Điểm tin báo chí ngày 09 tháng 02 năm 2010

10/02/2010
Trong buổi sáng ngày 09/02/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Lao động phản ánh: Hành vi tham nhũng phải được thay đổi với sự tham gia của Nhà nước cùng công dân và phải coi những hành vi nhũng nhiễu trong cơ quan hành chính, không giữ lời hứa với công dân cũng là tham nhũng.Đó là những lời phát biểu của ông Jae Oh Lee - Chủ tịch ACRC - tại lễ ký kết ghi nhớ hợp tác phòng, chống tham nhũng giữa Văn phòng chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng VN và Uỷ ban Chống tham nhũng và quyền công dân Hàn Quốc (ACRC) diễn ra ngày 3.2 tại Hà Nội.
Điều mà ông Jae Oh Lee đặt ra khá mới mẻ và rất đáng để suy nghĩ. Từ trước đến nay, nói đến tham nhũng là nói đến việc dùng chức vụ, quyền lực để vơ vét tiền của. Cho nên, tội phạm tham nhũng thuộc nhóm tội phạm có chức vụ; còn những cán bộ, công chức bình thường không có điều kiện để vơ vét. Trên thực tế, các vụ án tham nhũng cho thấy, người phạm tội đều là những quan chức có quyền hành và số tiền đút túi luôn có giá trị lớn.
Nhưng hiểu tham nhũng như vậy chưa đủ, đó chỉ là hành vi phạm tội đã được quy định trong Bộ luật Hình sự. Ở đây, cần phải hiểu con đường đi từ "nhũng" đến "tham" để trị liệu từ đầu. Tại sao một cán bộ, công chức nhũng nhiễu? Có thể trả lời, đây là tín hiệu họ cố tình phát ra để buộc công dân phải lo lót hay làm những việc thoả mãn mục đích của họ. "Nhũng" trước mới "tham" sau, cho nên phải hiểu rằng chỉ cần nhũng nhiễu là đã có dấu hiệu tham nhũng, không phải đợi đến khi bỏ tiền vào két rồi mới được xem là có dấu hiệu. Việc cán bộ chính quyền không giữ lời hứa với công dân cũng vì mục đích như vậy. Người dân, doanh nghiệp đến các cơ quan công quyền để làm các hồ sơ, thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm của cán bộ công chức là phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu chính đáng và hợp pháp của công dân. Nếu cán bộ nhà nước không giải quyết các thủ tục mà hẹn đi hẹn lại nhiều lần thì chứng tỏ ông ta phát ra tín hiệu đòi hỏi đối tượng liên hệ phải chung chi mới được việc. Cho nên, không giữ lời hứa, hành hạ công dân đi lại nhiều lần chính là dấu hiệu của tham nhũng.
Quyền công dân được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, thuộc nhiều mối quan hệ đa dạng, trong đó có quyền được Nhà nước phục vụ và bảo vệ. Quan chức chính quyền dù là ở vị trí nào cũng là để phục vụ nhân dân, không được phép nhũng nhiễu dân dù bất kỳ lý do gì. "Nhũng" là để "tham". Quan không tham thì sẽ không nhũng.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Sáng nay 9-2, phiên họp thứ 28 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chính thức khai mạc.
Phiên họp sẽ diễn ra trong một ngày. Ủy ban Thường vụ QH sẽ xem xét thông qua Nghị quyết điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010 và nhiệm kỳ khóa XII (2007 – 2011), cho ý kiến về việc chuẩn bị kỳ họp thứ VII, Quốc hội khóa XII.
Hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ được tiến hành vào phiên họp thứ 30 (tiến hành vào tháng 4-2010),  phiên họp thứ 34 (tháng 9-2010).
3. Báo Thanh niên phản ánh: Chiều 8-2, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết dịch cúm gia cầm đang có dấu hiệu gia tăng nhanh tại các tỉnh. Hiện đã có sáu tỉnh có dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày là Cà Mau, Hà Tĩnh, Điện Biên, Sóc Trăng, Kon Tum và Quảng Trị.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Thời báo kinh tế Sài Gòn có bài Lo chữa, quên phòng. Bài báo phản ánh: Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ, thời gian gần đây các vụ tranh chấp thương mại của các doanh nghiệp tại ĐBSCL đang có dấu hiệu gia tăng. Và trong nhiều trường hợp, chủ nợ luôn là người chịu thiệt vì thiếu quan tâm đến vấn đề pháp lý trước khi ký hợp đồng làm ăn.
