công viên trước UBND TP. Ngoài ra, chương trình cũng bình chọn 10 điểm mua sắm hấp dẫn, 10 chương trình city-tour đặc sắc, 10 sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch tiêu biểu…
Chương trình bình chọn 100 điều thú vị kéo dài gần một năm, trong đó có khoảng ba tháng dành cho du khách quốc tế và nội địa bình chọn trực tiếp qua phiếu giấy (được cung cấp ở các điểm du lịch) và bình chọn trực tuyến qua website của chương trình.
3. Báo Lao động phản ánh: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao cộng với việc hàng loạt mặt hàng như xăng, điện... tăng giá đang là áp lực lớn cho nền kinh tế. Thực tế, CPI đã tăng gần 1/2 chỉ tiêu kiềm chế lạm phát của cả năm 2009 với con số lên tới 3,35% so với tháng 12.2009. Điều này chính là hậu quả của hàng loạt các nguyên nhân trước đó như việc tăng giá một số mặt hàng, tăng lương và đặc biệt là quy mô tiêu dùng toàn xã hội bị đẩy lên đỉnh điểm vào dịp tết. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan quản lý, chuyên gia kinh tế và NTD đang đặc biệt quan tâm đến đợt tăng giá xăng 590 đồng/lít hôm 21.2 và dự kiến tăng giá điện thêm 6,8% từ tháng 3 tới.
Theo chuyên gia kinh tế Bùi Trinh thì đương nhiên việc tăng giá những mặt hàng trên sẽ tác động đến sản xuất, tiêu dùng bởi sản xuất đầu vào trực tiếp bị tác động. Theo phân tích của chuyên gia Bùi Trinh bằng cấu trúc chi phí từ bảng cân đối liên ngành (input – output table) thì kịch bản xảy ra là: Tăng giá xăng 6,5% (cả 2 đợt của năm 2010) và tăng giá điện 6,8%. Kịch bản này, sau 2 – 3 tháng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành chung của nền kinh tế và ảnh hưởng lan toả sau 6 tháng đến 1 năm. Khi đó, giá thành sản phẩm sẽ tăng 0,07% và CPI tăng khoảng 1,07%. Kết quả là GDP sẽ giảm khoảng 1,44%. Đây là mức tăng CPI rất lớn và ảnh hưởng đến GDP cũng không nhỏ.
Đồng thuận quan điểm này, TS Nguyễn Quang A và TS Lê Đăng Doanh đều cho rằng các cơ quan quản lý không nên coi thường tác động của việc tăng giá. TS Nguyễn Quang A lo ngại về tác động tâm lý: Ví dụ từ những công bố, xã hội và người dân sẽ bị tạo tâm lý là mọi thứ sẽ tăng giá và hàng hoá khan hiếm. Từ đây, người dân tăng dự trữ, vô hình trung đẩy sự khan hiếm lên cao hơn và giá cả lại tăng hơn. Vòng xoáy càng mạnh, càng nhanh thì nguy cơ càng lớn. Trong con mắt của các chuyên gia, vai trò truyền thông gồm cả từ các cơ quan thông tin đại chúng và cơ quan quản lý là đặc biệt quan trọng ở thời điểm này. TS Nguyễn Quang A cho rằng không chủ quan coi thường nguy cơ này, nhưng cũng cần bình tĩnh, đừng hoảng hốt để xã hội rơi vào vòng xoáy.
Trong khi đó, TS Lê Đăng Doanh thì cho rằng vai trò kiểm soát của cơ quan quản lý cần phát huy cao độ. Ông Doanh cho biết theo số liệu mà ông có được thì với việc điều chỉnh tỉ giá và diễn biến thị trường, giá xăng tăng 400 đồng/lít là đã có lãi. Vì thế, không nên để cho DN tăng tới 590 đồng/lít. Nếu việc tăng giá bao nhiêu, tăng vào thời điểm nào được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng thì sẽ có thể kiểm soát tốt hơn CPI cũng như tác động xã hội. iêng với nguy cơ hình thành mặt bằng giá mới, TS Nguyễn Quang A cho rằng thực tế là nó đã hình thành. Chuyên gia này cho rằng cứ so sánh trực tiếp ở thị trường thì sẽ thấy giá trị tiền để mua cùng một lượng hàng đã chênh lệch lớn.
