Điểm tin báo chí sáng ngày 22 tháng 11 năm 2011

22/11/2011
Trong buổi sáng ngày 22/11/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đưa tin: Từ ngày 15/11 đến ngày 21/11/ 2011, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương khóa XI đã họp kỳ thứ 7. Đồng chí Ngô Văn Dụ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm UBKT Trung ương chủ trì kỳ họp.

Tại kỳ họp này, UBKT Trung ương đã xem xét, thống nhất kết luận hoặc giải quyết các nội dung sau:

1. Thông qua Kế hoạch Tổ chức nghiên cứu, quán triệt và triển khai “Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI” ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương; Quy định về “những điều đảng viên không được làm” ban hành kèm theo Quyết định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương.

2. Tham gia Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chuẩn bị trình Bộ Chính trị.

3. Tham gia Báo cáo sơ kết thực hiện 16 Quy chế phối hợp giữa UBKT Trung ương với các tổ chức đảng có liên quan chuẩn bị trình Ban Bí thư.

4. Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm :
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã xem xét kết quả kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam; Ban Cán sự đảng UBND tỉnh Đắk Lắk và một số cán bộ, đảng viên liên quan. Sau khi nghe báo cáo, UBKT Trung ương yêu cầu các đơn vị nói trên tiến hành kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân để xem xét theo quy trình.

5. Giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của 8 đảng viên. Kết quả: giữ nguyên hình thức kỷ luật 5 trường hợp; hạ hình thức kỷ luật 1 trường hợp; xóa kỷ luật 2 trường hợp.

6. Kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và UBKT Tỉnh ủy các tỉnh: Khánh Hòa , Bình Phước, Cà Mau, Thái Bình. Qua kiểm tra đã làm rõ những chuyển biến tiến bộ đồng thời lưu ý những mặt còn hạn chế khuyết điểm, những vấn đề cần chấn chỉnh hoặc chỉ đạo xử lý tiếp.

7. Quyết định thi hành kỷ luật đảng bằng hình thức cảnh cáo đối với 1 đảng viên thuộc Đảng bộ Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam do có vi phạm, khuyết điểm trong thời gian giữ chức Giám đốc Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh Hà Giang.

8. Giải quyết tố cáo 1 trường hợp cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị quản lý, đã kết luận: nội dung tố cáo đúng một phần, cán bộ bị tố cáo có khuyết điểm, nhưng chưa đến mức phải thi hành kỷ luật.

9. Tham gia ý kiến với Đoàn giải quyết khiếu nại của Ban Bí thư về việc giải quyết 1 trường hợp khiếu nại kỷ luật đảng của đảng viên, sau khi nghe báo cáo UBKT Trung ương thống nhất về nội dung vi phạm và đề nghị Ban Bí thư xem xét giữ nguyên hình thức kỷ luật đã xử lý

2. Báo VnEconomy có bài Cần bao nhiêu tiền để tái cơ cấu ngân hàng? Bài báo phản ánh: Tìm nguồn tiền để xử lý nợ xấu, không nên để ngân hàng thương mại nhà nước “sở hữu chéo” các ngân hàng “bệnh tật”... Đó là những nội dung liên quan đến tái cơ cấu ngân hàng được các chuyên gia tài chính đề cập khá sâu sắc tại một hội thảo cuối tuần trước, với sự nhấn mạnh cần đẩy nhanh tiến trình thực hiện.

