Điểm tin báo chí sáng ngày 02 tháng 7 năm 2010

02/07/2010
Trong buổi sáng ngày 02/7/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

  I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Pháp luật và xã hội có bài Đảng ủy Cơ quan Trung ương Hội Luật gia Việt Nam: Tổ chức nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Bài báo phản ánh: Đảng ủy Cơ quan Trung ương Hội Luật gia Việt Nam vừa tổ chức Hội nghị quán triệt nghiên cứu và góp ý kiến vào các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Văn kiện Đại hội Đảng bộ Khối các Cơ quan Trung ương, dưới sự chủ trì của Phó Bí thư đảng uỷ Dương Thị Thanh Mai và Uỷ viên Thường trực Đảng uỷ, Phó TTK Hội Luật gia VN Đàm Xuân Toan cùng toàn thể đảng viên của 6 Chi bộ trực thuộc Đảng bộ Cơ quan Trung ương Hội Luật gia Việt Nam.

Tại Hội nghị đã có rất nhiều ý kiến thể hiện sự đồng tình, nhất trí với Dự thảo các Văn kiện của Đảng. Tuy nhiên, cũng vẫn có một số ý kiến băn khoăn về Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 và Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng, viết quá cô đọng, đôi chỗ còn khó hiểu, đặc biệt phần đánh giá một số chỗ còn chưa cụ thể.

Nhiều ý kiến phát biểu cho rằng, việc chống tham nhũng còn yếu và việc xử lý tình trạng khiếu kiện, vi phạm pháp luật về tố tụng còn chưa triệt để, chưa nghiêm.

Kết luận hội nghị, ông Đàm Xuân Toan đã ghi nhận và đánh giá cao tinh thần xây dựng của các Đảng viên đã thẳng thắn đóng góp để Đảng ta rút kinh nghiệm, hoàn thiện các văn kiện đảm bảo tốt mục tiêu chính trị của Đảng trong tình hình mới.

2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Việt Nam nhiều cơ hội cho nhà đầu tư. Bài báo phản ánh: Thực hiện sáng kiến cắt giảm 30% TTHC, 57% người tiêu dùng độ tuổi dưới 30 …, Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội cho những nhà đầu tư kiên nhẫn và dũng cảm.

Tờ “Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng” (xuất bản tại Hongkong) ngày 29/6 đăng một bài bình luận với nhận xét trong bối cảnh điều kiện lao động ở Trung Quốc đang có nhiều thay đổi, mà đặc biệt là chi phí lương tăng (từ 13%- 20% ở nhiều DN) thì Việt Nam là một sự lựa chọn khác cho các nhà đầu tư.

Việt Nam là một nền kinh tế năng động. Tỷ lệ tăng GDP đạt trung bình 6,8% trong 7 năm qua; tỷ lệ nghèo đã giảm mạnh.

Trong 86 triệu người tiêu dùng thì 57% ở độ tuổi dưới 30 và chỉ 30% là dân thành thị, đó là lực lượng đông đảo lao động tiềm năng.

Gần đây, Việt Nam đã đưa ra một sáng kiến cắt giảm 30% TTHC gọi là “Đề án 30”, bao gồm các biện pháp giảm bớt tình trạng quan liêu, chống tham nhũng với các thủ tục đơn giản hóa, loại bớt những xác nhận, công chứng để tiết kiệm thời gian lẫn tiền bạc cho DN.

Thêm nữa, một thế hệ DN mới (thể hiện qua số DN đăng ký đã tăng từ 31.000 trong năm 2000 lên 460.000 năm 2009) cũng làm tăng tính thu hút của Việt Nam như là một cơ sở cho các hoạt động kinh doanh. 

Các lợi thế của Việt Nam khá rõ ràng. Nền kinh tế Việt Nam đang chờ đợi các nhà đầu tư và có rất nhiều cơ hội cho những ai kiên nhẫn và dũng cảm.