Tuy nhiên, TS Lê Đăng Doanh và chuyên gia Bùi Trinh thì cho rằng tuy sự chênh lệch đã có, nhưng mặt bằng giá mới sẽ có thể chính thức hình thành trong 2 – 3 tháng tới sau một chu kỳ sản xuất, quay vòng. Điều này càng nguy hiểm bởi sự tăng giá của mặt hàng tác động đến giá thành đầu vào. ới tất cả diễn biến này, TS Nguyễn Quang A cho rằng mục tiêu kiềm chế lạm phát 7% trong năm 2010 là rất khó. Trong khi đó, chuyên gia Bùi Trinh đưa ra cảnh báo: Khi nền kinh tế sử dụng sản phẩm đã tăng giá của chu kỳ thứ nhất thì sẽ tăng giá thêm một lần nữa. Đây là ảnh hưởng lan toả. Còn TS Lê Đăng Doanh thì cho rằng, cần thận trọng và kiểm soát giá một cách chặt chẽ mức tăng và thời điểm tăng. Thậm chí, chuyên gia này còn đề nghị, để tránh lạm phát tăng quá cao và tạo áp lực cho nền kinh tế thì cần cân nhắc đừng tăng giá vội vã và đồng loạt.
Báo cũng phản ánh: Đà Nẵng chuẩn bị thi tuyển chức danh phó giám đốc sở và tương đương. Chuyện thi tuyển cạnh tranh các chức danh lãnh đạo trong cơ quan nhà nước đã triển khai ở địa phương này từ năm 2006 và đã có trên 50 người được bổ nhiệm thông qua hình thức này.
Cẩn trọng thi tuyển từ cấp trưởng phòng, nay nâng lên cấp phó giám đốc sở là một bước đột phá mới. Đà Nẵng đang từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo được tuyển chọn từ thi tuyển để có thực chất, thực tài. Một điều quá rõ ràng là thi thố mới biết được năng lực, còn “quy hoạch” theo kiểu quan hệ và chạy chọt sau các cánh cửa riêng tư thì chỉ tạo cơ hội cho những kẻ bất tài, bởi vì người có thực tài và tự trọng không làm được những việc mờ ám.
Việc quy hoạch cán bộ và xếp ghế tạo ra quyền lực cho những người làm công việc đó. Sinh mệnh chính trị của nhiều người phụ thuộc vào một vài người, cho nên công tác tuyển chọn càng công khai, minh bạch, khách quan thì mới hạn chế tối đa các khả năng tiêu cực chạy chức, chạy quyền. Và lẽ tất nhiên, thi cử công khai là công bằng và khách quan nhất. Xóa bỏ bớt việc đề bạt trong phòng kín để thay bằng một cuộc cạnh tranh thông qua một kỳ thi giữa “thanh thiên bạch nhật” là một cách thức tìm kiếm nhân tài cho quốc gia, tìm người quang minh chính đại để phụng sự nước nhà. Chính quyền các địa phương đều tổ chức thi tuyển cạnh tranh chức danh lãnh đạo thì nhân tài khắp nơi có cơ hội thi thố và được trọng dụng. Đất nước có nhiều kẻ sĩ, bậc trung lương đưa vai gánh vác thì lo gì không giàu mạnh.
Thi tuyển trưởng phòng, phó giám đốc sở được thì chắc chắn sẽ thi tuyển giám đốc sở và các chức vụ cao hơn. Ở mỗi vị trí sẽ có những phương thức thi khác nhau, yêu cầu cao hơn và chịu sự quan sát của dân chúng nhiều hơn. Cuyện thi cử, tranh cử để chọn người tài chẳng có gì mới, ở các nước văn minh là chuyện đương nhiên phải làm. Ngẫm lại thấy cha ông ta vô cùng sáng suốt, mở các kỳ thi hương, thi hội, thi đình. Ai đỗ tới đâu thì được bổ nhiệm làm quan tới đó, không phân biệt con ai cháu ai, không “quy hoạch” theo lý lịch. Con cháu bây giờ mới triển khai thí điểm.
