I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Thời báo kinh tế Sài Gòn online có bài Lại đề nghị giải cứu thị trường bằng căn hộ diện tích nhỏ. Bài báo phản ánh: Vấn đề phát triển căn hộ diện tích nhỏ lại một lần nữa được đặt ra, do Hiệp hội Bất động sản TPHCM đề xuất với kỳ vọng căn hộ diện tích nhỏ, giá bán thấp sẽ phù hợp với nhu cầu với đa số người dân, cũng như phần nào giúp giải quyết bài toán tồn kho cả chục ngàn căn hộ hiện nay.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TPHCM, cho biết đã đề xuất Bộ Xây dựng và UBND TPHCM cho phép các doanh nghiệp địa ốc đầu tư căn hộ chung cư thương mại có diện tích từ 30-70 mét vuông dành cho hai người. Với căn hộ diện tích nhỏ, giá trị căn hộ theo mặt bằng giá bán hiện nay sẽ khoảng trên dưới 500 triệu đồng/căn, phù hợp với sức mua của rất nhiều người có nhu cầu về nhà ở, đặc biệt là những gia đình trẻ. Luật Nhà ở quy định căn hộ nhà ở thương mại phải có diện tích không thấp hơn 45 mét vuông, dành cho 3-4 người ở. Nhiều doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào căn hộ trên dưới 100 mét vuông, dẫn đến cảnh người cần nhà thì không mua nổi vì giá quá cao và doanh nghiệp cũng không bán được căn hộ có diện tích lớn này cho người có thu nhập trung bình. Với căn hộ diện tích nhỏ, Luật Nhà ở cho phép các dự án nhà ở xã hội được phát triển căn hộ có diện tích từ 30-60 mét vuông/căn. Ngoài ra, Nghị định 71 hướng dẫn thị hành Luật Nhà ở cũng cho phép căn hộ chung cư thương mại do tư nhân xây dựng có diện tích 30 mét vuông/căn. Ông Châu cho rằng với tình hình thực tế hiện nay, việc cho phép các doanh nghiệp được đầu tư xây dựng chung cư thương mại có diện tích căn hộ khép kín theo quy định dành cho nhà ở xã hội nhắm vào đối tượng có thu nhập trung bình, thu nhập thấp sẽ phần nào giải quyết nhu cầu nhà ở của người dân và đồng thời cũng mở ra hướng khơi thông thị trường.
Ông cho biết việc Hiệp hội bất động sản đề xuất phát triển căn hộ diện tích nhỏ không phải là sẽ phát triển dự án chung cư mà toàn bộ căn hộ đều có diện tích 30 mét vuông, mà chỉ có tỷ lệ nhất định, và tỷ lệ này nên do chính quyền địa phương quyết định. Nghĩa là sẽ trong mỗi tầng của chung cư sẽ có một hoặc hai căn hộ nhỏ bên cạnh các căn hộ diện tích lớn khác. Nhìn từ góc độ thị trường, giới quan sát thị trường cho rằng trước thực trạng nguồn cung ngày càng tăng nhưng sức mua lại giảm do nhiều yếu tố, trong đó giá nhà vượt khả năng chi trả của người mua thì việc xây nhà diện tích nhỏ có giá phù hợp với thu nhập của người mua là điều chủ đầu tư đang nghĩ tới.
2. Báo Người lao động phản ánh: Trong ngày hôm qua, 3-10, các địa phương ở khu vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất của bão số 6 đang tích cực ứng phó, phòng chống nhằm giảm tối đa thiệt hại.
Theo TTXVN, để đối phó bão số 6, Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn (PCLB-TKCN) tỉnh đã có công điện gửi các địa phương, ban ngành yêu cầu cấm tàu thuyền ra khơi. Các hồ chứa phải tổ chức trực ban, thường xuyên kiểm tra các hồ chứa nước thủy lợi, thủy điện. Chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, vật tư để xử lý kịp thời khi có sự cố theo phương án phòng chống lụt bão công trình đã được phê duyệt.