Khi các DN Việt Nam được hỏi làm thế nào để cạnh tranh tốt nhất với các DN nước ngoài đang tiến vào thị trường này, 30% tuyên bố rõ ràng rằng cạnh tranh không phải là một lựa chọn. Thay vào đó, học hỏi lẫn nhau mới là phương cách lý tưởng.

Một phản ứng như vậy càng cổ vũ cho việc các nhà đầu tư chuyển đến Việt Nam nhiều hơn.

3. Báo Điện tử Dân chí có bài Sẽ xem xét lại vùng thực hiện lương tối thiểu. Bài báo phản ánh Các vùng thực hiện lương tối thiểu tới nay đã phát sinh các vấn đề không hợp lý. Hiện một số địa phương đang đề xuất Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phân vùng lại.

Mới đây, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã gửi công văn số 1791/LĐTBXH-LĐTL đề nghị UBND các tỉnh, thành rà soát, đánh giá và đề xuất việc điều chỉnh phân vùng lương tối thiểu sẽ bắt đầu thực hiện từ năm 2011. Lãnh đạo Bộ này cho biết, quy định các vùng thực hiện lương tối thiểu tới nay đã phát sinh các vấn đề không hợp lý, bởi có sự chênh lệch giữa chỉ số giá sinh hoạt, thu nhập bình quân của người dân... Một số tỉnh đã đề xuất phân vùng lại. Trước phản ánh này, Bộ đã yêu cầu các tỉnh, thành báo cáo số liệu cụ thể về thu nhập bình quân theo đầu người, chỉ số giá tiêu dùng, nhu cầu thu hút đầu tư, cân đối nhu cầu lao động… Căn cứ vào số liệu thực tế để xây dựng mặt bằng tiền lương trên thị trường các địa phương.

 Tuy nhiên, Bộ cũng đưa ra một số nguyên tắc nhất định để tránh trường hợp những địa phương tự đề xuất mình lên vùng cao hơn so với thực tế. Dự kiến kế hoạch phân vùng lại lương tối thiểu sẽ thực hiện trước tháng 9/2010 dựa trên các đề xuất của địa phương. Các vùng thực hiện lương tối thiểu mới sẽ bắt đầu từ tháng 1/2011.

 Hiện mức lương tối thiểu đang được áp dụng trong năm 2010: Đối với các doanh nghiệp trong nước lần lượt là: vùng 1 (980.000 đồng/tháng), vùng 2 (880.000 đồng), vùng 3 (810.000 đồng), vùng 4 (730.000 đồng).

 Đối với lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là: vùng 1 (1.340.000 đồng/tháng), vùng 2 (1.190.000 đồng), vùng 3 (1.040.000 đồng), vùng 4 (1.000.000 đồng).

4. Báo Điện tử VOV.NEWSbài  “Đẩy mạnh liên kết – hành động vì hàng Việt”. Bài báo phản ánh: Tối qua (1/7), tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao và Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp tổ chức công bố Chương trình hành động “Đẩy mạnh liên kết – hành động vì hàng Việt”.

Phát biểu tại buổi lễ, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao những nỗ lực của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao trong việc thường xuyên tổ chức các hội chợ, phiên chợ hàng Việt về nông thôn, phiên chợ công nhân, Câu lạc bộ Đại sứ hàng Việt… nhằm tuyên truyền, vận động doanh nghiệp và người tiêu dùng tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động.

Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh cũng cam kết sẽ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp và  tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình hoạt động của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao nhằm nâng cao năng lực của doanh nghiệp Việt Nam, và phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. Bà Nguyễn Thị Hồng nói: Chương trình Hàng Việt sẽ gắn liền với chương trình bình ổn thị trường. Đây cũng là một hình thức gắn kết giữa các doanh nghiệp với nhau để khai thác năng lực về tài chính, vốn, đất đai, lao động. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp chủ động tạo ra những sản phẩm để đưa đến người tiêu dùng chất lượng cao nhất, giá cả thấp nhất.

