Trong buổi sáng ngày 23/02/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Từ năm 2012, VN có thể sẽ cạn than. Theo kế hoạch, năm 2020, VN cần nhập khẩu trên 100 triệu tấn than/năm để duy trì sản xuất điện. Đây là mức chi rất lớn, sẽ đẩy giá điện lên cao, gây sức ép đối với sản xuất trong nước.
Theo chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện đến năm 2015, VN sẽ thiếu than cho sản xuất điện. Nhằm duy trì hoạt động của các nhà máy nhiệt điện với mục đích phục vụ nhu cầu phụ tải của sản xuất và đời sống, nước ta buộc phải nhập khẩu than. Để giải bài toán nhu cầu năng lượng, 3 tập đoàn gồm Công nghiệp Than - Khoáng sản VN (TKV), Dầu khí VN và Điện lực VN vừa hoàn tất đề án trình Chính phủ xin thành lập Ban Chỉ đạo nhập khẩu than cho tổng sơ đồ phát triển điện VN. Tuy nhiên, phương án nhập khẩu than của VN đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều, cho rằng khó khả thi bởi giá thành sẽ rất cao và việc mua than không hề đơn giản như... ra chợ mua rau.
Theo chiến lược phát triển ngành điện, đến năm 2005, sản lượng điện đạt khoảng 53 tỉ KWh, năm 2010 đạt khoảng từ 88 - 93 tỉ KWh và năm 2020 đạt từ 201 - 250 tỉ KWh. Trong đó, nhiệt điện than đến năm 2010 có tổng công suất khoảng 4.400 MW, giai đoạn 2011-2020 xây dựng thêm khoảng 4.500-5.500 MW (phụ tải cơ sở), 8.000-10.000 MW (phụ tải cao). Trong khi đó, theo TKV, do các mỏ khai thác than ở Quảng Ninh và nhiều tỉnh, thành khác thuộc tập đoàn đã gần “kịch trần” đối với loại than cho sản xuất điện nên kể từ năm 2015 trở đi, VN sẽ buộc phải nhập khẩu số lượng than lớn cho sản xuất điện và đến năm 2020, số lượng than sẽ phải nhập mỗi năm lên tới 100 triệu tấn.
Còn theo báo cáo giám sát của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (QH) vào cuối năm 2009 về “Việc thực hiện chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện đến năm 2015” (gọi tắt là chiến lược), công suất nguồn điện chạy than lớn hơn số định hướng trong chiến lược (do nhu cầu tăng nhanh) và cao hơn khả năng cung ứng than nội địa, vì thế phải nhập khẩu than nếu muốn duy trì hoạt động của các nhà máy nhiệt điện. Tuy nhiên, ông Hà Văn Hiền, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của QH, cho rằng do công suất nguồn điện chạy than lớn hơn định hướng trong chiến lược nên tình trạng thiếu than có thể bắt đầu từ năm 2012. Theo ông Hiền, từ năm 2015, tổng công suất nguồn điện chạy than lên đến trên 43.660 MW và dự báo nhu cầu than khoảng 78 triệu tấn/năm, vượt hơn rất nhiều khả năng cung ứng trong nước.
Điều lo ngại là, theo ông Hà Văn Hiền, việc nhập khẩu than từ ngay năm 2012 cũng hết sức khó khăn do thị trường than trên thế giới đã định vị tương đối ổn định và việc chen chân để mua được than không hề đơn giản. Hậu quả là dẫn đến việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện chạy than đã có trong danh mục phát triển nguồn điện của Quy hoạch điện VI, đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện chạy than đặt ở phía Nam, không tránh khỏi khó khăn về tiến độ thực hiện, đồng thời nếu nhập được than thì giá thành sản xuất điện sẽ tăng cao.
TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc Công ty Năng lượng sông Hồng (thuộc TKV), khẳng định: “VN sẽ không bao giờ nhập khẩu được than cho sản xuất điện vì không đủ năng lực tài chính để đầu tư khai thác than ở nước ngoài và giá thành quá chênh lệch so với giá thành sản xuất hiện nay ở trong nước”. Ông Sơn dẫn chứng cho nhìn nhận của mình bằng việc mới đây Trung Quốc đầu tư 5,6 tỉ USD vào Úc để khai thác 30 triệu tấn than/năm. Theo ông Sơn, để tránh việc nhập khẩu than chỉ còn cách sử dụng tiết kiệm điện, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, tự nhiên (gió, mặt trời...), phát triển nhà máy điện nguyên tử và giải pháp khả thi nhất là khai thác bể than sông Hồng.
