I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo VnExpress có bài Tập đoàn Dầu khí có chủ tịch mới. Bài báo đưa tin: Thủ tướng vừa ký quyết định bổ nhiệm ông Phùng Đình Thực, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia VN (Petrovietnam) giữ vị trí chủ tịch Tập đoàn. Ông Thực đảm nhận vị trí người đứng đầu tập đoàn, thay cho cựu chủ tịch Đinh La Thăng đã được Quốc hội cử làm Bộ trưởng Giao thông Vận tải sau kỳ họp vừa qua.
Ông Phùng Đình Thực, sinh ngày 12/5/1954, tốt nghiệp Học viện Hoá dầu Bacu (Liên Xô cũ) chuyên ngành khai thác dầu khí năm 1977.
2. Báo VietNamPlus đưa tin: Vào 9 giờ 14 phút ngày 19/9, tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đã xảy ra một trận động đất. Trận động đất này có cường độ 2,9 độ Richter, xảy ra tại vị trí có tọa độ 21,28 độ vĩ Bắc, 103,57 độ kinh Đông, độ sâu chấn tiêu khoảng 15 km.
Ông Lê Thanh Hải (Trung tâm Báo tin động đất và cảnh báo sóng thần) cho hay, đây là trận động đất yếu, không có khả năng gây ra thiệt hại cho con người cũng như các công trình xây dựng.
3. Báo điện tử Chính phủ có bài Xét xử vụ trộm than quy mô lớn tại Quảng Ninh. Bài báo đưa tin: Hôm 19/9, Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã xét xử sơ thẩm 39 bị cáo trong vụ án bảo vệ Công ty TNHH một thành viên than Mạo Khê mở cửa cho than tặc vào khai thác than trong dịp Tết Nguyên đán năm Canh Dần 2010.
39 bị cáo bị truy tố với 3 nhóm tội danh là: Nhóm tội danh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” gồm 7 bị cáo; Nhóm tội danh “vi phạm cá qui định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên” gồm 24 bị cáo; Nhóm tội danh “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” gồm 8 bị cáo. Trong vụ án này, cả 5 thành viên Ban giám đốc gồm 5 người của Công ty Than Mạo Khê đều phải hầu toà.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, trong các ngày từ 13-17/2/2010 (tức từ 30 đến mùng 4 Tết Canh Dần), các đối tượng khai thác than trái phép đã huy động gần 30 máy xúc cùng nhiều ô tô và một số phương tiện khác vào khai thác than gần như cả ngày lẫn đêm tại hàng chục điểm nằm trong ranh giới quản lý của Công ty than Mạo Khê thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam .
Tổng lượng than bị khai thác trái phép là trên 28.000 tấn than nguyên khai với số tiền thiệt hại được cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh xác định gần 17 tỷ đồng.
Vào thời điểm "than tặc" vào khai thác, các lãnh đạo của Công ty than Mạo Khê đều được Phòng bảo vệ báo cáo và nắm rất rõ tình hình, nhưng cả 4 vị Phó giám đốc đều bỏ trực đêm, chỉ trực vào buổi sáng. Việc khai thác than diễn ra công khai, có điểm việc bốc xúc vận chuyển than chỉ cách trạm kiểm soát của Phòng bảo vệ công ty khoảng 100m. Ngay sau khi vụ mất trộm một lượng than “khổng lồ” được dư luận phanh phui, với cương vị là Giám đốc công ty, ông Nguyễn Viết Ngự đã chỉ đạo cấp dưới và các phòng ban liên quan hợp thức hóa sổ sách để khớp với nhau nhằm “qua mặt” cơ quan chức năng.
Dự kiến phiên tòa diễn ra từ 19/9 đến 23/9.
4. Báo Pháp luật Việt Nam có đưa tin: Chính phủ vừa ban hành Nghị định 82/2011/NĐ-CP quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Theo đó, kể từ ngày 1/11/2011, người bị THA từ hình sẽ bị tiêm thuốc gây mê, thuốc làm liệt hệ thần kinh và cơ bắp và thuốc ngừng hoạt động của tim.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài,“Ách“ vì chi phí bù đắp. Bài báo phản ánh: Được ban hành ngày 21/3/2011, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật NCN, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP đã quy định rõ ràng các vấn đề về mức thu lệ phí đăng ký NCN, lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam, chi phí giải quyết NCN nước ngoài; cơ quan thu lệ phí, chi phí; chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí, chi phí...