Tỉnh Thừa Thiên – Huế cũng đã có phương án sẵn sàng di dời người dân các vùng sạt lở ở bãi biển tại xã Hải Dương, huyện Hương Trà; xã Phú Thuận, thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang khi diễn biến thời tiết quá xấu. Theo ông Phan Thanh Hùng, Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy PCLB-TKCN tỉnh Thừa Thiên – Huế, hiện trên 1.900 tàu thuyền của tỉnh đã vào bờ và neo đậu tại những điểm an toàn.
Cùng với việc nhanh chóng khắc phục hậu quả do ảnh hưởng của cơn bão số 4 và số 5 gây ra, tỉnh Quảng Bình đang khẩn trương chuẩn bị đối phó với bão số 6. Hiện nay, hơn 900 hộ với 3.516 người dân trong vùng nguy hiểm đã được di dời đến nơi an toàn. Riêng tại xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa, sau 3 ngày lên lèn đá trốn lũ, ngày 3-10, người dân đã trở về nhà để dọn dẹp khi nước rút. Ngay sau khi nước rút, huyện Minh Hóa đã xuất 10 tấn gạo cứu trợ cho người dân Tân Hóa và 2 tấn gạo cấp thêm cho người dân thôn Phú Nhiêu, xã Thượng Hóa. Tính đến chiều 3-10, do ảnh hưởng của cơn bão số 4 và số 5, Quảng Bình đã có 5 người chết; 2.852 ngôi nhà, 15 trường học, chợ, trạm y tế bị ngập, gần 2.000ha lúa và hoa màu bị chìm trong lũ cùng nhiều công trình thủy lợi, giao thông bị hư hỏng nặng.
Báo cũng phản ánh: Sáng ngày 3-10, chủ đầu tư Công ty cổ phần Hải Linh đã có báo cáo nhanh gửi các sở ban ngành Hà Tĩnh và thừa nhận nguyên nhân sự cố do “hệ thống giàn giáo mất ổn định chịu lực”.
Sáng cùng ngày, UBND tỉnh Hà Tĩnh cho tiến hành thành lập hội đồng xác định nguyên nhân sự cố sập mái sảnh khách sạn Sailing Tower. Ông Trần Xuân Tiến, giám đốc Sở Xây dựng Hà Tĩnh cho hay, “sau khi thành lập đoàn chúng tối đã tiến hành tổ chức thực hiện kiểm tra xác định nguyên nhân. Dự kiến sau 2 đến 3 ngày nữa sẽ có kết luận cụ thể về nguyên nhân”.
3. Báo Thanh niên có bài Ngân hàng vẫn hưởng lợi trước sự khốn đốn của doanh nghiệp. Bài báo phản ánh: Chênh lệch lãi suất (LS) giữa cho vay và huy động của các ngân hàng (NH) hiện đang ở mức 5-6%. Đây là mức lợi nhuận biên không hợp lý trong khi nền kinh tế của VN nói chung còn chịu nhiều khó khăn và không ít doanh nghiệp (DN) thua lỗ.
Đã gần 1 tháng trôi qua kể từ khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bắt buộc các NH phải áp dụng mức LS huy động đầu vào 14%/năm. Mới đây nhất, việc NHNN quy định LS huy động 6%/năm đối với kỳ hạn dưới 1 tháng cũng đã thể hiện rõ quyết tâm không để bất kỳ NH nào “vượt rào” trần LS đầu vào. Trong khi đó, LS đầu ra dù đã được các NH thông báo cho vay ở mức từ 17 - 19% nhưng số lượng các gói tín dụng giá thấp này chỉ như “muối bỏ biển”. Đa số các DN vẫn đang phải vay vốn từ NH với LS phổ biến từ 20 - 21%/năm (chỉ giảm từ 1 - 1,5%/năm so với trước đó).