Lý do đầu tiên của việc cần đẩy nhanh tái cơ cấu ngân hàng, theo lãnh đạo một ngân hàng thương mại Nhà nước thì tính đến tháng 6/2011, hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam đạt con số 123 đơn vị. Do tổ chức tín dụng liên tục mở rộng quy mô mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch và cùng đó là quá trình thực hiện quy định tăng vốn của Chính phủ, đến cuối tháng 9/2011, tổng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại đạt 336.300 tỷ đồng, gấp 2,26 lần so với mức cuối 2008, tương đương 16,8 tỷ USD. Hai yếu tố trên đã tạo nên tổng tài sản của hệ thống tổ chức tín dụng ở mức gấp hai lần so với cuối năm 2008. Lý do thứ hai là nhiều năm gần đây, hệ thống ngân hàng luôn nằm trong tình trạng mất cân đối giữa huy động và cho vay, đe dọa an toàn thanh khoản. Lý do thứ ba, tình hình cơ cấu tài sản “Có” của các tổ chức tín dụng hết sức thiếu bền vững khi hoạt động cấp tín dụng vẫn là mảng doanh thu chủ yếu, còn các mảng khác đều bị xem nhẹ, dẫn đến một số đơn vị lâm vào cảnh “ăn đong” ở nhiều thời điểm trong năm. Lý do thứ tư, do hệ thống không đồng đều về quy mô của từng đơn vị lại cùng hoạt động chung một môi trường, cộng với sự khác biệt về khả năng quản trị, năng lực tài chính nên không ít đơn vị luôn dựa dẫm vào Ngân hàng Nhà nước, đẩy “người cho vay cuối cùng” vào tình thế không bao giờ… ngớt việc!

Từ thực tế đó, ông Kiều Hữu Thiện, Phó giám đốc Học viện Ngân hàng đề xuất, khi tái cấu trúc ngân hàng, cần có cơ chế hỗ trợ quỹ tín dụng nhân dân hoạt động thông qua cơ chế miễn giảm thuế và vốn.

Ông Nguyễn Mạnh Dũng, Phó tổng giám đốc Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam nêu ra hai cách dùng tiền để tái cơ cấu. Một là, dùng tiền ngân sách thông qua Ngân hàng Nhà nước hoặc Bộ Tài chính. Theo ông, giai đoạn 1999 - 2007, có 17 ngân hàng cổ phần bị sáp nhập và giải thể. Để xử lý 17 đơn vị này, Ngân hàng Nhà nước đã chi 1.500 tỷ đồng từ nguồn tiền cung ứng đóng cửa một số ngân hàng và tái cấp vốn cho những ngân hàng thực hiện cơ cấu lại.

Nhưng ở lần này, số tiền cần để tái cơ cấu sẽ lớn hơn rất nhiều và nếu dùng tiền ngân sách chắc chắn không khả thi vì ngân sách đã thâm thủng quá lớn; còn nếu dùng tiền cung ứng cũng không ổn do áp lực lạm phát đang rất cao. Bởi thế, nên sử dụng cách thứ hai là tái cơ cấu theo nguyên tắc thị trường như một số nước Mỹ, Nhật, Hàn, Canada, Đài Loan… từng làm.

Một câu hỏi khác được đặt ra: sau tái cơ cấu, hệ thống ngân hàng nên gút lại bao nhiêu đơn vị? Theo ông Dũng, số lượng ngân hàng chỉ nên dừng ở con số 15 và chia làm 3 thứ bậc: 4 ngân hàng đứng đầu với mức vốn quy định là 3 tỷ USD, khi tái cơ cấu xong bắt buộc phải có tối thiểu 2 tỷ USD; 6 ngân hàng hạng trung bình có mức vốn tối thiểu 1 tỷ USD và 5 ngân hàng còn lại có mức vốn tối thiểu 500 triệu USD. Nếu cộng dồn thì tổng mức vốn điều lệ của các ngân hàng khoảng 16,5 tỷ USD, xấp xỉ với con số hiện nay.

Đặc biệt, theo ông Thiện, trong một số trường hợp, nhà nước có thể mua cổ phần để nắm quyền kiểm soát, không nên để xảy ra tình trạng “sở hữu chéo”, tức là các ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục nắm cổ phần tại các ngân hàng “bệnh tật” cần cơ cấu, điều đó dễ bị che khuất bản chất bên trong.