Tổng Giám đốc TKV Trần Xuân Hòa cho biết vào thời điểm năm 2020, VN sẽ phải nhập khẩu trên 100 triệu tấn than/năm để duy trì sản xuất điện với mức giá 120 USD/tấn (thời điểm hiện nay) là một khoản chi ngoại tệ rất lớn, nếu không có ngay biện pháp cho bài toán cạn than sản xuất điện thì nguy cơ thiếu điện rất dễ xảy ra.
2. Trang web Vtc.vn có bài Thủ tướng: Chấm dứt ngay việc sa đà vào du xuân, lễ hội. Bài báo phản ánh: Hôm qua (22/2), Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thông báo, Chính phủ đánh giá, năm nay, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động hơn nhiều trong việc chuẩn bị, chăm lo Tết cho người dân, đảm bảo Tết vui tươi, an toàn, lành mạnh, tiết kiệm. Cùng với đó, đời sống người dân được cải thiện rõ nét hơn, đặc biệt là các hộ nghèo, gia đình chính sách, đồng bào vùng sâu, vùng xa; An ninh trật tự cũng tốt hơn; Tệ đốt pháo cũng được kiểm soát, giảm hẳn so với năm ngoái... Tuy nhiên, cũng theo Bộ trưởng Phúc, tai nạn gia thông lại tăng cao hơn; hoạt động vận tải hành khách sau Tết đang diễn biến phức tạp; ùn tắc giao thông và lộn xộn ở một số lễ hội chưa được khắc phục có hiệu quả...
Theo đó, Thủ tướng chỉ đạo, phải tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu ngay từ những ngày tháng đầu của năm mới. Các cơ quan Nhà nước tập trung giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp, chấn chỉnh kỷ luật lao động. Cùng với đó, chấm dứt ngay hiện tượng du xuân sa đà và lễ hội phô trương, hình thức, tốn kém. Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy định làm việc bù vào ngày thứ 7 (27/2/2010).
Thủ tướng cũng chỉ đạo kiểm soát giá cả thị trường, giá hàng hóa sau Tết, coi trọng điều hành thị trường tiền tệ, đảm bảo bình ổn thị trường... Phải tập trung mọi nỗ lực để chống hạn, bảo đảm gieo cấy vụ Đông Xuân kịp thời vụ, quan tâm phòng chống dịch bệnh, cháy rừng, nhất là khu vực Nam bộ, Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc. Thủ tướng yêu cầu Bộ LĐ-TB&XH, UBND các tỉnh, TP kiểm tra sát sao tình hình đời sống nhân dân trong mùa giáp hạt, nhất là những hộ nghèo, gia đình chính sách. Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công an tăng cường lực lượng tuần tra, kiểm soát, xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm, tập trung truy quét tội phạm và các tệ nạn xã hội, hạn chế tới mức thấp nhất tại nạn và ùn tắc giao thông.Yêu cầu Bộ VH-TT&DL phải liên tục kiểm tra, chỉ đạo các địa phương tổ chức lễ hội tiết kiệm, an toàn, chống lãng phí, xử phạt nghiêm minh những hành vi tiêu cực tại các lễ hội.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế năm 2010, Thủ tướng Chính phủ vừa có quyết định cho phép gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) trong thời gian 3 tháng, áp dụng từ ngày 10-4-2010.
Theo quyết định, chính sách gia hạn này áp dụng đối với số thuế TNDN phải nộp năm 2010 của doanh nghiệp nhỏ và vừa và số thuế TNDN phải nộp năm 2010 từ hoạt động sản xuất, gia công dệt, may, da, giày, dép của doanh nghiệp. Việc gia hạn nộp thuế cũng áp dụng đối với các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ và nộp thuế theo kê khai.
Báo cũng có bài Quỹ nhà ở xã hội: Ôm đất, đầu cơ dự án?. Bài báo phản ánh: Tại cuộc họp mới đây do UBND TP Hà Nội chủ trì, Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội cho biết, quỹ nhà ở tại thủ đô, đặc biệt là loại nhà mà cán bộ, công chức có thể “với tới” được vẫn đang thiếu nghiêm trọng. Đây là tình trạng chung ở nhiều đô thị lớn trên cả nước. Lâu nay, các khu nhà ở được đầu tư xây dựng vẫn chủ yếu là nhà ở thương mại với giá cao nhằm thu lợi nhuận lớn, nên những người có thu nhập thấp không thể mua được. Để làm dịu cơn khát nhà ở, Chính phủ đã ban hành các chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở xã hội.