Các DN đang trông chờ vào động thái kéo giảm LS cho vay của NHNN để chuẩn bị nguồn vốn cho mùa vụ sản xuất kinh doanh cuối năm. Vì vậy theo các chuyên gia kinh tế, NHNN cần phải quyết liệt hơn với LS đầu ra tương tự như đối với LS đầu vào. Theo TS Nguyễn Văn Thuận, để tạo niềm tin cho người dân, NHNN có thể kiểm tra lại cấu trúc nguồn vốn huy động của các NH. Từ đó có thể công bố con số chung về tỷ lệ nguồn vốn huy động với LS đầu vào bao nhiêu? Sau đó NHNN nên công bố lộ trình thực hiện để kéo giảm LS cho vay từ nay đến cuối năm… TS Thuận nhấn mạnh: “Số liệu công bố báo cáo tổng nguồn vốn huy động với cơ cấu LS huy động từ hệ thống NH có thể thuyết minh được cho việc áp trần LS mà người gửi tiền chấp nhận được. Bản thân người đi vay có thể chấp nhận trả thêm LS cao trong 1-2 tháng tới nhưng chắc chắn họ phải biết nguồn vốn giá thấp sẽ được giải ngân gia tăng theo thời gian. Điều này sẽ tạo được niềm tin cho người dân và thể hiện được sự quyết tâm trong việc kéo giảm LS cho vay xuống thấp như đã công bố của Thống đốc NHNN”. Theo TS Hoàng Công Gia Khánh, nếu NHNN đã chấp nhận sử dụng giải pháp hành chính trong việc áp trần LS đầu vào thì có thể sử dụng luôn biện pháp này cho LS đầu ra và LS liên NH để tạo sự đồng bộ. Mặc dù biện pháp hành chính trong lâu dài không tốt nhưng chấp nhận sử dụng trong một thời điểm nhất định và song song đó phải sử dụng công cụ điều tiết LS theo thị trường. TS Khánh nhấn mạnh: NHNN phải tạo sự đồng bộ trong các chính sách để thị trường tin tưởng LS đầu vào chỉ dừng ở mức 14%/năm. Từ đó với sự cạnh tranh bình thường, chính các NH sẽ giảm LS đầu ra. Nếu tiếp tục duy trì mức LS cho vay cao như hiện nay sẽ khiến tình trạng đảo nợ, nợ xấu đến cuối năm gia tăng cũng là tình trạng đáng lo cho hệ thống NH.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam có bài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm và làm việc tại Học viện Tư pháp. Bài báo phản ánh: Chiều 3/10, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và các đồng chí Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách Trung ương đã đến thăm và làm việc tại Học viện Tư pháp. Cùng dự buổi làm việc có đồng chí Hà Hùng Cường, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; đại diện lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước cùng các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Học viện Tư pháp.
Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hoan nghênh những nỗ lực và kết quả mà Học viện Tư pháp đã đạt được trong những năm qua. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, hạn chế, các cán bộ, giảng viên của Học viện đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng, từng bước mở rộng quy mô đào tạo; chú trọng kiện toàn tổ chức cán bộ, xây dựng đội ngũ giảng viên, nhất là đội ngũ giảng viên cơ hữu, không ngừng hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy học tập, tích cực thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở...đóng góp quan trọng vào việc cung cấp đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp được đào tạo chính quy, bài bản và chuyên sâu cho các cơ quan tư pháp; góp phần thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Chủ tịch nước chỉ rõ, bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác đào tạo của Học viện trong những năm qua cũng còn những hạn chế cả về số lượng và chất lượng trước những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn phát triển của đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang yêu cầu, trong thời gian tới, Học viện Tư pháp cần tích cực thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đội ngũ giảng viên, đổi mới mô hình đào tạo, hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy học tập; tiếp tục triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy... nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của đất nước.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài “Sức khỏe” doanh nghiệp. Bài báo phản ánh: Báo cáo thường niên chỉ số tín nhiệm Việt Nam 2011 mới được công bố, đưa ra những đánh giá tổng quát, phân tích năng lực cạnh tranh của các ngành, địa phương và doanh nghiệp, dự báo nguy cơ tiềm ẩn dễ gây tổn thương. Về vĩ mô, báo cáo đánh giá “sức khỏe” của toàn bộ nền kinh tế. Về vi mô thì đánh giá “sức khỏe” của doanh nghiệp trên cơ sở tài chính và ứng dụng khoa học, công nghệ. Còn một mảng vẫn bỏ trống, đó là “sức khỏe” người lao động.