3. Trang TuanVietnam.vietnamnet.vn có bài "Ông" đau lòng vì lương, dân đau lòng vì ai? Bài báo phản ánh: Trong buổi họp báo công bố kết quả kinh doanh và giá thành sản xuất điện do Bộ Công thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cuối tuần trước tại Hà Nội-một động tác được cho là để mở đường cho việc tăng giá điện được suôn sẻ sắp tới, ông Phạm Lê Thanh, Tổng giám đốc EVN đã đưa ra một thông tin khiến nhiều người thấy ngạc nhiên: Lương bình quân năm 2009 của cán bộ, nhân viên toàn tập đoàn để hạch toán vào giá điện là 7,3 triệu đồng/tháng/người.

Ông Tổng giám đốc EVN nói: "Đây là mức tương đối thấp, nếu ở nông thôn có thể được, còn nếu ở thành thị thì không thể sống được. Là tổng giám đốc, tôi rất đau lòng khi lương của cán bộ tập đoàn chỉ có ngần đó". Bởi ông này cho rằng, chỉ với 7,3 triệu đồng/tháng, nếu sống ở Hà Nội thì chắc chắn cán bộ, nhân viên ngành điện sẽ không đủ sống.

Câu nói trên là là phát biểu chân thực của ông Phạm Lê Thanh và dường như ông muốn nói điều này đến đông đảo cán bộ, nhân viên trong ngành điện là ông rất thương nhân viên (!). Các kết quả thanh tra, kiểm toán cũng xác tín điều này. Điều làm người ta bất ngờ là cái mức lương bình quân mà ông Thanh kêu là thấp đến mức phải "đau lòng" như vậy thực ra là cao hơn rất nhiều so mức lương ở nhiều ngành khác.

Lương chỉ là một phần nhỏ trong số lỗ khổng lồ ấy, phần nhiều có lý do là điện chạy dầu-giá quá cao so với giá bán, có lý do lỗ do chênh lệch tỷ giá... Tuy nhiên, lý do về lương cộng thêm yếu tố sự điều hành yếu kém của lãnh đạo EVN, chắc chắn là điều khiến đa số người dân không thể hài lòng về việc điều chỉnh tăng giá điện trong thời gian tới. Tuy nhiên, EVN không giống như Vinashin, EVN không thể ngừng hoạt động sản xuất, truyền tải điện dù chỉ là nửa giờ trên toàn quốc nên kiểu gì, EVN cũng sẽ được điều chỉnh giá điện để mỗi lần tăng giá điện, dù chỉ 500-700 đồng/kWh sẽ gỡ lại cho tập đoàn này hàng ngàn, hàng chục ngàn tỷ đồng-bởi vì gia đình nào cũng dùng đến điện, doanh nghiệp nào cũng dùng đến điện.

Phải trả tiền điện mà trong đó, có phần của mức lương mà ông Phạm Lê Thanh kêu "đau lòng" cho cán bộ, nhân viên của ông thì đại đa số khách hàng miễn cưỡng của ông cũng đau lòng gấp bội.

4. Báo Đại đoàn kết đưa tin: Hôm 21/11, UBND Thành phố Hà Nội cho biết, các Bộ, ngành Trung ương như Bộ Công an, Bộ GTVT và Văn phòng Chính phủ đã thống nhất cơ bản về phương án điều chỉnh giờ làm việc, học tập và kinh doanh trên địa bàn Thành phố.

 Báo cáo của UBND Thành phố Hà Nội gửi Thường trực Thành ủy cho biết, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Hà Nội đã tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành Trung ương như Bộ Công an, Bộ GTVT, Văn phòng Chính phủ và đã thống nhất cơ bản về phương án điều chỉnh giờ làm việc, học tập, kinh doanh trên địa bàn Thành phố như sau:

 Nhóm sinh viên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, học sinh Trung học phổ thông sẽ bắt đầu từ 6h30, kết thúc sau 19h00.

 Nhóm học sinh các trường Trung học cơ sở, tiểu học cơ sở, mẫu giáo, mầm non bắt đầu học từ 7h30, kết thúc lúc 17h30;

 Cán bộ công chức, (cả Trung ương và Hà Nội) bắt đầu làm việc từ 8h00, kết thúc lúc 17h00.