Tuy nhiên, qua phản ánh của các địa phương cho thấy, khó khăn lớn nhất trong việc triển khai thực hiện Luật NCN là ở khâu lập dự toán để sử dụng khoản chi phí giải quyết NCN nước ngoài theo quy định của Luật NCN và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP.
Chẳng hạn, trong việc điều chuyển cho ngân sách địa phương khoản tiền bù đắp chi phí giải quyết việc NCN nước ngoài, nhiều địa phương hiểu không thống nhất nên dẫn đến tình trạng cho đến nay vẫn chưa thông báo cho Cục Con nuôi tên chủ tài khoản tiếp nhận khoản chi phí giải quyết NCN nước ngoài. Nhiều cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đang gặp khó khăn trong việc triển khai thi hành Luật vì lý do các cơ quan, ban, ngành trong tỉnh... chưa thống nhất được về cách thức chuyển cho cơ sở nuôi dưỡng phần kinh phí họ được sử dụng từ nguồn tiền bù đắp chi phí giải quyết việc NCN nước ngoài. Có cơ sở nuôi dưỡng còn cho rằng mặc dù họ được nhận khoản chi phí này, song lại bị trừ vào phần ngân sách do tỉnh cấp hàng năm.
Tình trạng trên dẫn đến hậu quả là, nhiều cơ sở nuôi dưỡng trẻ em không chủ động lập hồ sơ cho trẻ và cũng như không thông báo cho Sở Tư pháp danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế theo quy định của pháp luật, thậm chí đã có một số trẻ em bị bệnh chết do cơ sở nuôi dưỡng không đủ kinh phí để chăm sóc sức khỏe cho các cháu. Hầu hết các tỉnh đang chờ hướng dẫn của Bộ, nhất là về việc mở tài khoản tại sở, ban hoặc ngành của tỉnh để nhận khoản chi phí do Cục Con nuôi chuyển về, cách thức sử dụng khoản chi phí, chế độ thanh quyết toán.
Báo cũng có bài Nước mắt đăng ký khai sinh trong trại giam. Bài báo phản ánh: Với những đứa trẻ bình thường, khai sinh là thủ tục đầu tiên hết sức đơn giản, nhưng đối với những đứa trẻ đặc biệt sinh ra trong trại giam, thì để có một tấm “giấy thông hành vào đời” có khi nhiều nước mắt…
Những đứa trẻ đặc biệt sinh ra trong trại giam đã cả một thiệt thòi, nhưng thiệt thòi hơn nếu chúng không có nổi một tờ giấy đăng ký khai sinh. Nhưng chuyện khai sinh cho trẻ trong trại giam không phải đơn giản nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của những cán bộ quản giáo.
Theo quy định của Nghị định 158 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, trẻ em sinh ra trong thời hạn 60 ngày phải đi đăng ký khai sinh; cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em... Đối với những trường hợp trẻ sinh ra ở trong trại giam, thì các điều kiện này sẽ không thể đảm bảo, bởi lẽ nhiều trẻ không xác định được cha đẻ, nhiều trẻ khác bố mẹ không có đăng ký kết hôn, mẹ không thể về nơi đăng ký hộ khẩu thường trú để khai sinh cho con vì đang thụ án… Họ cũng chẳng có người thân bên cạnh. Trong trường hợp này thì không ai khác, chính cán bộ quản giáo là người thay người thân các em đi đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, đã từng xảy ra trường hợp khi cán bộ quản giáo đến UBND xã nơi trại giam có trụ sở thì đã bị từ chối vì người mẹ không có hộ khẩu thường trú cũng như không tạm trú ở đây.
Với những trường hợp làm được giấy khai sinh thì cũng phát sinh nhiều vấn đề. Thứ nhất, nếu cán bộ quản giáo đi khai sinh thì phần nơi sinh sẽ là “trại giam số…” và phần ghi về người đi đăng ký khai sinh quan hệ với người được khai sinh trong giấy khai sinh sẽ là “cán bộ quản giáo”. Theo bình luận của một chuyên gia pháp lý, việc này sẽ rất bất lợi cho đứa trẻ sau này, bởi giấy khai sinh là tờ giấy thông hành vào đời, đứa trẻ sẽ mặc cảm khi mang trên mình “tỳ vết” do chính bố mẹ chúng gây ra. Do đó, giải quyết vấn đề này cần một quy định linh hoạt và một cơ chế phối hợp tốt giữa hai ngành Tư pháp – Công an.
2. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Xác lập chủ sở hữu khi mua bán nhà - áp dụng tuỳ tiện vì văn bản luật mâu thuẫn. Bài báo phản ánh: Muốn mua một căn nhà, có lẽ xác định thời điểm người mua làm chủ sở hữu căn nhà đó không khó theo thông lệ pháp luật: trả tiền, nhận nhà, nộp thuế phí, nhận sổ đỏ, hồng mới. Điều tưởng dễ và thống nhất hoá ra lại đang bất nhất khi pháp luật được áp dụng, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp, rủi ro...
Điều 439 bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Thế nhưng, một thực tế đang diễn ra không giống như vậy, kể từ khi có luật Nhà ở năm 2005.
Theo bộ luật Dân sự 2005, đối với tài sản mua bán, pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu (như nhà, đất), thời điểm chuyển quyền sở hữu được tính kể từ khi bên mua hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Thêm nữa, luật Đất đai năm 2003 quy định: “Trong thời hạn không quá 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Trong thời gian không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.
Tuy nhiên, theo luật Nhà ở năm 2005 lại không phải như vậy. Điều 93 luật Nhà ở quy định: thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà kể từ khi hợp đồng mua bán được công chứng, chứng thực. Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật Nhà ở cũng không khác: “Thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở đối với trường hợp mua bán nhà ở tính từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được công chứng hoặc chứng thực”.
Thực tế muốn đi đăng bộ, người mua và người bán phải nộp thuế thu nhập và lệ phí trước bạ. Vì vậy, thời gian từ khi công chứng đến lúc hoàn tất thủ tục sang tên nhanh nhất cũng nửa tháng. Như vậy, thời gian từ lúc ký hợp đồng công chứng đến đăng ký quyền sở hữu (đăng bộ) đã có “khoảng trống pháp luật”, theo một luật sư, do các quy định pháp luật xung đột nhau. Đó là chưa nói đến việc đăng bộ để cấp xã và trung tâm đăng ký quyền sử dụng đất (thuộc cấp huyện) kiểm tra lại tính pháp lý của căn nhà (có tranh chấp, đúng hiện trạng, quy hoạch... hay không).
Một cái vướng nữa, đối với cơ quan thi hành án, việc kê biên tài sản để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án và xác định chủ sở hữu nhà – đất ở thời điểm kê biên rất cần thiết. Nếu khi kê biên, phát hiện trước đó chủ nhà tuy đã ký hợp đồng bán cho người khác, nhưng căn cứ vào bộ luật Dân sự và luật Đất đai, nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án, cơ quan thi hành án được quyền kê biên, phát mãi căn nhà. Thế nhưng, theo luật Nhà ở thì nhà đã thuộc quyền sở hữu của người mua, cơ quan thi hành án không có quyền vì kê biên người mua khiếu nại; không kê biên người được thi hành án khiếu nại.
Báo cũng có bài Luật Bảo vệ môi trường: Thiếu cơ chế đảm bảo thi hành. Bài báo phản ánh: Một trong những hạn chế lớn nhất của hệ thống pháp luật môi trường hiện nay ở Việt Nam là thiếu một cơ chế bảo đảm thi hành có hiệu quả. Phân tích của TS Phạm Văn Võ, đại học Luật TP.HCM về những nguyên nhân của thực trạng này và cùng với đó là gợi ý giải pháp khắc phục.
Về tổng thể, các văn bản quy phạm pháp luật vể môi trường hiện nay vẫn chưa được thiết kế một cách hệ thống, đồng bộ dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho việc áp dụng. Bảo vệ môi trường (BVMT) chính là bảo vệ các yếu tố môi trường và nội dung này đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành ở nhiều thời điểm khác nhau, bởi nhiều cơ quan khác nhau (nên nhiều khi cũng… khác nhau). Đồng thời, nó cũng được quy định trong luật BVMT 2005. Lẽ ra, luật BVMT chỉ nên đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc như là sợi dây kết nối các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản, nước, rừng… thay vì quy định cụ thể, trùng lặp.
Nhiều quy định của pháp luật môi trường trong thời gian qua chỉ tồn tại trên giấy. Ví dụ: vấn đề thu phí bảo vệ môi trường đối với các phương tiện giao thông cơ giới đã được quy định tại luật BVMT cũ (luật 1993) nhưng cho đến khi luật này hết hiệu lực thì việc thu phí vẫn chưa được triển khai áp dụng. Mặc dù cho đến nay, luật BVMT mới (luật 2005 hiện hành) đã ban hành được ba năm nhưng có rất nhiều những quy định trong luật này vẫn chưa được triển khai thực hiện như vấn đề thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ.