Với khẩu hiệu “Đẩy mạnh liên kết – hành động vì hàng Việt”, chương trình mới của Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao sẽ tập trung vào 3 mảng hoạt động chính đi vào chiều sâu, dài hạn và tập trung nhằm nâng chất cho hàng Việt và doanh nghiệp Việt đó là: Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường nội địa; vận động, cổ vũ cho chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; chia sẻ kinh nghiệm quản trị, kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao cho biết: Hội sẽ tổ chức sự liên kết và hướng dẫn thực hành của các doanh nghiệp trong câu lạc bộ Doanh nghiệp dẫn đầu với các doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao; trong đó có 5 đề tài được đặt hàng như: Làm gì để các doanh nghiệp thấu hiểu người tiêu dùng, làm sao để tăng chất lượng dịch vụ khách hàng của các doanh nghiệp Việt Nam, làm gì để tiếp thị và xây dựng thương hiệu trong thời buổi khó khăn này một cách hiệu quả nhất, xây dựng mạng lưới phân phối cho doanh nghiệp bền vững và cuối cùng là xây dựng lực lượng nhân sự, quản lý cấp trung và kế thừa tốt nhất trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay.

5. Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chính phủ cam kết không tăng giá các mặt hàng thiết yếu. Bài báo phản ánh: “GDP sáu tháng đầu năm tăng 6,16% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước nên GDP cả năm có thể đạt và vượt chỉ tiêu 6,5%” - ông Đỗ Thức, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết tại cuộc họp công bố số liệu thống kê kinh tế-xã hội ngày 1-7.

Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu ước khoảng 6,7 tỉ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chỉ số giá tiêu dùng sáu tháng tăng 8,75% so với bình quân cùng kỳ năm ngoái. “Trước tình hình nhập siêu tăng và giá cả thị trường thế giới còn biến động, Chính phủ đã cam kết không tăng giá các mặt hàng thiết yếu để bình ổn giá cả, giữ chỉ số CPI cả năm không tăng quá 8% nhằm ngăn chặn tình trạng lạm phát cao trở lại” - ông Thức nói.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Vietnam.net có bài Có luật, người Thủ đô 'dễ bị ghét'. Bài báo phản ánh: Góp ý với ban soạn thảo Luật Thủ đô trong phiên họp sáng nay (1/7), Hội đồng khoa học của Bộ Tư pháp phản biện xoáy vào những "đặc thù" thiết kế cho Thủ đô được cho là vẫn chưa thực sự đặc thù, chung chung cũng như nhiều quy định chưa hợp lý. 

Ví Luật Thủ đô như Hiến pháp riêng cho Hà Nội, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế Dương Đăng Huệ nói dự luật gần như "nhàm chán và khó hiểu" vì quá nhiều khẩu hiệu. Một trong những đặc thù ông Huệ nêu câu hỏi, đó là cho phép Hà Nội lập cơ quan chuyên môn thuộc UBND sau khi có ý kiến của HĐND và thẩm định của Bộ Nội vụ.

Với thực tiễn chưa từng có tiền lệ, ông Huệ đặt câu hỏi: "Quy định đặc thù phải xuất phát từ thực tiễn. Không có thành phố, tỉnh nào được quyền thêm bộ máy. Hà Nội có quyền thì dựa trên cơ sở nào? Vì sao Hà Nội lại có đặc thù này?".

Theo ông Huệ, cơ chế đặc thù phản ánh những cơ chế tích cực, ưu tiên riêng biệt dành cho Hà Nội song càng nhấn mạnh ưu tiên, càng phải chú ý cả đặc thù về trách nhiệm vốn chưa được thiết kế trong dự thảo luật. Nếu không, ban hành luật dễ khiến "người Thủ đô bị ghét".

Vụ trưởng Vụ Đăng ký giao dịch bảo đảm Vũ Đức Long không đồng tình quy định "không xây dựng mới một số trường, bệnh viện, cơ sở sản xuất ở nội thành" hay "không mở rộng diện tích, quy mô giường bệnh của các bệnh viện trung ương"…

Ông Long cho rằng phải xem xét lại quy định này vì thực tiễn đang có xu hướng tư nhân hóa phát triển rất nhanh chóng. Những cơ sở khám chữa bệnh như ở 40 Hàng Bài do tư nhân quản lý, nếu chủ đầu tư quyết định nâng cấp, xây dựng thành bệnh viện thì thành phố sẽ quản như thế nào?