Đà Nẵng làm được thì địa phương khác cũng làm được. Có điều nhiều nơi vẫn muốn giữ yên cái cũ vì bảo thủ hoặc vì một số người sợ mất quyền lực ban phát. Muốn bản thân mình có quyền ban phát để thủ lợi đã ăn sâu vào nhận thức của chốn quan trường, cho nên thay đổi hoàn toàn không dễ.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Sáng 24-2, Bộ Tư pháp đã tổ chức thảo luận về Dự thảo Đề án “Tăng cường công tác trợ giúp pháp lý tại các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và các tỉnh Tây Bắc giai đoạn 2010-2015, định hướng đến 2020”.
Phó Cục trưởng - Cục Trợ giúp pháp lý Trần Huy Liệu cho biết, Cục Trợ giúp pháp lý (TGPL) đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Đề án để trình Bộ trưởng xem xét trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành trong tháng 6-2010. Trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng Đề án, những đánh giá về thực trạng công tác TGPL tại các huyện nghèo cũng đã được nêu ra.
Đến nay 63/63 địa phương đã có Trung tâm TGPL Nhà nước thuộc Sở Tư pháp; các tỉnh, huyện nghèo đã thành lập được Chi nhánh của Trung tâm TGPL, Tổ TGPL… Hàng năm, các Trung tâm đã thực hiện TGPL hàng chục nghìn vụ việc cho các huyện nghèo và tổ chức thực hiện hàng trăm đợt TGPL lưu động về các vùng sâu, vùng xa. Hoạt động này đã từng bước góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân tại các vùng sâu, vùng xa và vùng đặc biệt khó khăn. Thông qua hoạt động TGPL, bước đầu đã có tác động tích cực đến một bộ phận cán bộ và nhân dân về yêu cầu sống và làm việc theo pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh đó những tồn tại, hạn chế trong công tác TGPL tại các huyện nghèo cho thấy còn nhiều bất cập như nhận thức về công tác TGPL của các cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, tương xứng với nhiệm vụ được giao; Chất lượng TGPL chưa cao, chưa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL; Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL còn mỏng, chủ yếu tập trung tại các trung tâm tỉnh lỵ; Đội ngũ cán bộ thực hiện TGPL còn thiếu (đặc biệt là người dân tộc thiểu số). Ngoài ra, việc đầu tư trang thiết bị làm việc, kinh phí hoạt động nghiệp vụ chưa đảm bảo do chưa tính đến đặc thù vùng miền…
Sau khi nghe lãnh đạo Cục TGPL báo cáo, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã đánh giá chung về việc triển khai thực hiện xây dựng Dự thảo Đề án TGPL. Bộ trưởng chỉ đạo, có thể xây dựng Đề án bằng cách đưa ra các chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho từng nội dung hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp và hỗ trợ theo hướng tăng dần.
2. Báo điện tử Chính phủ phản ánh: Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án "Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việtđến năm 2020". Đây là cơ sở cho việc phát triển mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC) rộng khắp và phân bố hợp lý trên cả nước, đáp ứng nhu cầu công chứng toàn bộ các hợp đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Qua 2 năm thực hiện Luật Công chứng, số lượng TCHNCC và các công chứng viên đã phát triển nhanh về số lượng. Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước có 244 TCHNCC với hơn 600 công chứng viên.
Nhiều văn phòng công chứng được thành lập đã giảm áp lực lên bộ máy nhà nước và cũng là động lực để ngành này phát triển chuyên nghiệp hơn. Nhưng vấn đề mấu chốt là việc phát triển hành nghề công chứng chưa có quy hoạch tổng thể, hợp lý trên từng địa phương. Việc tổ chức thực hiện tách bạch giữa công chứng và chứng thực còn gặp nhiều khó khăn. Trên cả nước hiện có 28 địa phương có Văn phòng công chứng, trong đó riêng Hà Nội có đến 42 Văn phòng, TP. Hồ Chí Minh có 12 Văn phòng... Sự bố trí không đều và mang tính tự phát nên chưa đáp ứng được việc chuyển giao toàn bộ các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất từ UBND cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng để đảm bảo an toàn pháp lý cho giao dịch của người dân.
Vì vậy, việc quy hoạch phát triển TCHNCC phải được xây dựng trên cơ sở nhu cầu công chứng của xã hội, diện tích và phân bố dân cư, dự báo tốc độ phát triển và nhu cầu công chứng của từng khu vực, bảo đảm sự hài hòa, hợp lý trong quy hoạch phát triển, lấy cấp huyện làm đơn vị quy hoạch giữa các tổ chức hành nghề công chứng.
