I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài “Nghỉ hưu như quy định hiện hành lãng phí nhân lực”. Bài báo phản ánh: Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hôm qua (15/9), Chính phủ họp phiên chuyên đề cho ý kiến về các dự án Luật chuẩn bị trình Quốc hội.
Đó là ý kiến của nhiều thành viên Chính phủ khi góp ý cho dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC). Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng nhấn mạnh, mức phạt phải có tác dụng răn đe, đã vi phạm là phạt rất cao, nếu cao gấp 2 lần không ý nghĩa gì, thì tùy từng thời điểm, Chính phủ quy định điều chỉnh phù hợp, linh hoạt hơn.
Dẫn một ví dụ trong lĩnh vực cạnh tranh, lãnh đạo Bộ Công Thương cho rằng, qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh quy định tối đa 200 triệu đồng không đủ sức răn đe, trong khi Luật Cạnh tranh qui định, mức phạt vi phạm hành chính bằng 10% tổng doanh thu. Bên cạnh đó, dự thảo Luật chưa đưa ra việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, biện pháp khắc phục hậu quả là bồi thường thiệt hại…
Có ý kiến cho rằng, cần qui định mức phạt tiền cao hơn gấp 2 lần cho việc xử phạt VPHC ở Hà Nội, TP.HCM, nhưng thực tế các vụ tai nạn, các hành vi vi phạm không chỉ xảy ra ở 2 thành phố này, đa số thành viên Chính phủ kiến nghị Chính phủ cần quy định cụ thể, chứ không thể đưa qui định này thẳng vào Luật. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tán đồng việc dự thảo Luật XLVPHC cần được tiếp tục chỉnh lý để “phạt đủ mức răn đe nhưng linh hoạt”.
Trình bày dự thảo Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, có 6 vấn đề còn có ý kiến khác nhau, trong đó có việc giao TAND cấp huyện xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính; việc không quy định biện pháp “đưa vào cơ sở chữa bệnh” là biện pháp xử lý hành chính; việc tham gia của luật sư, trợ giúp viên pháp lý, đại diện hợp pháp của đối tượng vi phạm đối với một số vi phạm hành chính trước khi ra quyết định xử phạt…
Nhiều thành viên Chính phủ đã tán thành đề xuất của Bộ LĐ-TB&XH về việc giữ nguyên quy định hiện hành về thời giờ làm thêm (tối đa 200 giờ/năm) trong dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi). Để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp mang tính đặc thù như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản, Chính phủ cần có quy định riêng về thời gian làm thêm (tối đa 300 giờ/năm).
Tuổi tuổi nghỉ hưu của người lao động vẫn giữ quy định hiện hành 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ; thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng để tạo điều kiện tăng cường và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, Bộ LĐTB&XH cho rằng, thời gian tới cần tăng tuổi nghỉ hưu, một số ngành đặc biệt có thể giảm tuổi. Cùng quan điểm có thể kéo dài tuổi lao động, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, dù liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm nhưng “nghỉ đúng như quy định hiện hành thì lãng phí nhân lực”.
Theo ý kiến của Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam, độ tuổi nghỉ hưu có thể tăng tùy trường hợp. Nên qui định để lao động nữ “đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu, chứ không buộc phải nghỉ hưu”.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhận thấy, thời điểm nghỉ hưu của người lao động như các nước dựa vào thời gian đóng BHXH, chứ không phải nhất thiết theo tuổi. Đối với loại hình lao động khác công chức, viên chức, thì tùy nhu cầu năng lực, khả năng cán bộ mà sắp xếp. Tuy nhiên, Thủ tướng lưu ý, Luật Bảo hiểm xã hội “không gắn với nghỉ hưu, nên nghỉ hưu mà không đủ thời gian đóng bảo hiểm vẫn phải đóng thêm cho đủ mới được trả lương bảo hiểm”.
Cùng ngày, Chính phủ cho ý kiến vào 7 dự án Luật khác như Luật Quảng cáo, Luật Giá…
2. Báo điện tử Chính phủ đưa tin Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 1573/QĐ-TTg bổ nhiệm có thời hạn ông Nguyễn Đức Lợi, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, giữ chức Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.
Quyết định 1573/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2011.