Một quy định được ông Long cho là khó hiểu: "Chính phủ ban hành quy định về điều kiện cư trú ở nội thành" nhưng không có phạm vi ngoại thành. Ngoài ra, quy định cho áp dụng mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính ở nội thành cao hơn, không quá 5 lần so với mức áp dụng chung cho cả nước trong lĩnh vực đất đai, môi trường, xây dựng, giao thông vận tải, cư trú... theo ông là quá nặng.  

Nhận định các quy định còn nhiều lúng túng, theo phương thức "ghép được gì thì ghép vào luật", Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp Trần Thất chỉ ra nên luật hóa cụ thể những giá trị, biểu tượng riêng biệt của Hà Nội như Hồ Gươm, quảng trường Ba Đình, phố cổ... để khi "đụng" vào những giá trị này thì có cơ chế quản lý, không để xảy ra bài học như vụ lát gạch Hồ Gươm vừa qua. Hay như quy định công dân danh dự Thủ đô là ý tưởng tốt nhưng luật chỉ quy định chung mà chưa có những tiêu chí xác định ưu đãi này.

Các ý kiến cũng không đồng tình mục tiêu xây dựng Hà Nội thành trung tâm hàng đầu trong quá nhiều lĩnh vực của cả nước. Như với mục tiêu là trung tâm hàng đầu giáo dục đại học, Hà Nội đang quá tải, muốn giãn trường đại học ra các tỉnh, thành khác, nếu thực hiện mục tiêu này chẳng khác nào gia tăng sức ép cho Hà Nội. Trong khi ở các nước, nhiều trường hàng đầu không nhất thiết phải ở thủ đô.

Một quy định bất hợp lý khác, đó là tạo cơ chế để Hà Nội đào tạo nguồn nhân lực cao. Các ý kiến cho rằng việc đào tạo nhân lực phải nằm trong quy hoạch tổng thể đào tạo chung cho cả nước, chứ không thể chỉ thiên vị riêng Hà Nội.

Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Hoàng Phước Hiệp cho hay ông không tìm ra điểm quan trọng nhất, đó là mô hình pháp lý của luật. Theo ông Hiệp, nếu chỉ là việc tìm ra những ưu đãi, chính sách cho Hà Nội thì chỉ cần Quốc hội ra nghị quyết mà không cần xây dựng một đạo luật cho Thủ đô. Nếu thiết kế ở tầm luật, cần phải khảo sát thấu đáo, trong đó phải xác định phần cốt lõi như bộ máy quản lý Thủ đô và cơ chế phối hợp với bên ngoài của bộ máy này.

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên đồng tình phải cân nhắc làm thế nào xây dựng cơ chế đặc thù xứng đáng cho Thủ đô, nhưng không đặc thù quá đến mức phá vỡ hệ thống chung. Nhiều đặc thù thiết kế theo dự thảo luật còn chưa thực sự đặc thù, quá nhỏ nhặt.

Ông cũng cho rằng tư duy phải vận động, "không thể làm ngược theo kiểu những gì không hay, không tốt dồn ra ngoại thành, dồn ưu tiên cho nội thành". Đối với Hà Nội cũ chỉ cần chỉnh trang, trong khi áp sự khắt khe với những cái mới. Nếu tư duy không vận động, có thể trong 10 năm tới, ngoại thành mới sẽ trở thành nội thành cũ nhưng với tồn tại có thể tệ hơn nội thành bây giờ.

2. Báo Đất Việt có bài 'Cuộc chiến' công chứng giữa 'tư' - 'công' chưa cân sức. Bài báo phản ánh: Vấn đề bồi thường thiệt hại rủi ro khi giao dịch vẫn là một cản trở lớn trong hoạt động của các Văn phòng công chứng (VPCC). “Cuộc chiến” giữa các VPCC với các Phòng công chứng (công chứng Nhà nước) vẫn chưa cân sức.