Kết quả mới nhìn qua thì rất khả quan: chỉ trong hơn 1 năm trở lại đây, cả nước đã có tới 263 dự án nhà ở thu nhập thấp đăng ký triển khai, tổng mức đầu tư khoảng 72.710 tỷ đồng, tương đương số căn hộ dự kiến 205.380 căn. Trong đó, vốn đối ứng của địa phương khoảng 2.958 tỷ đồng, vốn huy động từ các thành phần kinh tế khoảng 69.752 tỷ đồng. Ngoài ra, còn có 264 dự án nhà ở công nhân đăng ký triển khai, tổng mức đầu tư khoảng 59.245 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng của địa phương khoảng 5.455 tỷ đồng, vốn huy động từ các thành phần kinh tế khoảng 53.790 tỷ đồng... Theo tính toán của Bộ Xây dựng, một căn hộ nhà ở xã hội diện tích 50m² có mức giá bán bình quân 300 - 500 triệu đồng. Nếu thực hiện hình thức thuê mua (trả trước 20%) trong 20 năm, hàng tháng, người mua chỉ phải trả khoảng 2 triệu đồng cho 1 căn hộ (4 người). Do đó, mức giá này phù hợp với khả năng chi trả đối với các hộ gia đình có thu nhập bình quân khoảng dưới 2 triệu đồng/tháng/người. Dự kiến trong năm 2010, những dự án nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, nhà ở thu nhập thấp đầu tiên sẽ được đưa vào sử dụng như dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị mới Việt Hưng (Hà Nội); dự án nhà ở cho người thu nhập thấp tại Vĩnh Yên do Công ty cổ phần Bê tông và xây dựng Vinaconex Xuân Mai làm chủ đầu tư (Vĩnh Phúc) và 16 dự án nhà ở xã hội trên địa bàn TP Hồ Chí Minh với tổng số 1.609 căn hộ chung cư...
Trong khi chủ trương xây dựng quỹ nhà ở xã hội là điều không cần phải tranh luận thì một thực tế đáng chú ý là số được khởi công, thi công thực sự lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng), số dự án thực sự khởi công chỉ chiếm khoảng trên 10%. Quỹ nhà có thể sử dụng càng ít hơn. Cả nước hiện mới có 24 dự án nhà công nhân và 31 dự án nhà cho người thu nhập thấp khởi công, trong khi số đăng ký lên tới trên 500 dự án...
Ông Vũ Ngọc Đạm, Trưởng phòng Phát triển nhà - Sở Xây dựng Hà Nội cũng xác nhận, số dự án nhà ở xã hội đang lấy ý kiến các cơ quan chức năng ở thủ đô đạt tới tổng diện tích đất 4.179 ha. Tuy thế, thành phố mới chấp thuận chủ trương đầu tư cho một số ít nhà đầu tư như Công ty cổ phần Xây dựng số 3 Hà Nội (dự án tại Khu Sài Đồng, Long Biên); Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Hà Nội số 5 (dự án tại Sài Đồng, Long Biên)... Và cũng phải tới giữa quý 4-2010, Hà Nội mới có 800 căn hộ đầu tiên thuộc loại này được bàn giao.
Theo một chủ đầu tư, cơ chế, chính sách hiện chưa thực sự hấp dẫn để các doanh nghiệp mặn mà trong việc xây dựng nhà ở xã hội. Bên cạnh đó, chủ đầu tư lại rất khó huy động vốn ứng trước của người mua như khi phát triển các dự án nhà ở thương mại, thời gian thu hồi vốn lại kéo dài nếu áp dụng hình thức cho thuê, thuê mua nên doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn về vốn đầu tư. “Mặc dù Bộ Xây dựng có quy định các địa phương phải bố trí quỹ đất dành để đầu tư xây dựng nhà giá thấp gắn với quy hoạch các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị mới (tỷ lệ tối thiểu 20%) hoặc quy hoạch bố trí riêng quỹ đất cho các dự án nhà ở thu nhập thấp, song có rất ít địa phương triển khai điều chỉnh quy hoạch để tạo quỹ đất xây dựng nhà ở thu nhập thấp. Đó là chưa kể trình tự, thủ tục hành chính triển khai dự án ở một số địa phương vẫn rất phức tạp”, doanh nhân nói trên phàn nàn.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vietnamnet có bài Trả lương và thuế online: người dùng mong đợi, thực tế có khả thi?. Bài báo phản ánh: Tháng 3/2006 Luật giao dịch điện tử có hiệu lực. Giao dịch qua mạng đã trở thành phổ biến của mọi thành phần kinh tế xã hội, khi 20 triệu dân Việt Nam được dùng Internet. Internet và giao dịch điện tử là cơ sở công nghệ để thực hiện cải cách hành chính, là phương tiện hiệu quả nhất để tận diệt thủ tục “hành là chính”. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là ở thời điểm hiện tại, các hoạt động quản lý, giao dịch qua mạng ở Việt Nam có mức độ khả thi như thế nào?