 Nhóm các Trung tâm thương mại, dịch vụ (trừ ngân hàng, tài chính), bắt đầu từ 9h00, kết thúc sau 19h.

 Nhóm cơ quan, đơn vị quân đội, nhóm công nhân lao động tại các nhà máy, xí nghiệp theo ca giữ nguyên không thay đổi.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Ngày 21/11, Quốc hội thảo luận dự án Luật Giám định tư pháp, ngay sau đó, rất nhiều bài báo đã đưa tin về nội dung này. Phần lớn các báo như: Báo Nhân dân điện tử, Báo điện tử Chính phủ, Báo Pháp luật Việt Nam; Báo Đại Đoàn kết; Báo Việt Nam Plus, Báo Sức khỏe & Đời sống, Trang VOH, Trang web info.net... đều phản ánh về một số nội dung được quốc hội quan tâm thảo luận. Cụ thể là:

- Phần lớn đại biểu tán thành việc cần thiết ban hành Luật Giám định tư pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án; tán thành về những nội dung cụ thể trong dự luật, như quyền yêu cầu giám định tư pháp của đương sự ở các vụ án dân sự, hành chính.

- Về vấn đề bộ phận giám định pháp y, đa số các ý kiến không đồng tình việc để ngành Y tế địa phương quản lý công tác pháp y ở địa phương (như dự Luật nêu) mà nên để bộ phận này ở Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh.

Luồng ý kiến nhất trí với việc để cơ quan GĐTP cấp tỉnh trực thuộc công an tỉnh thì cho rằng: Pháp y công an có một đặc thù riêng; dù trong điều kiện nào, khi đã nhận nhiệm vụ thì đều phải tập trung nguồn lực thực hiện. Bên cạnh đó, vì là chiến sĩ công an nên các cán bộ, bác sĩ làm công tác pháp y trong ngành công an thường có ý thức kỷ luật cao; lại được đào tạo bài bản; có ý thức cao trong việc bảo vệ vật chứng. Không những vậy, khi khám nghiệm hiện trường các bác sĩ pháp y của ngành công an còn vận dụng một số nghiệp vụ khác của công an trong việc phân tích, đánh giá về tội phạm. ĐB Bạch Thị Hương Thủy (Hòa Bình) nêu vấn đề: Nếu bây giờ ta bỏ GĐTP ở công an tỉnh- một cơ quan được thành lập đã lâu thì sẽ gây lãng phí lớn về nguồn lực. Tuy nhiên, ĐB này đề xuất: Nếu phải song song tồn tại 2 lực lượng GĐTP là công an và y tế thì cũng cần quyết định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhằm tránh tình trạng lấn sân. Cũng đồng tình với việc giữ nguyên cơ quan pháp y công an, nhưng ĐB Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) cho rằng, vẫn cần củng cố cơ quan pháp y của ngành y tế.

Đối với các ý kiến cho rằng không nên để GĐTP ở công an cấp tỉnh, lập luận của các ĐBQH bảo vệ quan điểm này cho rằng, mặc dù GĐTP của công an có nhiều ưu điểm nhưng nó chưa bao giờ thực sự là một tổ chức. Chính vì thế, nếu không có cũng không ảnh hưởng đến việc phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, vẫn có thể phối hợp liên ngành công an- y tế trong giải quyết vụ việc. Vì vậy, nên tập trung nguồn lực vào một đầu mối.