3. Báo Dân Việt có bài Hạn chế các nhà thầu Trung Quốc đầu tư nguồn điện. Bài báo phản ánh: Hiệp hội Năng lượng VN (VEA) vừa có văn bản số 106 gửi Quốc hội, Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy tiến độ các dự án năng lượng. Theo VEA, hầu hết các dự án nguồn điện hiện nay đều bị chậm tiến độ. Đặc biệt các dự án do các nhà thầu Trung Quốc đảm nhận có những dự án đến nay chưa triển khai, chậm tiến độ từ 2 - 3 năm, lý do chậm do năng lực nhà thầu yếu, thiếu kinh nghiệm và không thu xếp được tài chính. Nhà thầu hứa cung cấp đủ vốn cho dự án, nhưng thực chất là thiếu công nghệ, thiết bị không đồng bộ.
Ngoài ra, các dự án nhà thầu Trung Quốc trúng thầu họ đều đưa toàn bộ người Trung Quốc sang làm, không thuê kỹ sư, công nhân của VN, do đó không tận dụng được lao động nội lực, tạo công ăn việc làm cho các địa phương có dự án. Bên cạnh đó, theo VEA, quy định chỉ được phép cho vay tối đa 15% vốn tự có đối với mỗi doanh nghiệp và sử dụng tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn tối đa 30% đã làm ảnh hưởng đến việc huy động nguồn vốn của các ngân hàng thương mại cho các dự án năng lượng.
VEA kiến nghị Chính phủ có những cơ chế đặc thù cho các ngân hàng thương mại trong nước khi tham gia thu xếp vốn cho dự án như bảo lãnh các khoản vay trong và ngoài nước, được sử dụng trước nguồn vốn đầu tư của các ngân hàng trong nước…
Chính phủ giải quyết đề nghị của các ngân hàng thương mại về việc cho vay vượt 15% vốn tự có khi tham gia đầu tư các dự án năng lượng trọng điểm. Cuối cùng VEA kiến nghị nên hạn chế các nhà thầu Trung Quốc, chỉ cho họ tham gia các hạng mục phụ trợ nếu như họ trúng thầu theo quy định.
Báo cũng có bài Ông Cao Minh Quang - Tiến sĩ dỏm, Thứ trưởng thật. Bài báo phản ánh: Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang chỉ theo học một khóa học từ năm 1993 -1994 tại Trường Đại học Uppsala (Thụy Điển) và đạt được chứng chỉ về nghiên cứu khoa học dược phẩm tự nhiên. Thế nhưng, ông Cao Minh Quang tự khai trong phiếu Đảng viên là tiến sĩ (năm 2003) lúc đó ông Cao Minh Quang vẫn còn đang là Phân viện trưởng Phân viện Kiểm nghiệm Bộ Y tế.
Tiếp đó đến năm 2006, khi là Cục trưởng Cục Quản lý dược, ông Quang tiếp tục khai trong bản tự khai sơ yếu lý lịch là: Tiến sĩ dược. Trong bản tự khai này, ông khai rõ rằng ông đạt chứng chỉ “Licentiate of Pharmaceutical Sciences (tương đương tiến sĩ dược khoa)”.
Ngày 13.9.2011, Cục An ninh Chính trị nội bộ (A83) thuộc Tổng Cục an ninh II đã có Văn bản số 3157/A83 (P5) trả lời đơn tố cáo của ông Ngô Minh Nho (một đảng viên, cựu chiến binh ở TP.HCM) về việc ông Cao Minh Quang (Thứ trưởng Bộ Y tế) có gian lận trong việc kê khai tiến sĩ và lợi dụng chính sách luân chuyển để trù dập cán bộ không ăn cánh với mình (Về việc này, chúng tôi sẽ nói rõ ở bài sau). Theo đó, Cục An ninh Chính trị nội bộ khẳng định, Trường Đại học Uppsala Thụy Điển khẳng định ông Cao Minh Quang đã học tại trường từ năm 1993-1994 và đạt chứng chỉ về nghiên cứu khoa học dược phẩm tự nhiên vào ngày 26.10.1994 (không phải là văn bằng). Theo quy định của trường, đây chỉ là chứng chỉ cần đạt được để tham dự khóa học tiến sĩ.
Trước đó, ngày 9.9.2011, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Văn bản số 664/KTKĐCLGD-VB cũng khẳng định chứng chỉ của ông Cao Minh Quang do Trường Đại học Uppsala Thụy Điển chỉ là chứng chỉ cần đạt được để theo học tiến sĩ. Một điểm đáng lưu ý là trong hồ sơ của Trường Đại học Uppsala Thụy Điển thì ông Cao Minh Quang lại sinh ngày 6.6.1953, trong khi đó, trong hồ sơ lý lịch tự khai tại Bộ Y tế thì ông Quang lại khai sinh ngày 10.11.1956.