Trước nay, việc ứng dụng khai báo hải quan điện tử, thuế qua mạng, chính phủ điện tử đã được nhắc đến không ít và qua quá trình thực hiện, cũng có không ít lần đón nhận khen chê, điều tiếng. Việc đòi hỏi một hệ thống giao dịch, quản lý “điện tử hóa” liên hoàn, đồng bộ trên toàn quốc ngay một sớm một chiều là khó khả thi. Trong điều kiện đó, cần lựa chọn một số công việc, qui trình hành chính có tính chất điển hình, có ảnh hưởng rộng lớn đến toàn xã hội người dân doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước để áp dụng giao dịch qua mạng thì sẽ là bước đột phá tạo được tiền đề cho nền hành chính điện tử.
Hiện nay, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngân hàng Quốc Tế (VIB) và công ty MacroNT đã thực hiện hoàn chỉnh công việc quản lý tính toán và chi trả thu nhập online. Theo đó, Cục CNTT Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bước đầu thử nghiệm dùng phần mềm online tại địa chỉ http://www.luong.vn để quản lý và thanh toán lương thu nhập cho cán bộ nhân viên.
Theo ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục CNTT, Bộ Giáo dục, để áp dụng dịch vụ trả lương online, thủ trưởng đơn vị chỉ cần phê duyệt bảng lương trên Internet, ký xác thực điện tử, sau đó chỉ thị chuyển tới ngân hàng qua Internet, thay vì phải ký duyệt bảng lương trên giấy và gửi ra ngân hàng để chuyển tiền vào từng tài khoản cá nhân. Tuy nhiên, hạn chế hiện nay là do còn chưa kết nối được với kho bạc nên việc quản lý và trả lương online cũng mới giải quyết được một nửa thủ tục; Thủ trưởng đơn vị vẫn cần ký vào bản giấy để yêu cầu kho bạc chuyển tiền tới ngân hàng trả lương. Thực hiện quản lý lương online đảm bảo an toàn bảo mật, nhanh chóng và bớt các quy trình nghiệp vụ, thủ tục hành chính… Qua thời gian sử dụng thí điểm, tôi thấy chương trình này bước đầu khả thi. Người thụ hưởng lương được hưởng đầy đủ các tiện ích của Internet Banking do VIB cung cấp.
Theo ông Nguyễn Thế Minh, giám đốc công ty MacroNT Việt Nam, các phần mềm luong.vn thuethunhap.vn được việt hóa từ các phần mềm của công ty MacroNT Canada, tại Canada các phần mềm này đã được chính phủ Canada chứng nhận đủ điều kiện và được đưa vào sử dụng từ năm 2004, và được đánh giá là một trong ba giải pháp phần mềm thuế tốt nhất Canada. Hệ thống phần mềm trả lương, kê khai và nộp thuế qua mạng được ứng dụng tại Việt Nam cách đây bốn tháng, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính mà không phải mất tiền bản quyền phần mềm và sử dụng dễ dàng như một công cụ online trên mạng. Mặc dù 2 dịch vụ đã được triển khai thí điểm tại Cục Công nghệ Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Đại học Ngoại Thương chưa có quy mô lớn, nhưng các đơn vị tham gia với điều kiện nguồn lực công nghệ, nhân sự hiện tại cùng với ngân hàng Quốc Tế (VIB) và công ty MacroNT Việt Nam đã nỗ lực thực hiện hoàn chỉnh qui trình giao dịch qua mạng phù hợp với Luật giao dịch điện tử và hạ tầng Internet của Việt Nam. Thực tế áp dụng thành công đó đã chứng tỏ Việt Nam hoàn toàn có thể nhân rộng quy mô.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tăng cường mức độ khả thi của giao dịch qua mạng, thúc đẩy nhanh cải cách hành chính. Trước hết, cần quyết tâm của các cơ quan quản lý: Tài chính, Kho bạc, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan. Thời gian qua, từ những dự án như Tabmis, phối hợp Thuế-Kho bạc-Ngân hàng thu ngân sách, hệ thống nộp hồ sơ khai thuế qua mạng, khai báo hải quan qua mạng; từ Luật giao dịch điện tử, Luật thuế thu nhập cá nhân một sắc thuế mang tầm chiến lược cho kinh tế xã hội Việt Nam với sức ảnh hưởng sâu rộng của nó đến phần lớn người dân, doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước Việt Nam; đã cho thấy quyết tâm của nhà nước của các cơ quan ban ngành và cũng cho thấy một cơ hội để có thể cùng chung tay Giao dịch qua mạng và tận diệt thủ tục “hành là chính”.