“Hai năm vừa qua, chúng tôi gặp rất nhiều nợ khó đòi! Rất kẹt, nhưng cũng chỉ thuyết phục con nợ là chính”, ông Lê Quang Tâm, Giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Gentraco, than vãn. Thế nhưng, khi công ty cử người đi đòi nợ thì luôn phải nghe “điệp khúc” từ phía khách hàng, vốn là các hộ nuôi cá, rằng do thua lỗ, không có khả năng thanh toán. Vừa qua, Gentraco đã buộc phải kiện ra tòa một khách hàng ở Bình Dương, do khoản nợ kéo dài đến hai năm. Theo quy định, tòa án mời hai bên đến hòa giải. Lần thứ nhất hòa giải không thành, lần thứ hai thì bên mắc nợ không đến. Vậy là công ty buộc phải chờ tòa xử. Tuy nhiên, điều khiến ông Tâm lo lắng là nếu thu hồi được nợ thì khách hàng cũng chỉ phải trả lãi suất nợ quá hạn khoảng 1,5%/tháng, thấp hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng mà công ty đi vay ở thời điểm đó. Khoản chênh lệch này, đương nhiên công ty buộc phải gánh.
Ông Nguyễn Phương Lam, Trưởng phòng Pháp chế, VCCI chi nhánh Cần Thơ, cho biết chỉ trong hai tháng cuối năm 2009 đã nhận được tám hồ sơ đề nghị hỗ trợ giải quyết tranh chấp, phần lớn là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. “Trước đây, VCCI nhận rất ít hồ sơ dạng này và nội dung sự vụ cũng không mấy phức tạp”, ông Lam cho biết.
Còn luật sư Nguyễn Trường Thành (Cần Thơ) cho biết gần đây văn phòng luật của ông cũng nhận tư vấn nhiều trường hợp tranh chấp hợp đồng đòi nợ. “Có doanh nghiệp, chúng tôi phải giúp họ xử lý đến 38 vụ đòi và trả nợ chỉ trong vòng một năm rưỡi”, ông cho biết.
Theo một số chuyên gia, do ảnh hưởng dây chuyền từ cuộc khủng hoảng kinh tế, hai năm nay nhiều hộ nuôi cá tra thua lỗ nặng nên phát sinh nhiều vụ tranh chấp thương mại, phổ biến là giữa doanh nghiệp cung cấp thức ăn và người nuôi cá. Theo một số doanh nghiệp, khi đăng ký làm việc thì khách hàng nợ đột ngột “mất tích”, thậm chí có trường hợp không chịu ký biên bản thanh lý nợ vì nại lý do thủ kho nhận hàng, họ không biết… “Nhưng nếu xử lý bằng cách khởi kiện ra tòa án thì thời gian sẽ kéo dài. Chính người mắc nợ cũng biết điều này nên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn khi thu hồi nợ”, ông Tâm cho biết. Còn ông Nguyễn Thành Công, Giám đốc Công ty Sao Mai - Đồng Tháp, thì nói: “Tòa xử xong thì khi nào thi hành án? Thậm chí có khi thi hành án không được vì người mắc nợ không còn tài sản. Trong khi đó, lãi suất nợ quá hạn lại căn cứ theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, nên họ đâu có ngán!”.
Một trường hợp điển hình là vụ Công ty cổ phần Thủy sản Kiên Thành gửi hồ sơ khởi kiện một khách hàng ở An Giang với số nợ và lãi hơn 20 tỉ đồng. Thế nhưng đã 13 tháng trôi qua mà doanh nghiệp vẫn phải chờ ngày xét xử. “Thời gian quá kéo dài, đến khi tòa tuyên án thì tài sản họ đã tẩu tán hết”, ông Nguyễn Thanh Hưng, Phó giám đốc Công ty Kiên Thành, nói.
Theo Luật sự Thành, nhiều vụ tranh chấp rất khó giải quyết dứt điểm một phần vì trước đây, các điều khoản ký kết trong hợp đồng rất lỏng lẻo. “Doanh nghiệp không chú trọng đến việc mời luật sư tư vấn khi thảo hợp đồng. Chỉ khi sự việc trở nên nghiêm trọng họ mới nhờ luật sư thì vụ việc đã trở nên rối rắm, khó giải quyết”, ông nói.