Theo Đề án này, trước hết sẽ tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá về tổ chức và hoạt động các TCHNCC trong phạm vi cả nước, kết hợp với khảo sát, học tập thêm kinh nghiệm xây dựng, quy hoạch phát triển TCHNCC ở nước ngoài (sẽ lấy Pháp, Đức là 2 nước để tham khảo). Việc khảo sát này phải được tiến hành thực hiện trong quý I/2010 với quy mô chọn mẫu điều tra theo vùng, miền để từ đó xác định các tiêu chí phân bố các TCHNCC theo từng khu vực.
Tiếp đó, tiến hành xây dựng, ban hành các tiêu chí xây dựng Quy hoạch TCHNCC ở địa phương và hướng dẫn các địa phương xây dựng Quy hoạch. Thời gian thực hiện hoạt động này vào Quý II/2010. Vào thời gian Quý II và III/2010, tiếp tục xây dựng Quy hoạch phát triển TCHNCC ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bằng cách rà soát, đánh giá các Đề án phát triển TCHNCC đã ban hành theo quy định của Nghị định số 2/2008/NĐ-CP và bổ sung, điều chỉnh, đề xuất Quy hoạch nói trên. Tất cả các đề xuất Quy hoạch về TCHNCC trên cả nước được hoàn thành và thẩm định bởi Hội đồng thẩm định liên ngành do Bộ Tư pháp thành lập. Trên cơ sở kết quả thực hiện 3 hoạt động trên, tiến hành nghiên cứu, xây dựng tổng thể Quy hoạch và hoạt động cuối cùng để hoàn tất Quy hoạch này được hoàn thành vào tháng 12/2010 và trình lên Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài Tìm mô hình quản lý chung cư tại HN. Bài báo phản ánh: Thời gian qua cùng với quá trình đô thị hoá ở nước ta, loại hình nhà chung cư (NCC) phát triển mạnh. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy của Nhà nước lại ra đời chậm và không đồng bộ, dẫn đến công tác quản lý, khai thác và sử dụng NCC thời gian qua có nhiều bất cập, gây mâu thuẫn giữa chủ đầu tư và cộng đồng cư dân NCC. Mâu thuẫn chủ yếu là việc tranh chấp về lợi ích tầng 1, về giá dịch vụ, chất lượng công trình. Và để khắc phục tình trạng trên, tôi xin nêu một số ý kiến sau đây.
Đó là những vướng mắc liên quan đến tranh chấp về quyền sở hữu, khai thác, sử dụng... Phải khẳng định NCC là tài sản thuộc cộng đồng chủ sở hữu bao gồm phần sở hữu riêng là các căn hộ và phần sở hữu chung trong NCC theo quy định của pháp luật. Như vậy, chủ sở hữu NCC phải quản lý ngôi nhà của mình. Thời gian qua không ít chủ đầu tư và kể cả một số người dân mua căn hộ cứ nghĩ rằng, NCC là của chủ đầu tư nên có những hành xử không đúng trong quá trình quản lý và sử dụng. Về vấn đề khai thác và vận hành NCC cũng đã có những quy định cụ thể quy định tầng 1 dành làm kinh doanh phục vụ khu dân cư. Tuy nhiên, hiện nay các diện tích tầng 1 NCC đều do các chủ đầu tư khai thác và một số chủ đầu tư đã trích một phần lợi nhuận trong việc khai thác kinh doanh tầng 1 để hỗ trợ giảm phí dịch vụ cho người dân. Song không ít chủ đầu tư giành phần hưởng toàn bộ lợi nhuận của hoạt động kinh doanh này; thậm chí có chủ đầu tư đã bán diện tích tầng 1 cho cá nhân.