Tại sao ông Cao Minh Quang lại khai trong bản sơ yếu lý lịch ngày tháng năm sinh khác với lời khai về ngày tháng năm sinh khi học tại Trường Đại học Uppsala Thụy Điển?
Đặt câu hỏi này với một chuyên gia nội vụ, chúng tôi được trả lời: “Có lẽ thời điểm ông Quang đi học tại Thụy Điển năm 1993 khi ông này chưa có chức vụ gì nên khai đúng. Còn khi đã là Cục trưởng (năm 2006) thì lại mong danh vọng, quyền lực được lâu hơn nên khai rút tuổi đi” (?).
Chuyên gia này cũng bình luận: “Có lẽ vì chiếc ghế Thứ trưởng Bộ Y tế mà ông Cao Minh Quang đã phải khai man lý lịch và mạo nhận mình có học vị tiến sĩ”.
Báo cũng có bài Tại Dự án Nhà máy Alumin Nhân Cơ: Lao động Trung Quốc bát nháo, khó trục xuất. Bài báo phản ánh: Mặc dù Cơ quan chức năng tỉnh Đăk Nông đã gia hạn chót đến ngày 5.9, số lao động Trung Quốc (LĐTQ) tại Dự án Nhà máy Alumin Nhân Cơ (huyện Đăk RLấp) phải có giấy phép lao động thế nhưng đến thời điểm hiện tại (14.9) vẫn còn gần 200 LĐTQ tại đây vẫn chưa được cấp phép.
Trước đây hơn 1 tháng, các nhà thầu Trung Quốc tại Dự án xây dựng Nhà máy Alumin Nhân Cơ cho rằng “không hiểu luật Việt Nam” nên chưa làm đầy đủ các thủ tục cấp phép cho lao động.
Cơ quan chức năng đã gia hạn đến ngày 5.9 để hoàn tất việc cấp phép; đồng thời phối hợp với lãnh đạo Công ty cổ phần Alumin hướng dẫn, tuyên truyền cho họ. Nhưng theo số liệu ngày 14.9 của Ban quản lý dự án xây dựng Nhà máy Alumin Nhân Cơ, hiện vẫn còn đến 184/326 LĐTQ chưa được cấp giấy phép.
Ngày 1.9, UBND tỉnh Đăk Nông có thông báo yêu cầu các ngành chức năng trục xuất một số trường hợp LĐTQ vi phạm để cảnh cáo. Song việc làm này bị “vướng” Nghị định số 46/2011/NĐ-CP bởi theo quy định sau 6 tháng kể từ ngày nghị định này có hiệu lực (tức từ ngày 1.8.2011), mới tiến hành trục xuất nếu có vi phạm. Như vậy, thì phải đến tháng 2.2012, việc trục xuất số lao động vi phạm tại Dự án Alumin Nhân Cơ mới có thể triển khai được.
Trong khi đó, tại Nhà máy Alumin Nhân Cơ, hệ thống hàng rào bao quanh khu vực công trường chưa xây dựng, lực lượng bảo vệ lại mỏng nên việc kiểm soát người và phương tiện ra, vào công trường là khá dễ dàng. Vì vậy, LĐTQ trong hoặc ngoài giờ làm việc có thể ra các cụm dân cư địa phương bên ngoài khá tự do và rất khó kiểm soát.
Ông Nguyễn Đức Nguyên - Phó Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đăk Nông cho biết, phần lớn LĐTQ thiếu các thủ tục hồ sơ cần thiết như lý lịch tư pháp, chứng nhận trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có hợp pháp hoá lãnh sự… Trong đó các cơ quan Nhà nước có liên quan còn lơ là trong việc nắm bắt, nhắc nhở, xử phạt, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động nước ngoài tại Dự án Nhà máy Alumin thực hiện đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Kim Tuấn - chuyên viên phụ trách LĐ nước ngoài Ban quản lý Dự án Nhà máy Alumin Nhân Cơ, thì cần phải mất một thời gian nữa mới hoàn thành việc cấp phép cho LĐTQ. Bởi còn một số thủ tục “lòng vòng” như xin được cấp phiếu lý lịch tư pháp cho một số lao động có đủ điều kiện, sau đó mới chuyển sang Công an tỉnh Đăk Nông để xác nhận có hoặc không có tiền án để chuyển hồ sơ ra Bộ Công an mới cấp phép được.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thừa phát lại: Lập vi bằng là chính. Bài báo phản ánh: Được Nhà nước giao bốn chức năng chính: tống đạt văn bản, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi hành án và lập vi bằng, thế nhưng hiện nay lực lượng thừa phát lại (TPL) thí điểm tại TP.HCM chủ yếu làm công việc lập vi bằng là chính. Trong hơn 4,2 tỉ đồng mà năm văn phòng TPL thu được sau hơn một năm hoạt động, có gần 80% là từ mảng lập vi bằng. Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM Ngô Minh Hồng thông tin như trên tại buổi giám sát về hoạt động công chứng và TPL do HĐND TP tổ chức ngày 15-9. Cũng theo lãnh đạo Sở Tư pháp TP, hiện tượng gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người yêu cầu công chứng có chiều hướng gia tăng. Năm 2010 và sáu tháng đầu năm 2011 có 27 trường hợp. Thanh tra Sở đã xử phạt hành chính tám trường hợp với tổng số tiền 23 triệu đồng. Những trường hợp khác có dấu hiệu lừa đảo đã được chuyển hồ sơ cho cơ quan công an.