Luật BVMT 2005 đã có quy định cụ thể về sự tham gia của người dân trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư nhưng đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, mặc dù sự ảnh hưởng đến môi trường là rộng lớn hơn nhưng lại chưa có quy định tương tự..
Quyền tiếp cận thông tin về môi trường của người dân và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở về môi trường tuy đã được quy định từ điều 102 đến điều 105 của luật BVMT 2005, nhưng những quy định này còn chưa đầy đủ. Nhiều thông tin rất cần cho việc kiểm tra, giám sát, khiếu nại, tố cáo hoặc có liên quan đến quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân như: báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, thông tin về hiện trạng môi trường, hồ sơ xử lý từng vụ việc vi phạm… lại không có trong danh mục những thông tin phải công khai.
Việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường vẫn chưa bảo đảm phù hợp với tính thống nhất của môi trường về không gian cũng như về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố môi trường. Về không gian, môi trường không thể bị chia cắt bởi địa giới hành chính nên trên nguyên tắc, phải có sự phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa các địa phương một cách phù hợp. Song, thẩm quyền quản lý nhà nước về môi trường hiện nay vẫn xác định theo địa giới hành chính, thiếu thể chế mang tính liên vùng, vai trò của Trung ương trong điều phối sự phối hợp giữa các địa phương còn mờ nhạt.
Với sự ra đời của bộ Tài nguyên và môi trường, việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước cho các cơ quan quản lý chuyên ngành có xu hướng tập trung vào một vài đầu mối. Tuy nhiên, hiện nay bộ Tài nguyên và môi trường mới chỉ quản lý về BVMT và các yếu tố môi trường như đất đai, nước, khoáng sản, biển và công tác khí tượng thuỷ văn. Rừng, thuỷ sản hiện nay vẫn thuộc thẩm quyền quản lý của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tài nguyên nước hiện thì vẫn có sự nhập nhằng giữa bộ Tài nguyên và môi trường với tư cách là cơ quan quản lý chuyên ngành đối với nguồn nước, và bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn với tư cách là cơ quan quản lý chuyên ngành về thuỷ lợi…
Dù có là thần thánh thì các cơ quan quản lý cũng không thể phát hiện hết những hành vi vi phạm, đó là chưa nói đến việc kiểm tra giám sát là rất tốn kém. Do vậy để ngăn chặn hành vi vi phạm, vấn đề mấu chốt là chế tài nghiêm khắc để các chủ thể không dám vi phạm, tránh tình trạng chủ động vi phạm và chấp nhận nộp phạt. Phát hiện vi phạm đã khó, biện pháp xử lý đối với chúng lại mang tính hình thức nên chưa đủ sức răn đe, thiếu nhất quán nên tạo ra các tiền lệ xấu. Hầu hết những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT hiện nay chỉ có thể xử lý hành chính. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự rất khó áp dụng vì chủ thể thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật môi trường dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hiện nay là các doanh nghiệp, nhưng bộ luật Hình sự chỉ quy định về việc truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân. Cũng theo quy định của bộ luật Hình sự, hầu hết những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn tái phạm. Điều này không chỉ gây trở ngại trong việc truy cứu trách nhiệm với cá nhân thực hiện hành vi mà gần như loại trừ việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với lãnh đạo doanh nghiệp, vì nếu xử phạt vi phạm hành chính thì là xử phạt doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp lại không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra, chủ thể bị thiệt hại có thể là Nhà nước (thiệt hại gây ra cho những yếu tố môi trường chung), nhưng ai sẽ là người đại diện cho Nhà nước để yêu cầu bồi thường thiệt hại? Theo quy định của luật BVMT 2005 thì đó chính là cơ quan quản lý chuyên ngành về môi trường ở địa phương nhưng theo quy định của pháp luật thì sở Tài nguyên và môi trường không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ là cơ quan tham mưu giúp việc cho uỷ ban nhân dân tỉnh nên không đủ tư cách khởi kiện. Đến Nhà nước cũng khó xài quyền đi kiện của mình!
Thực tế này còn do quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra chưa phản ánh được những nét đặc thù của nó.
Đối với thiệt hại gây ra cho tài sản, tính mạng sức khoẻ của tổ chức, cá nhân, số người bị thiệt hại có thể lên đến hàng trăm ngàn. Pháp luật về tố tụng dân sự hiện hành không cho phép họ được khởi kiện tập thể. Và nếu cả hàng trăm ngàn người đều phải từng người nộp đơn khởi kiện tại toà thì không biết là toà mất bao nhiêu thời gian để đọc hết số lượng đơn khổng lồ như vậy?