Mối quan hệ giữa DN vận hành NCC và Ban quản trị là mối quan hệ hợp đồng cung ứng dịch vụ. Thời gian qua, không ít chủ đầu tư tự xem mình như chủ sở hữu NCC nên không thực hiện việc tổ chức hội nghị NCC để bầu Ban quản trị. Chủ đầu tư kiêm luôn việc cung ứng dịch vụ. Đội ngũ cán bộ nhân viên lại chưa qua đào tạo nên chất lượng cung ứng dịch vụ kém, nhất là công tác bảo vệ và vệ sinh môi trường. Trong quá trình phục vụ, chủ đầu tư với thái độ cửa quyền, tự áp đặt giá dịch vụ bắt dân phải chịu; nếu không thì áp dụng biện pháp cưỡng chế. Một số chủ đầu tư lại cho rằng, tầng hầm và tầng 1, nơi để xe của người dân trong NCC là thuộc sở hữu của mình. Do vậy không thực hiện việc công khai tài chính về hoạt động dịch vụ trông giữ xe tại khu vực này.
Việc sử dụng NCC bao gồm cả phần diện tích sử dụng chung và sử dụng riêng kể cả trước và sau khi có Luật Nhà ở đều xảy ra tình trạng vi phạm những điều cấm mà luật định. Hiện tượng phổ biến nhất là cứ mỗi lần thay chủ sở hữu hoặc người sử dụng thì diễn ra việc cải tạo căn hộ. Việc cải tạo ở không ít nơi được thực hiện tuỳ tiện. Tình trạng sử dụng căn hộ không đúng mục đích cũng diễn ra phổ biến như cho thuê làm văn phòng và địa điểm kinh doanh, làm bếp ăn tập thể cho cơ quan; thậm chí có chủ đầu tư giữ lại một số căn hộ làm trụ sở cho các Cty thành viên... Người dân mua NCC không chỉ mua chỗ ở mà điều quan trọng nhất là “mua” môi trường sống. Khi chào bán căn hộ, chủ đầu tư nào cũng đưa ra một viễn cảnh hấp dẫn của NCC. Song không ít nơi khi người dân về ở từ chỗ kỳ vọng đã chuyển sang thất vọng.
Đề nghị Bộ Xây dựng sửa khoản 4, Điều 12 Quyết định 08/2008/QĐ-BXD về việc giao cho UBND cấp phường công nhận Ban quản trị NCC. Ban quản trị là người đại diện cho cộng đồng chủ sở hữu NCC có đủ tư cách như một thể nhân để ký kết hợp đồng với các đợn vị cung ứng dịch vụ. Trong trường hợp cần thiết NCC có thể thành lập CTCP hoặc hợp tác xã cung ứng dịch vụ NCC theo Luật DN và luật HTX. BXD cũng cần hướng dẫn việc thực hiện khoản b mục 2 Điều 54 của NĐ 90/2006/NĐ - CP về khoản 30% phí bảo trì do ngân sách địa phương hỗ trợ đối với những NCC bán trước khi có Luật Nhà ở. Các khu NCC này hiện nay đang do chủ đầu tư quản lý chưa được triển khai thành lập quỹ bảo trì nên việc bảo trì, sửa chữa những hư hỏng gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tuổi thọ công trình.
Đối với NCC phục vụ tái định cư đề nghị TP giao cho đại diện là Ban quản trị tự quản, kể cả việc khai thác tầng 1 để phục vụ cho việc bảo trì ngôi nhà. Kinh nghiệm ở một số nơi cho thấy, kể từ khi dân tự quản thì ngôi nhà đựợc duy tu bảo dưỡng tốt, phí dịch vụ ổn định, phù hợp. Theo quyết định 76/2004/QĐ - UB nêu trên thì diện tích tầng 1, tầng hầm nhà chung cư là thuộc sở hữu nhà nước. Đối với dự án triển khai trước khi có QĐ trên thì đề nghị TP cho kiểm toán nguồn vốn xây dựng và việc thực hiện dự án cấp thẩm quyền phê duyệt của chủ đầu tư. Những nơi đã được kiểm toán kết luận tầng 1 thuộc sở hữu nhà nước thì yêu cầu chủ đầu tư bàn giao lại cho TP. Những nơi đã đưa giá trị tầng 1 vào CPH, đề nghị TP khôi phục lại quyền sở hữu nhà nước như đã quy định ban đầu. Thành phố cần yêu cầu các chủ đầu tư bàn giao các dự án đã đưa vào sử dụng quá 5 năm để các ngành chức năng của TP quản lý như tất cả các khu dân cư khác trong thành phố; tránh biến các khu đô thị mới là lãnh địa riêng của chủ đầu tư (trừ một số dự án đặc thù theo luật đầu tư nước ngoài).