Ông Lam cũng cho biết thêm: “Hợp đồng thường sai sót rất nhiều, do doanh nghiệp chưa quan tâm về luật và chưa lường hết được việc tranh chấp”. Ông Lam kể, trong một chuyến công tác tại bốn tỉnh, thành ở ĐBSCL cùng với một luật sư, ông nhận ra một điểm yếu của các doanh nghiệp chế biến thủy sản là chỉ ký hợp đồng dựa trên các mối quan hệ chứ không mấy quan tâm đến cơ sở pháp lý. Luật sư Thành ví von: “Khi cái chén bể rồi thì họ mới tìm cách hàn gắn lại. Sao trước đó không tìm cách làm sao cho chén đừng bể? Vả lại, giải quyết bằng tình cảm thì doanh nghiệp luôn ở thế bị động”. Ông Thành cho rằng, trình tự pháp luật hiện nay khá nhiêu khê, nhưng nếu nắm vững luật thì cũng không phải là vấn đề lớn. Như trường hợp của Công ty Kiên Thành, ông Thành cho rằng nếu ngay từ đầu hồ sơ gửi đến tòa án đầy đủ thì đã không có chuyện phải mất thời gian khoảng sáu tháng để bổ sung.
Theo luật sư Bùi Quang Nhơn, thành viên của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, trong tương lai thời gian giải quyết tranh chấp có thể rút ngắn. Ông nói: “Thay vì chuyển hồ sơ đến tòa án, thì sắp tới trọng tài kinh tế sẽ giải quyết cả chuyện tranh chấp giữa doanh nghiệp và cá nhân, trong khoảng thời gian ba tháng. Dự kiến, Luật Trọng tài sẽ được ban hành vào tháng 5 tới”. Tuy nhiên, ông Nhơn cũng cho rằng, trong trường hợp khi thi hành án mà đối tượng không còn tài sản, thì doanh nghiệp cũng mất trắng. “Cách tốt nhất là chính doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ đối tác và am hiểu luật khi ký hợp đồng”, ông Nhơn nói.
Báo cũng có bài Cải cách BOJ và bài học cho Việt Nam. Bài báo phản ánh: Bản dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã được Quốc hội khóa XII đưa ra thảo luận trong kỳ họp thứ 6 (12-2009). Nhiều ý kiến cho rằng dự thảo có nhiều điểm mới nhưng chưa đạt được những thay đổi mang tính cấu trúc. Dự thảo phải tiếp tục hoàn thiện và trình Quốc hội xem xét trong kỳ họp tới. Trong bối cảnh đó, bài viết này đưa ra kinh nghiệm về cải cách ngân hàng trung ương của Nhật Bản và rút ra những bài học có thể hữu ích cho Việt Nam.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Bank of Japan - BOJ) ra đời từ năm 1882 dưới thời Hoàng đế Minh Trị. Năm 1942, văn bản luật đầu tiên về BOJ được chính thức ban hành. Các thập niên tiếp theo, văn bản luật này đã bộc lộ rất nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt trong việc ra quyết định thực thi chính sách tiền tệ của Nhật Bản. Do đó, đã có rất nhiều ý kiến yêu cầu cải cách BOJ. Tuy nhiên, công cuộc này đã nhiều lần bị đình hoãn do sự liên kết giữa Bộ Tài chính và Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền lâu năm của Nhật Bản (Ito, 2009). Mãi đến tháng 11-1996, khi nền kinh tế Nhật bộc lộ những điểm yếu kém, quyết tâm cải cách ngân hàng trung ương mới được cụ thể hóa thông qua việc thành lập Hội đồng nghiên cứu hệ thống tài chính Nhật, trong đó có tiểu ban riêng để nghiên cứu, soạn thảo Luật BOJ. Ba tháng sau đó, một bản báo cáo chi tiết đã được hội đồng này trình chính phủ. Xem xét và quyết định nhanh chóng trong một tháng, chính phủ quyết định trình Quốc hội xem xét. Tháng 6-1997, Luật BOJ chính thức được ban hành và có hiệu lực vào năm 1998. Nhiều nhà kinh tế cho rằng điều quan trọng nhất đưa đến thành công của quá trình cải cách BOJ là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ Nhật Bản (Ito, 2009).