Ông Trần Văn Bảy, Trưởng phòng Bổ trợ Tư pháp - Sở Tư pháp TP, cho biết: “Có nhiều trường hợp Sở Tư pháp TP gửi văn bản đề nghị công an xử lý vì có dấu hiệu hình sự nhưng công an lại cho rằng đó là giao dịch dân sự. Tới đây Sở sẽ làm việc với Công an TP để có sự phối hợp xử lý kịp thời và hiệu quả hơn. Đồng thời, Sở sẽ kiến nghị Bộ Tư pháp để đề xuất sửa đổi Nghị định 60/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp sao cho phù hợp hơn”.
Được biết, hiện Sở Tư pháp TP đang xây dựng phần mềm quản lý hồ sơ công chứng và đang chạy thử nghiệm. Với phần mềm này, nếu một tài sản đã được đem giao dịch thì tất cả công chứng viên của TP đều nắm được, như vậy sẽ ngăn ngừa được hiện tượng một tài sản đem bán cho nhiều người. Dự kiến tháng 10-2011, phần mềm sẽ được triển khai.
2. Báo Công lý có bài Bản án dân sự gần 10 năm vẫn không được thi hành: Chi cục Thi hành án huyện Kim Bôi “vô cảm”? Bài báo phản ánh: Cách đây gần 10 năm, TAND tỉnh Hoà Bình đã thụ lý vụ kiện giữa ông Bùi Văn Lượng, trú tại xóm Bái, xã Kim Sơn, huyện Kim Bôi với bà Bùi Thị Mai, trú tại xóm Sào, xã Hạ Bì, cùng huyện.
Theo Bản án số 05/DSPT ngày 25-2-2002 do bà Dương Thị Thịnh, Thẩm phán, Chủ tọa phiên toà đã ký, buộc vợ chồng bà Bùi Thị Mai - Bùi Văn Nhũng phải có trách nhiệm trả ông Bùi Văn Lượng số tiền đã vay mượn là 6.049.000 đồng. Bản án cũng nêu rõ: Kể từ ngày ông Lượng có đơn yêu cầu thi hành, nếu vợ chồng chị Mai và anh Nhũng không chịu trả số tiền trên, hàng tháng chị Mai và anh Nhũng còn phải trả cho ông Lượng số tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành.
Vụ án không có kháng cáo kháng nghị. Cũng vì thế sau đó, ông Bùi Văn Lượng có đơn yêu cầu thi hành án và đã được cơ quan thi hành án huyện Kim Bôi ra quyết định số 44.THA ngày 17-5-2002 do ông Bùi Quang Sử - Chấp hành viên trưởng ký.
Tuy nhiên, kể từ đó đến nay đã hơn 9 năm mà bản án vẫn chưa được thi hành. Bản thân ông Lượng trực tiếp đi lại đến Cơ quan thi hành án huyện Kim Bôi rất nhiều lần để đề nghị thi hành bản án nói trên nhưng đều không được giải quyết, không được ông Sử tiếp làm việc. Để bảo đảm quyền lợi chính đáng của bản thân và gia đình, năm 2010 ông Bùi Văn Lượng đã 3 lần gửi đơn tới Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Hoà Bình với nội dung khiếu nại việc Chi cục Thi hành án huyện Kim Bôi không thi hành bản án. Cả 3 lần, Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Hoà Bình đều có “Phiếu chuyển đơn” đến Chi cục Thi hành án huyện Kim Bôi đề nghị giải quyết vụ việc theo thẩm quyền và báo cáo kết quả giải quyết đơn khiếu nại của ông Lượng đến Cục trưởng Thi hành án Dân sự tỉnh, chậm nhất là trước ngày 5-11-2010. Thế nhưng không hiểu vì lý do gì mà cho đến nay Chi cục Thi hành án huyện Kim Bôi vẫn không có ý kiến đối với bản án số 05 ngày 25-2-2002 của TAND tỉnh Hoà Bình và cũng không hề có báo cáo hồi âm với cơ quan chỉ đạo cấp trên lý do không thi hành án.