Sau 2 năm hoạt động, các Văn phòng công chứng (công chứng tư) đã thu hút lượng khách ngày một đông do áp dụng nhiều quy định thoáng, phong cách phục vụ ân cần, chu đáo. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những mối lo từ các đơn vị tư làm dịch vụ công này.

Sáng 30/6, có mặt tại VPCC Nguyễn Thị Tạc, Quang Trung, quận Gò Vấp, chúng tôi chứng kiến gần trăm lượt khách đến giao dịch. Nhà tận quận 2, chị Nguyễn Thị Dung vẫn lặn lội ôm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang tận đây để được tư vấn, hướng dẫn các thủ tục công chứng. “Ở đây, tôi được chỉ dẫn rất tận tình, không khí thoải mái, dễ chịu”, chị Dung cho biết.

Tương tự, tại VPCC Tân Bình, đường Cộng Hòa, quận Tân Bình, mỗi ngày cũng tiếp hàng trăm lượt khách đến giao dịch. Anh Công Hải, người đang làm thủ tục ủy quyền tại đây lý giải: “Trước kia, đi công chứng mấy cái bản sao thôi cũng phải chờ đợi cả buổi, thậm chí phải nhờ cò mới xong việc. Giờ thì khác. Thủ tục nhanh chóng, gọn nhẹ, hỏi gì được giải đáp nấy và không bị… quạu”. Nhiều người khi đến với VPCC đều có cảm nhận mình là “thượng đế”, được hưởng lợi từ loại hình dịch vụ công này. So với những tháng đầu đi vào hoạt động, lượng khách đến công chứng tại các VPCC đã tăng 200 - 300% … Ông Lê Văn Tươi, Trưởng VPCC Tân Bình cho biết: 5 tháng đầu năm 2010, lượng hồ sơ VPCC Tân Bình tiếp nhận tăng gần gấp 3 lần so với 3 tháng đầu năm 2008; từ 1.662 hồ sơ lên đến hơn 6.200 hồ sơ. Giá trị giao dịch cũng tăng lên, nhiều hợp đồng giao dịch mua bán nhà tiền tỷ”.

Bà Nguyễn Thị Tạc, Trưởng VPCC Nguyễn Thị Tạc cho hay: “Hiện nay nhiều ngân hàng cũng bắt đầu tin tưởng vào các VPCC. Lượng ngân hàng tham gia giao dịch tại các VPCC cũng đã có nhiều dấu hiệu khả quan. Đây là bước đột phá trong việc xã hội hoá các hoạt động tư pháp, tạo thế cạnh tranh giữa các loại hình công chứng nhằm nâng chất lượng dịch vụ, phục vụ người dân”.

Tuy nhiên, lượng khách càng đông, giá trị giao dịch càng lớn thì vấn đề bồi thường thiệt hại khi xảy ra sai sót của công chứng viên (CCV) cũng tăng theo. Một CCV thừa nhận: mức độ rủi ro trong giao dịch không phải là không có và nếu có thì chưa chắc đã nhỏ. Bà Tạc cho biết, theo quy định mới, các VPCC phải mua bảo hiểm công chứng 1 tỷ đồng một công chứng viên. Tuy nhiên, Một số VPCC đã “lo xa” khi mua bảo hiểm nghề nghiệp hàng tỷ đồng như VPCC Nguyễn Thị Tạc đang mua bảo hiểm 2,5 tỷ đồng; VPCC Trung Tâm mua 5 tỷ đồng một vụ; VPCC Tân Bình mua 10 tỷ đồng một vụ việc... Thế nhưng, với những hợp đồng có giá trị giao dịch hàng chục, thậm chí hàng trăm tỉ đồng nếu có sai sót thì CCV sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường phần vượt quá mức mà bảo hiểm chi trả.