Hiện tại, hệ số độc lập của BOJ được đánh giá ở mức 2,5 (thấp hơn nhiều so với Thụy Sỹ, Đức (4) và Mỹ (3,5) - (Alesina & Summers 1993). Điều này khẳng định BOJ không phải là một ngân hàng có được sự độc lập tuyệt đối. Theo đó, về mặt cấu trúc, hạn chế lớn nhất là việc BOJ “trực thuộc” Bộ Tài chính Nhật Bản. Do đó, đây không phải là mô hình phù hợp để chúng ta đi theo. Tuy nhiên, quá trình cải cách, mà đặc biệt là việc sửa đổi Luật BOJ năm 1997 đã đưa lại cho ngân hàng này một số đặc điểm quan trọng như tính độc lập và sự minh bạch; và đây chính là điều có thể gợi cho chúng ta những ý tưởng trong quá trình sửa đổi Luật NHNN. Về tính độc lập của BOJ, xin phân tích dưới bốn khía cạnh: mục tiêu, công cụ, tài chính và nhân sự.
Về mục tiêu: Từ bỏ mục tiêu không rõ ràng trong luật cũ là “tối đa hóa tiềm năng của nền kinh tế”, luật mới khẳng định: “BOJ có quyền tự chủ về tiền tệ và kiểm soát tiền tệ” (điều 3) và mục tiêu tối cao là ổn định giá cả (price stability) (điều 2). Đây cũng chính là mục tiêu phổ biến nhất mà các ngân hàng trung ương trên thế giới đang theo dõi. Việc luật hóa mục tiêu một cách rõ ràng, nhất quán này nhằm hạn chế việc chính phủ can thiệp.
Về công cụ và ra quyết định thực thi chính sách tiền tệ: Để ra các quyết định liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ, luật cho phép BOJ thiết lập một Hội đồng chính sách với 9 thành viên bao gồm thống đốc, hai phó thống đốc, và sáu thành viên khác (không nhất thiết là người của ngân hàng trung ương và điểm quan trọng nhất ở đây là không cho phép đại diện của chính phủ trong hội đồng này). Các thành viên trong hội đồng sẽ bầu ra một người làm chủ tịch. Hội đồng họp khi được chủ tịch triệu tập và ra quyết định theo phương thức bỏ phiếu. Chủ tịch có trách nhiệm thông qua quyết định này để triển khai thực hiện. Với hội đồng này, kết hợp với mục tiêu được ấn định, BOJ không bị chi phối và đi lệch hướng trong quyết định thực thi chính sách tiền tệ. Nhìn lại Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ của Việt Nam là một phó thủ tướng, các thành viên khác là thống đốc, bộ trưởng các bộ có liên quan và thành viên khác. Điều này hạn chế đáng kể tính độc lập trong quyết định chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.
Về vấn đề tài chính: BOJ vẫn chịu rất nhiều sự chi phối của chính phủ, ví như quy định về việc hỗ trợ thâm hụt ngắn hạn thông qua các khoản vay không thế chấp. Tuy nhiên, BOJ được cho cơ chế tài chính riêng trong việc thiết lập chế độ tiền lương nhằm thu hút nhân sự giỏi.
Về nhân sự: Vị trí Thống đốc được đề xuất bởi Thủ tướng và phải được Quốc hội thông qua. Các thành viên trong Hội đồng Chính sách do Thủ tướng bổ nhiệm và phục vụ với thời hạn năm năm. Đây là một điểm yếu của Luật BOJ do nhiệm kỳ quá ngắn của Thống đốc và các thành viên khác có thể chi phối tới việc ra quyết định (trong khi đó, nhìn sang Mỹ, nhiệm kỳ của Thống đốc lên tới 14 năm). Tuy nhiên, điểm đáng chú ý trong vấn đề nhân sự BOJ là Thủ tướng không có quyền sa thải Thống đốc và các thành viên hội đồng do bất đồng quan điểm về chính sách tiền tệ, ngoại trừ các trường hợp vi phạm pháp luật khác. Nội dung này được thể hiện như một cam kết mạnh mẽ của chính phủ trong việc duy trì tính độc lập của BOJ quy định tại điều 25 của Luật BOJ.
Các nội dung thảo luận chính và các quyết định về chính sách tiền tệ của Hội đồng Chính sách phải được công khai cho công chúng biết. Ngoài ra, việc báo cáo định kỳ cho Bộ Tài chính, Quốc hội và trách nhiệm giải trình về điều hành chính sách tiền tệ cũng được quy định rất rõ ràng, chặt chẽ trong Luật BOJ.