Về mức độ sẵn sàng của cơ quan quản lý, theo bà Hải Đường, Cục trưởng Cục Tin học - Tổng cục Thuế, khả năng ứng dụng công nghệ trong việc kê khai thuế, nộp thuế qua mạng hoàn toàn sẵn sàng. Tuy nhiên, việc thực hịên trên thực tế có những khó khăn ban đầu bởi đây là giao dịch hoàn toàn mới, người sử dụng chưa hình thành thói quen áp dụng, chưa hiểu biết đầy đủ về các quy định quản lý chữ ký điện tử, nên còn e ngại, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai. Theo bà Hải Đường, việc triển khai kê khai thuế qua mạng sẽ thuận lợi cho cả đôi bên, trước đây khi gần đến hạn kê khai thuế, các DN cũng như người nộp thuế đổ đến cơ quan thuế rất đông, rất tốn kém và lãng phí thời gian, chi phí, nhân lực.
Việc sử dụng kê khai thuế qua mạng chính xác hơn thông qua các phần mềm có sẵn là hình thức kê khai, quản lý thuế hiện đại và giảm thiểu những phí tổn này. Ngành thuế xây dựng dự án kê khai thuế qua mạng cách đây 2 năm, chính thức triển khai từ đầu 2009 và đã triển khai thành công tại 4 TP: HCM, Vũng Tàu, Hà Nội, Đà nẵng. Hiện nay có gần 500 doanh nghiệp đăng ký kê khai thuế qua mạng, nhưng có khoảng 90% trong số trên đã thực hiện kê khai thuế qua mạng. Trong năm 2010, sẽ tiếp tục triển khai mở rộng thêm trên 6 tỉnh để đạt hơn 8000 doanh nghiệp.
Nên chăng coi đây là một cơ hội để các bên liên quan cùng vào cuộc, để giao dịch điện tử có chỗ đứng và phát huy đúng tiềm năng, tác dụng của nó? Mời quí đọc giả góp ý kiến tại đây, và có thể tham khảo mô hình khai thuế Online theo địa chỉ http://www.TTNCN.vn hoặc http://www.thuethunhap.vn hoặc http://www.taxonline.vn. 2. Báo Người lao động có bài Sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản phù hợp với thực tiễn. Bài báo phản ánh: Bà Nguyễn Thị Kim Anh, Vụ phó Vụ Pháp chế, Bộ NN-PTNT cho biết hiện Vụ Pháp chế đang chủ trì nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản.
Mục đích sửa luật lần này nhằm bảo đảm tính phù hợp hơn nữa của luật với thực tiễn phát triển nhanh của ngành thủy sản; bảo đảm Luật Thủy sản phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành như Luật Đất đai, Luật Đa dạng sinh học, dự án Luật An toàn vệ sinh thực phẩm...; phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan.
Theo Bộ NN-PTNT, để luật thực sự đi vào cuộc sống, ngành cần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người dân, cũng như có cơ chế để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghề cá, nâng cao tay nghề, kỹ thuật cho bà con. Bên cạnh đó, ngành sẽ cân nhắc để đưa ra những quy định phù hợp, như quy định về trang thiết bị cho tàu cá khi ra khơi, bảo đảm tăng giá trị của sản phẩm sau khai thác; vấn đề về thống kê nghề cá, điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản. Luật cũng sẽ có nội dung điều chỉnh để khuyến khích phát triển tàu cá xa bờ, đồng thời có các quy định, hướng dẫn tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp trong hoạt động khai thác thủy sản ven bờ.