Trong khi đó, rủi ro cứ rình rập khi việc làm giả giấy tờ, con dấu lại cứ gia tăng, trong khi thông tin ngăn chặn từ Sở Tư pháp TP HCM (đất, nhà bị kê biên hoặc cấm chuyển dịch…) lại không được cập nhật kịp thời. Vì vậy, nếu công chứng cho những giấy tờ đó thì rủi ro sẽ rất lớn. Ngoài ra, CCV sẽ “bó tay” khi người dân khai man về giá trị tài của mình. Bởi trong các hợp đồng tự khai về giá trị tài sản, ít ai khai giá trị thật. Nhưng khi xảy ra rủi ro thì tòa án chỉ căn cứ và giá trị tài sản thực đang tồn tại chứ không xem văn bản công chứng là một bằng chứng để định trách nhiệm.

Ngoài ra, các CCV cũng rất bức xúc trong việc các cơ quan Nhà nước mỗi nơi “xử” mỗi kiểu khác nhau. Hợp đồng công chứng do VPCC chứng thực có khi quận này chấp nhận nhưng quận khác lại không chịu!

3. Báo điện tử Vneconomy có bài Lãi suất cơ bản: “Bóng” đang ở chân Ngân hàng Nhà nước?. Bài báo phản ánh: Vì nhiều lý do, Luật Ngân hàng Nhà nước mới vẫn giữ nguyên khái niệm lãi suất cơ bản cho dù chúng gây tranh cãi suốt mấy năm nay. Nhưng có người nói vui, đó chỉ là câu chuyện “đười ươi giữ ống”, quan niệm và hành xử của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cơ bản ra sao mới là điều quan trọng. Hơn 10 năm trước, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu mặc dù được coi là những lãi suất chủ đạo trong công cụ điều hành của Ngân hàng Nhà nước nhưng sự tồn tại của chúng gần như chỉ trên giấy hoặc mang tính chất chỉ định.

Nói vậy là bởi, tại thời điểm đó, hầu hết các khoản giao dịch cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng đều mang tính chỉ định nên lãi suất của các khoản vay này (tái cấp vốn) thực ra là lãi suất chỉ định. Còn đối với lãi suất tái chiết khấu thì do thị trường tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá khác của Chính phủ hoạt động rất cầm chừng, lúc có lúc không nên lãi suất của chúng (tái chiết khấu) cũng chỉ ở… trên giấy! Thậm chí, ngay cả lãi suất thị trường, Ngân hàng Nhà nước cũng quy định “trần - sàn” và nói tóm lại, các công cụ điều hành lãi suất lúc bấy giờ chủ yếu mang tính chất tượng trưng, áp đặt và không phản ánh đúng bản chất quan hệ về giá vốn trên thị trường. Từ thực tiễn này đã đặt ra yêu cầu phải có một loại lãi suất làm định hướng cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Bởi vậy, năm 1997, khi Luật Ngân hàng Nhà nước ra đời, đã quy định: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.

Đến tháng 8/2000, lãi suất cơ bản chính thức đi vào cuộc sống nhưng trong suốt 8 năm liền, mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã “ấn định” nhưng rốt cục, giao dịch trên thị trường không hề lấy lãi suất cơ bản làm “cơ sở”. Bởi lẽ, không ai hiểu được Ngân hàng Nhà nước lấy cơ sở nào để lãi suất cơ bản lúc thì 5%, lúc thì 7% hay 8%/năm. Sự mờ nhạt này được kết thúc đến đầu năm 2008, do chịu nhiều tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế trong nước có nhiều diễn biến bất thường: lạm phát phi mã, lãi suất mất ổn định cả trên thị trường 1 và thị trường 2. Trong tình cảnh khó khăn đó, Ngân hàng Nhà nước đã có một dịp may không thể may hơn: tại Bộ luật Dân sự có quy định lãi suất cho vay trong nền kinh tế không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Vậy là Ngân hàng Nhà nước đã lấy luôn điều luật này để làm cơ chế điều hành lãi suất và lập tức, mặt bằng lãi suất được ổn định trở lại. Nhưng cũng từ đó, lợi ích của bên gửi tiền và bên cho vay đều bị ảnh hưởng và điều nguy hiểm là cơ chế này đã đưa Việt Nam trở về thời kỳ “trần lãi suất” mà ngành ngân hàng đã mất hàng chục năm để xóa bỏ.