Mặc dù BOJ có sự độc lập nhất định trong mục tiêu, công cụ, nhân sự và tài chính, Luật BOJ vẫn có một số vấn đề hạn chế như: (i) phụ thuộc tương đối với Bộ Tài chính về mặt tổ chức bộ máy; (ii) phải duy trì quan hệ thường xuyên với chính phủ nhằm “trao đổi” và “chia sẻ” quan điểm về chính sách; (iii) nhiệm kỳ thống đốc quá ngắn (5 năm); (iv) tài trợ ngân sách (thông qua tín dụng). Tất cả những điều này đã làm cho một số nhà kinh tế và nhà quan sát vẫn còn nghi ngờ về sự “độc lập hoàn hảo” của BOJ. Ví dụ, Ito (2009) đã đặt câu hỏi: “Thống đốc có thể đi con đường riêng trái với chính phủ hay không?” và sau đó, ông đã tự trả lời: “Có thể đó không phải là phong cách của Nhật Bản”.
Trước hết, Chính phủ cần khẳng định quyết tâm trong việc cải tổ ngân hàng trung ương. Bản dự thảo được trình Quốc hội năm 2009 chưa thể hiện được sự quyết tâm của Chính phủ trong công cuộc này. Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng, về mặt tổ chức bộ máy, NHNN được xem như một cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính phủ là phù hợp với đặc thù hệ thống chính trị Việt Nam, việc để cơ quan này chủ động hơn trong điều hành chính sách tiền tệ (ví dụ như việc rút vai trò của Chính phủ ra khỏi công tác điều hành chính sách tiền tệ), đảm bảo nhất quán về mục tiêu (chẳng hạn như ổn định giá cả), độc lập tương đối về mặt nhân sự (bổ nhiệm và miễn nhiệm) cũng như vấn đề tài chính (cơ chế chính sách cụ thể về tài trợ ngân sách) là điều cần thiết để hướng đến một ngân hàng trung ương hoạt động có hiệu quả theo đúng nghĩa.
2. Báo Lao động có bài Trần Sỹ Vỹ: Luật sư Việt đạt tầm quốc tế. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Giành được học bổng thạc sĩ toàn phần khắt khe của ĐH Luật thương mại và kinh doanh quốc tế (Hàn Quốc) năm 2007 và có nhiều cơ hội học tập, làm việc tốt hơn ở Hàn Quốc, song Trần Sỹ Vỹ vẫn quyết định trở về để đóng góp một phần công sức cho ngành luật nước nhà.
Sinh năm 1982 tại Việt Trì (Phú Thọ), Vỹ từng tốt nghiệp khoa Luật kinh tế - ĐH Luật Hà Nội. Sau 2 năm làm việc tại một văn phòng luật tại HN, nhận thấy những kiến thức về luật quốc tế và cách thức làm việc của luật sư nước ngoài là yếu tố cần thiết cho những đòi hỏi ngày càng cao của công việc, Vỹ đã quyết định nộp đơn xin học bổng khóa thạc sĩ luật quốc tế tại ĐH Luật thương mại và kinh doanh quốc tế (TLBU) ở Seoul, Hàn Quốc. Kết quả là Vỹ và 3 ứng viên khác đã vượt qua 40 thí sinh của vòng tổng duyệt để giành được 4 suất học bổng của TLBU.
Dù TLBU đã mời Vỹ ở lại học tiếp lên tiến sĩ, song anh đã từ chối và trở về nước (tháng 9.2009). Nhiều cựu SV của TLBU cũng đã trở về VN làm việc và rất thành đạt, đa phần làm luật sư cho các hãng luật lớn tại VN như YKVN, Vilaf, Baker McKenzie…, hay cho Bộ Tư pháp, VCCI. Điển hình như anh Đặng Tất Dũng - Bí thư Đoàn trường ĐH Luật TPHCM, một trong 5 công dân trẻ tiêu biểu của TPHCM năm 2009 - đang chuẩn bị đi học tiến sĩ tại Anh; hay anh Nguyễn Đăng Việt là luật sư thành viên của Cty tư vấn luật Bizconsult.
Hiện Vỹ đang làm việc tại Văn phòng luật sư Leadco (Hà Nội). Hỏi về ước mơ và những dự định, Vỹ nói: “Ước mơ thì có nhiều, nhưng điều mà tôi mong muốn nhất là đóng góp cho sự phát triển nghề luật ở VN nói riêng và cho sự phát triển của đất nước nói chung. Du học chỉ là một phương thức học tập, điều quan trọng là chúng ta cần xác định làm thế nào để có thể đem kiến thức học được từ những nền giáo dục hiện đại về để phục vụ đất nước. Ngành luật trong nước đã được cải thiện nhiều và phát triển tốt, tôi tin chắc rằng luật sư Việt Nam hoàn toàn có đủ năng lực và trình độ để giải quyết các vấn đề ở tầm quốc tế”.


File đính kèm