-  Đối với chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp (trong các lĩnh vực tài chính, văn hóa, xây dựng,…) như dự luật nêu, nhiều đại biểu bày tỏ băn khoăn có nên xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, cho phép các giám định viên tư pháp có đủ điều kiện thành lập văn phòng giám định tư pháp ở tất cả các lĩnh vực để thực hiện giám định tư pháp theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và yêu cầu của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Đa số ý kiến cho rằng việc thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập là loại hình dịch vụ mới, cần có lộ trình phù hợp. Nhiều đại biểu đánh giá thực tế Nhà nước đầu tư cho giám định chưa đáng kể nên hoạt động giám định còn nhiều hạn chế, chưa đạt hiệu quả mong muốn, vì thế số án tồn nhiều, xử lý kéo dài, do vậy phải tính đến bài toán xử lý đầu tư tốt hơn. Một số ý kiến cho rằng, nếu tính xã hội hóa cho đương sự trưng cầu giám định là lợi bất cập hại, Nhà nước được lợi bao nhiêu, giảm chi ngân sách bao nhiêu thì chưa biết, nhưng cái có thể nhìn thấy là tình hình lộn xộn, phức tạp trong xã hội chắc chắn sẽ diễn ra.

Đại biểu Đặng Công Lý (Bình Định) thì đề nghị chưa nên thành lập tổ chức giám định pháp y ngoài công lập vì không phù hợp với điều kiện thực tế và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Nhu cầu về hoạt động này không nhiều, không thường xuyên, đầu tư lớn, nếu quản lý không chặt sẽ dẫn đến thông đồng, án kéo dài, gây tồn đọng án.

Một số ý kiến khác lại tán thành chủ trương xã hội hóa giám định tư pháp bởi lẽ theo tinh thần của Điều 15 của dự thảo thì, việc cho phép thành lập Văn phòng giám định tư là một bước đẩy mạng chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư nhằm huy động tối đa nguồn lực của xã hội cho hoạt động giám định tư pháp. Cũng theo quy định tại điều 15 của Dự thảo, thì Văn phòng giám định tư pháp ngoài công lập chỉ được thành lập trong một số lĩnh vực chuyên môn trong ngành xây dựng, văn hóa, tài chính…; chỉ trừ lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự. Qua việc xã hội hóa giám định pháp y, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có nhiều lựa chọn và xem xét, quyết định khi trưng cầu giám định, góp phầm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.

- Về tổ chức giám định pháp y tâm thần, qua thảo luận vẫn còn 2 loại ý kiến: ý kiến đồng tình với dự thảo là tổ chức cơ quan giám định pháp y tâm thần khu vực và ý kiến đề nghị  giữ như quy định hiện nay, theo đó ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương  vẫn có Trung tâm Giám định pháp y tâm thần để kịp thời xử lý được những vấn đề thực tế ngay tại địa phương.

- Một số đại biểu đề nghị Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp để hoạt động này mang tính thống nhất trong cả nước (hiện nay do các ngành Y tế, Công an, Quân đội quản lý).

Ngoài ra, Báo VietNamPlus đưa tin: Đại biểu Đỗ Văn Đương (Thành phố Hồ Chí Minh) chưa tán thành với dự thảo Luật và chỉ rõ dự thảo Luật chưa đưa ra được những điểm mới căn bản để giải quyết bức xúc trong giám định, đó là điểm nghẽn về con người, về phương tiện khoa học công nghệ hiện đại để khắc phục những bất cập tồn tại trong giám định tư pháp hiện nay.

Đại biểu đề nghị, dự thảo Luật tập trung tạo ra những định chế lớn, có quy định để nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc trưng cầu giám định ở vấn đề vật mẫu, dấu vết thu thập, bảo đảm tính nghiêm minh, tính hợp pháp, cũng như trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc ra các quyết định trưng cầu giám định...

Theo đại biểu, nâng cao chất lượng kết luận giám định trước tiên là nâng cao trình độ nhận thức và năng lực của giám định viên; phải đầu tư phương tiện khoa học kỹ thuật và có phương pháp giám định tốt như máy ADN, các máy giám định gen, xác định độ tuổi, chữ viết… đồng thời, phải bảo đảm sự vô tư, trong sáng của người giám định.