Một năm qua, bằng nhiều cách khác nhau, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phải tháo gỡ dần cơ chế trên, như cho phép cho vay thỏa thuận đối với thẻ, tiêu dùng và gần đây, cho vay thỏa thuận đối với các giao dịch khác. Nhưng sự chờ đợi nhất từ các tổ chức tín dụng vẫn là giải quyết dứt điểm vấn đề lãi suất cơ bản ngay trong Luật Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, Luật Ngân hàng Nhà nước vẫn quy định: Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Nhiều tổng giám đốc nói rằng: “Luật Ngân hàng Nhà nước vẫn quy định lãi suất cơ bản nhưng đó chỉ là câu chuyện “đười ươi giữ ống” mà thôi”. Theo họ, việc tháo gỡ “vòng kim cô” lãi suất cơ bản hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân hàng Nhà nước. Bởi, nếu cơ quan này thiết kế được một mức lãi suất cơ bản phản ánh đúng giá vốn thị trường, hình thành trên cơ sở các quan hệ kinh tế là ổn.

Có vẻ như “quả bóng” về lãi suất cơ bản đang thực sự ở trong chân của Ngân hàng Nhà nước. Một vụ trưởng của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, muốn lãi suất cơ bản chính xác, khách quan và phù hợp với thị trường thì phải đi từ thị trường. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước cần lấy tham chiếu lãi suất ở nhiều nhóm ngân hàng thương mại khác nhau, sau đó thực hiện phép toán “bình quân gia quyền” để công bố một mức lãi suất cơ bản. Còn ông Phạm Quốc Thanh, Phó tống giám đốc ABBank cho rằng, việc lấy “bình quân gia quyền” qua “rổ lãi suất” của nhiều ngân hàng thương mại để định ra lãi suất cơ bản cũng có mặt tích cực nhưng việc làm này lại có mặt hạn chế là “từ thị trường rồi quay về định hướng cho thị trường”. Ông Thanh nêu ra một sáng kiến khác: một trong những loại lãi suất được các ngân hàng thương mại coi trọng là lãi suất đấu thầu trái phiếu Chính phủ, bởi chúng mang đậm dấu ấn của thị trường.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước có thể dựa vào lãi suất trái phiếu Chính phủ của nhiều kỳ hạn khác nhau (1, 3 hay 5 năm…) sau đó “chốt” lại một mức lãi suất để làm lãi suất chủ đạo. Và lãi suất cơ bản phải được xây dựng trên nền lãi suất chủ đạo này. Ở các nước có thị trường tài chính phát triển, lãi suất trái phiếu Chính phủ là một trong những lãi suất chủ đạo trên thị trường mà nhà quản lý căn cứ vào đó để điều hành chính sách tiền tệ. Dĩ nhiên, điều này sẽ tỏ ra hiệu quả khi mà thị trường thứ cấp phát triển và làm như vậy sẽ còn góp phần hướng thị trường trái phiếu thứ cấp phát triển hơn - điều mà Việt Nam cần hướng tới. Tuy nhiên, cũng có băn khoăn rằng, có những thời điểm thị trường trái phiếu Chính phủ “ế ẩm” thì Ngân hàng Nhà nước không có cơ sở tham chiếu. “Nếu như vậy thì có thể do giá trái phiếu Chính phủ quá cao, không phản ánh đúng giá thị trường và Chính phủ phải xem lại mức giá của mình đã phù hợp hay chưa”, ông Thanh nói.

Đồng tình với quan điểm này, bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cũng chia sẻ: “Nếu đưa ra một mức lãi suất cơ bản phù hợp, không chỉ tạo thuận lợi cho thị trường mà việc chống cho vay nặng lãi cũng không đáng ngại, bởi “dư địa” chống cho vay nặng lãi vẫn còn tới 150%”.