Lâu nay, không ít doanh nghiệp cả trong nước lẫn đầu tư nước ngoài, cả doanh nghiệp Nhà nước lẫn tư nhân thường lớn tiếng khẳng định, người lao động là tài sản quý giá của doanh nghiệp. Một chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, trong tình hình khó khăn hiện nay, việc duy trì sản xuất - kinh doanh đã là một cố gắng lớn đối với mỗi doanh nghiệp. Loại bỏ hoặc giảm bớt chi phí một cách hợp lý là một cách tối ưu để vượt qua giai đoạn đầy thách thức. Tuy nhiên, đối với người lao động, nhất là những người đã gắn bó và có những đóng góp đáng kể cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thì không thể đối xử theo kiểu “vắt chanh bỏ vỏ”.
Theo số liệu thống kê, năm 2010 cả nước có khoảng 100.000 doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, thế nhưng có tới 300.000 doanh nghiệp không thành lập công đoàn. Có nghĩa là hàng vạn người lao động trong các doanh nghiệp này chỉ có tên tuổi mà không có “tiếng nói” hoặc nói mà không ai nghe. Không có ai đứng ra che chở, đấu tranh và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Chưa bàn tới chuyện công đoàn do chủ doanh nghiệp trả lương, công đoàn đứng về ai trong các vụ tranh chấp hợp đồng lao động, đòi hỏi quyền lợi, chế độ, tại sao có quá nhiều doanh nghiệp “trốn tránh” thành lập công đoàn? Có một thực tế bất hợp lý đã tồn tại hơn 20 năm nay.
Theo Luật Công đoàn năm 1990, doanh nghiệp trong nước phải đóng phí công đoàn bằng 2% tổng quỹ tiền lương thực trả cho người lao động, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ phải đóng 1%, tạo nên sự bất bình đẳng. Trong khi đó, chính người lao động tham gia công đoàn đã phải bỏ tiền túi ra đóng phí. Quy định về quỹ trích nộp phí công đoàn như hiện nay đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Đơn giản nhất có thể nhận thấy là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thành lập công đoàn và doanh nghiệp “nói không” với công đoàn. Chỉ có “anh” nào có công đoàn mới phải trích quỹ nên càng tăng thêm gánh nặng chi phí. Thêm một bất hợp lý, là từ năm 1995 trở về trước, công đoàn được sử dụng một phần kinh phí thu được để chăm lo các điều kiện tối thiểu cho người lao động, nhưng sau năm 1995 trách nhiệm này chuyển về Bảo hiểm xã hội. Như vậy nguồn kinh phí này vẫn tiếp tục thu thì quả là vô lý vì người lao động đâu có được “xơ múi” gì. Hơn thế, nếu quy định cứng nhắc là 2% tổng quỹ lương thì việc điều chỉnh lương tối thiểu trong những năm gần đây càng khiến doanh nghiệp “tránh mặt” công đoàn.
Dự thảo Luật Công đoàn sửa đổi đang gặp nhiều ý kiến phản đối, nhất là việc doanh nghiệp phải đóng phí công đoàn. Khoản phí này làm tăng chi phí của doanh nghiệp, tăng giá thành sản phẩm, làm giảm “sức khỏe” doanh nghiệp. Để bảo đảm “sức khỏe” của cả doanh nghiệp và người lao động, nên loại bỏ quy định bắt buộc trích quỹ công đoàn 2%. Thay vào đó, công đoàn hoạt động bằng ngân sách mới có thể bảo vệ công tâm quyền lợi người lao động như nhiều nước đã thực hiện.