Việc làm trên của cơ quan Thi hành án huyện Kim Bôi khiến ông Lượng bức xúc: Số tiền tôi đi vay giúp chị Mai, anh Nhũng năm 1999 là 5 triệu đồng, họ không trả nên đến nay tôi phải gánh chịu khoản tiền nợ đến gần 40 triệu đồng.
Vụ việc đã kéo dài gần 10 năm, số tiền thu hồi không lớn nhưng Cơ quan thi hành án huyện Kim Bôi đã không thực thi nhiệm vụ của mình, gây thiệt hại cho công dân, kéo dài khiếu kiện. Thiết nghĩ, Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Hoà Bình cần đôn đốc, làm rõ trách nhiệm của Chi cục Thi hành án huyện Kim Bôi trong vụ việc này, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân mà cụ thể là gia đình ông Bùi Văn Lượng.
3. Báo Thanh niên Online có bài Gian dối, lừa đảo trong công chứng ngày càng tinh vi. Bài báo đưa tin: Ngày 15.9, Ban Pháp chế HĐND TP.HCM có buổi làm việc với Sở Tư pháp TP.HCM về công tác quản lý Nhà nước cũng như tình hình tổ chức, hoạt động trong lĩnh vực công chứng và thừa phát lại trên địa bàn thành phố.
Báo cáo với Ban pháp chế HĐND, Giám đốc Sở Tư pháp Ngô Minh Hồng cho biết TP.HCM có 7 Phòng công chứng, 22 Văn phòng công chứng với 123 công chứng viên hành nghề, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của người dân. Trong năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011, các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện được 563.476 việc. Tuy nhiên, ông Ngô Minh Hồng cho biết điều đáng lo ngại là thời gian qua, hiện tượng gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người yêu cầu công chứng trong hoạt động công chứng có chiều hướng gia tăng, ngày càng tinh vi và phức tạp. Từ năm 2010 đến nay, có 27 trường hợp bị phát hiện.
Trong khi đó, việc phối hợp xử lý các trường hợp phát hiện giả mạo giấy tờ giữa các tổ chức hành nghề công chứng và cơ quan công an chưa kịp thời, chặt chẽ; một số trường hợp tổ chức hành nghề công chứng phát hiện có dấu hiệu giả mạo đã báo cho công an địa phương nhưng cơ quan công an chậm cử người đến để phối hợp xử lý hoặc chậm có thông báo về kết quả xử lý. Ngoài ra, một số quy định của Luật Công chứng chưa phù hợp thực tế, mâu thuẫn với các luật khác (như Bộ luật Dân sự, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở...) cũng khiến hoạt động công chứng gặp nhiều vướng mắc.
4. Trang Tuần Việt Nam.net có đăng bài “Bỏ hạn điền trong nông nghiệp?” của tác giả Đặng Hùng Võ. Trong bài viết có nêu: Đến năm 2013, thời hạn sử dụng đất đối với đất được giao sử dụng 20 năm đã hết. Nhà nước cần có quyết định làm gì khi đất sản xuất nông nghiệp đã hết thời hạn sử dụng. Luật Đất đai mới phải có quy định để giải quyết vấn đề này.
Sự thực vấn đề này đã được xem xét kỹ khi xây dựng Luật Đất đai 2003. Trong thảo luận ở mọi cấp đều cho thấy gần như một nửa số lượng ý kiến muốn kéo dài thời hạn sử dụng đất nông nghiệp tới 50 năm, thậm chí không thời hạn; còn một nửa số lượng ý kiến muốn chia lại đất khi hết thời hạn. Tỷ lệ ý kiến này cũng có chênh lệch giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam. Ý kiến của các tỉnh phía Bắc thiên về hướng chia lại ruộng đất, ý kiến của các tỉnh phía Nam lại muốn kéo dài thời hạn tới "vô cùng". Quyết định chính sách trong trường hợp này quả là khó khăn. Chính vì vậy mà vấn đề này vẫn để nguyên như quy định của Luật Đất đai 1993 trong Luật Đất đai 2003.