Đại biểu nhấn mạnh người giám định gian dối thì không thể làm được nên cần có cơ chế kiểm soát việc giám định, giảm thiểu được sự xung đột các kết luận giám định giữa bản kết luận giám định cấp trên với cấp dưới

2. Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin: Chiều qua - 21/11, HĐXX TAND huyện Từ Liêm (Hà Nội) công bố bản án và tuyên phạt bị cáo Ngô Quang Anh (40 tuổi, nguyên là công chứng viên Văn phòng công chứng Mỹ Đình) 15 tháng tù, phạt bị cáo Hoàng Đình Trọng (40 tuổi, nguyên là luật sư Văn phòng luật sư PGVN) 12 tháng tù và tuyên phạt bị cáo Vũ Tiến Phùng (61 tuổi, hưu trí) 6 tháng tù treo.

Trước đó, những người này làm đơn tố cáo ông Lê Xuân Trường - Bí thư huyện ủy Từ Liêm có hành vi bảo kê cho việc xây nhà trái phép tại địa phương. Tuy việc xây nhà trái phép là có thật nhưng cơ quan chức năng kết luận ông Trường không có hành vi bảo kê. Vì thế, những người tố cáo ông Trường phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vu khống ông Trường.

Báo cũng có bài Tái chiếm sau thi hành án: Xử lý ra sao? Bài báo phản ánh: Mọi thủ tục thi hành án (THA) đã hoàn tất, tài sản đã được cưỡng chế để giao cho người được THA thì sau đó, người phải THA tái chiếm trở lại. Phải kiện đến đâu để đòi quyền lợi?.

Còn nhiều những vụ tái chiếm THA khác, không chỉ do người được giao tài sản sơ hở, mà vì lý do… ranh giới chủ quyền quá mong manh. Nhất là những vụ THA không phải cưỡng chế mà do đương sự tự nguyện, hay những vụ THA chỉ làm việc duy nhất là căng dây, phân chia mốc giới, hoặc xây một bức tường, đặt mấy viên gạch… Những vụ việc này, nếu cố tình, người phải THA rất dễ dàng lấy lại tài sản, mà chủ sở hữu, sử dụng, muốn đòi lại cũng “chờ được vạ, má đã sưng”

Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu, Trưởng Văn phòng Luật sư Bảo Châu và cộng sự tư vấn: trong những trường hợp tái chiếm như vậy, trách nhiệm của cơ quan THA đã hết, do vậy, việc cần làm đầu tiên là yêu cầu chính quyền địa phương can thiệp để kịp thời đình chỉ hành vi trái pháp luật (ví dụ đổ vật liệu, xây nhà trên đất đã được giao cho người được THA). Nếu đương sự cố tình không thực hiện, chính quyền địa phương cần áp dụng biện pháp cưỡng chế”.

Tuy nhiên, theo một chấp hành viên cơ quan THA thì trong những vụ việc đã cưỡng chế, bàn giao tài sản, đương sự cố tình tái chiếm, đã được chính quyền địa phương can thiệp mà vẫn tiếp tục vi phạm thì cần phải xem xét, xử lý về tội không chấp hành án.

Một số ý kiến khác lại cho rằng, trong trường hợp này cần phải kiện ra tòa để đòi lại tài sản đã bị chiếm giữ trái phép. Tuy nhiên, luồng ý kiến ngược lại thì không đồng tình bởi việc tranh chấp này trước đó tòa đã giải quyết bằng quyết định/bản án có hiệu lực, được THA thi hành.

Như vậy, dù tài sản sau này có lấy lại được bằng cách nào cũng phải qua con đường rất gian nan, mệt mỏi. Vì thế, theo một chấp hành viên thì tốt nhất là ngay sau khi được bản án kết thúc, người được THA cần chủ động có biện pháp bảo vệ tài sản của mình. Có thể xây tường bao, làm hàng rào, cho người trông coi… để kịp thời ngăn chặn việc tái chiếm ngay từ đầu. Nếu không, việc đi đòi quyền lợi không biết bao giờ mới chấm dứt.



File đính kèm