3. Báo Tiền phong online có bài Khó quản vì luật quá thoáng. Bài báo phản ánh: “Hậu quả của tình trạng doanh nghiệp FDI bỏ trốn, xù nợ, chuyển giá là do nhiều tỉnh thành phố đang buông lỏng quản lý. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư 2005 đã đơn giản hóa thủ tục rất nhiều...”, ông Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ KH-ĐT) nhận định. Ông Hoàng cho biết, việc rà soát lại các dự án FDI bỏ trốn, xù nợ như Tiền Phong phản ánh là rất cần thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay khi tình hình kinh tế đang hết sức khó khăn. Việc nhà đầu tư khi vào Việt Nam rồi nhưng không có khả năng triển khai dự án vì lý do khách quan hay chủ quan cũng cần phải được xem xét một cách cụ thể. Nếu vì khách quan, chúng ta sẽ có biện pháp để hỗ trợ; còn do năng lực tài chính kém, cố tình lấy dự án để mua bán chuyển nhượng kiếm lời, chúng ta nhất quyết phải xử lý nghiêm.
Việc nhà đầu tư vào Việt Nam rồi bỏ trốn, xù nợ có phải là do luật pháp chúng ta còn nhiều kẽ hở, thưa ông?
Do sức ép về cải cách thủ tục hành chính nên năm 2005 chúng ta ban hành Luật Đầu tư, từ đây thủ tục đầu tư đơn giản đi rất nhiều. Trước đây, đối với một dự án, chúng ta phải thẩm tra năng lực tài chính của nhà đầu tư và tính hiệu quả của dự án. Nhưng nay chúng ta không đưa tiêu chí thẩm tra năng lực tài chính nhà đầu tư nữa, thay vào đó là tiêu chí tiến độ xây dựng dự án. Các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào tiến độ của dự án để tiến hành giám sát nhà đầu tư. Nếu dự án đã được cấp phép nhưng quá 12 tháng chưa triển khai hoặc triển khai rồi nhưng chậm tiến độ mà không có lý do chính đáng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. Hiện nay, đã phân cấp cho địa phương nên UBND các tỉnh thành phố phải chủ động giám sát việc này. Theo tôi, việc phân cấp đầu tư là đúng đắn. Tuy nhiên, nhiều địa phương cũng đang quá tải, không đủ người để giám sát nhà đầu tư.
Quay trở lại câu chuyện nhiều doanh nghiệp FDI Hàn Quốc, Đài Loan bỏ trốn, xù nợ, để không xảy ra hiện tượng này trong tương lai, theo ông công tác hậu kiểm nên thế nào?
Không phải đến lúc này mới hậu kiểm mà trong mọi trường hợp chúng ta phải tăng cường công tác này. Luật Đầu tư năm 2005, chúng ta đã sửa theo hướng tăng cường hậu kiểm rồi. Hậu kiểm đòi hỏi đầu tiên phải từ địa phương, thứ nhì là các cơ quan chuyên ngành phải thường xuyên sâu sát, kiểm tra. Ví dụ về vấn đề chuyển giá cơ quan thuế và hải quan phải có chế tài, phải kiểm soát. Sở dĩ có những doanh nghiệp FDI bỏ trốn, xù nợ là do chúng ta buông lỏng quản lý, chế tài xử lý còn quá nhẹ.
Với những doanh nghiệp FDI tại Phú Thọ, Hải Dương... đã bỏ trốn, để lại đống nợ gần 80 triệu USD, sẽ phải xử lý ra sao?
Trước đây, luật quy định là khi nhà đầu tư bỏ trốn, quá thời hạn mà chưa thanh lý thì nhà nước đứng ra thanh lý tài sản. Tuy nhiên, hiện chúng ta đã bỏ quy định đó nên khi nhà đầu tư bỏ trốn thường rất khó thanh lý tài sản, tạo ra một khoảng trống pháp luật rất lớn. Tới đây, nếu nhà đầu tư bỏ trốn trong thời hạn quy định mà không chủ động thanh lý tài sản, thì cơ quan nhà nước sẽ đứng ra thanh lý. Hy vọng điều này sẽ được Chính phủ thông qua để có căn cứ đảm bảo quyền lợi cho bên chủ nợ và giải phóng dự án, tránh lãng phí.