Bên cạnh vấn đề thời hạn sử dụng đất nông nghiệp, việc quy định hạn điền cho đất nông nghiệp được coi như không có tác dụng trong hoàn cảnh hiện nay. Mặc dù mức hạn điền đã nới rộng từ Luật Đất đai 1993 sang Luật Đất đai 2003. Mức hạn điền theo Luật Đất đai 1993 được chuyển thành hạn mức Nhà nước giao đất trong Luật Đất đai 2003. Mức hạn điền theo Luật Đất đai 2003 là hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất, được xác định theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khoảng gấp đôi hạn mức giao đất nói trên.
Trên thực tế, cũng có hai cách nhìn nhận về quy định hạn điền. Một luồng ý kiến cho rằng cần loại bỏ hạn điền nhằm khuyến khích kinh tế trang trại quy mô lớn. Một luồng ý kiến ngược lại, muốn tiếp tục quy định hạn điền để tránh xu hướng hình thành tầng lớp địa chủ mới và tầng lớp tá điền mới ở nông thôn.
Khi chuẩn bị dự thảo Luật Đất đai 2003, quy định xóa bỏ hạn điền được nhất trí khá cao. Khi thảo luận ở Quốc hội, đại biểu Dương Trung Quốc đã có ý kiến nghi ngờ việc xóa bỏ hạn điền với luận cứ rằng cha ông ta bao nhiêu đời mà chưa ai dám bỏ hạn điền. Thế là lại phải đưa hạn điền vào quy định của pháp luật.
Trên thực tế hiện nay, các cơ quan quản lý không quản lý được hạn điền, không phát hiện được người sử dụng đất vượt hạn điền và cũng không xử lý được những người vượt hạn điền. Một quy định mà hoàn toàn không có tính khả thi. Kinh nghiệm quản lý ở nhiều nước khác cho thấy, người ta cũng không quan tâm nhiều tới hạn điền quy định một cách "cơ học" như ở ta. Diện tích đất sử dụng được điều chỉnh bằng công cụ thuế để tạo công bằng, phần diện tích nhiều hơn phải chịu thuế cao hơn. Việc địa chủ mới có hình thành được hay không lại phải giải quyết theo các quy định khác của pháp luật, không sử dụng công cụ hạn điền.
Các địa phương thực hiện giao đất trước đây đều thực hiện theo nguyên tắc công bằng, mỗi gia đình "có ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng gần, ruộng xa". Cách làm này tạo nên tình trạng ruộng đất quá manh mún. Theo ước tính, diện tích trung bình mỗi thửa ruộng chỉ khoảng 0,23 ha; mỗi hộ gia đình nắm giữ khoảng 0,66 ha. Trên tổng diện tích 10 triệu ha đất nông nghiệp, có khoảng 70 triệu thửa đất do khoảng 14 triệu hộ nông dân sử dụng. Ngữ cảnh này ngược lại hoàn toàn với chủ trương đưa đất đai vào hợp tác xã nông nghiệp để tập trung ruộng đất.
Việc tập trung ruộng đất vào tay những người căn cơ nghề nông để phát triển kinh tế trang trại là một chủ trương đã được ban hành và khuyến khích thực hiện. Trang trại có thể ở dạng cá thể hoặc tập thể. Đây là giải pháp duy nhất để tạo động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao đáng kể năng suất và sản lượng nhờ điều kiện có thể áp dụng các tiến bộ công nghệ.
Đầu tư cho nông nghiệp là một loại đầu tư có chu kỳ dài nếu muốn đầu tư đó mang lại năng suất và sản lượng rất cao. Thời hạn sử dụng đất ngắn không thể khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp.
Để tạo động lực mới nhằm giải quyết tốt vấn đề TAM NÔNG, Luật Đất đai lần này cần quy định theo hướng:
1. Bãi bỏ quy định về hạn điền;
2. Có thể lựa chọn một trong hai cách xử lý thời hạn sử dụng đất: một là thời hạn sử dụng đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân sử dụng là 99 năm; hai là xóa bỏ thời hạn sử dụng đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân sử dụng.
Kèm theo các quy định này, cần có quy định cụ thể về giải quyết triệt để những trường hợp có đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả. Có thể giải quyết bằng cách Nhà nước thu hồi đất hoặc đánh thuê cao, cũng có thể kết hợp cả hai cách này.