Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 7 năm 2010

01/07/2010
Trong buổi sáng ngày 01/7/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
  I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Giadinh.net có bài Nộp tiền sử dụng đất theo giá thị trường: Dễ tạo cơ chế “xin - cho”. Bài báo phản ánh:  Ngày 29/6, tại buổi tọa đàm “Tiền sử dụng đất thu theo giá thị trường” do Hiệp hội Bất động sản Việt Nam tổ chức tại Hà Nội đã đưa ra thông tin đáng chú ý là từ khi Nghị định 69/CP có hiệu thực thi hành, chưa có doanh nghiệp nào nộp tiền sử dụng đất.

Theo Nghị định 69/CP, nếu doanh nghiệp được giao đất không qua đấu giá, đấu thầu mà giá đất Nhà nước vào thời điểm giao đất chưa sát với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường thì UBND cấp tỉnh/thành phố sẽ định giá lại cho sát với giá thị trường. Nhà nước phải thuê tư vấn thẩm định giá và phải qua hội đồng xét duyệt. Số tiền sử dụng đất mà doanh nghiệp phải nộp là tiền sử dụng đất theo giá thị trường trừ đi số tiền doanh nghiệp bỏ ra bồi thường giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên các doanh nghiệp cho rằng, cách tính như vậy không hợp lý vì chưa tính đến chi phí đầu tư hạ tầng, lãi vay ngân hàng... Chưa kể, sau khi đầu tư hạ tầng cơ sở cho dự án, chính doanh nghiệp tạo “giá mới” cho đất dự án, nên khi lấy “giá mới” này để tính tiền sử dụng đất thì không hợp lý. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong buổi hội thảo cũng cho rằng, thủ tục xác định giá đất sát với giá thị trường rất phức tạp. Việc phải thuê các công ty thẩm định giá và phải qua Hội đồng xét duyệt sẽ dễ tạo cơ chế “xin – cho”.

Từ những vướng mắc trên các doanh nghiệp kiến nghị: Tiền sử dụng đất cần phải quy định một mức đóng góp cụ thể mà ai cũng có thể tính toán được trước khi quyết định đầu tư. Các chuyên gia trong lĩnh vực có mặt tại hội thảo cũng cho rằng, việc thu tiền sử dụng đất theo quy định mới sẽ rất khó khăn với điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Những bất cập mà các doanh nghiệp phản ánh không phải là không có cơ sở. Thực tế, những tranh chấp trong việc nộp tiền sử dụng đất, nhất là ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra trong thời gian qua cũng một phần do những bất cập này. Vì vậy thời gian tới có thể các Bộ, ngành liên quan cần có những nghiên cứu để điều chỉnh quy định cho phù hợp hơn. Đại diện các Bộ Tài nguyên - Môi trường, Tài chính, Xây dựng... cũng tỏ ý đồng tình với phân tích và đề xuất của các chuyên gia, doanh nghiệp.

2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Để nước ngoài thấy một Việt Nam mới. Bài báo phản ánh: Bán hình ảnh Việt Nam trong các phòng họp ở nước ngoài rất khó. Phải mang các nhà đầu tư đến Việt Nam để họ có cái nhìn khác về Việt Nam”. Đây là một thực tế được rất nhiều chuyên gia cũng như nhà đầu tư nước ngoài đưa ra tại thảo luận bàn tròn về việc xây dựng thương hiệu quốc gia (THQG) Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu và phát triển giáo dục Trí Việt và Công ty Sài Gòn Truyền thông tổ chức tại TPHCM ngày 30-6.

Ông Nguyễn Thành Nam, Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT chia sẻ, trong hơn 10 năm quyết định toàn cầu hóa, đưa hoạt động kinh doanh ra nước ngoài, FPT đã thuyết phục đối tác bằng cách để họ yêu đất nước Việt Nam trước rồi mới tiến tới làm việc sau. Và du lịch là một trong những chìa khóa mang lại thành công này. Và vị khách là giám đốc của một công ty ở Nhật Bản, trên hành trình tham quan từ Hà Nội – Quảng Ninh, đã dừng lại rất nhiều lần trên đường chỉ để nhìn ngắm cánh đồng lúa, hình ảnh con trâu, con bò. Sau chuyến đi, FPT đã có được hợp đồng quan trọng với công ty này, đồng thời vị giám đốc trên đã quyết định sang Việt Nam sống và làm việc.

Bà Morvarid Kaykha, chuyên gia cao cấp của Design Bridge (Singapore) chia sẻ, khi gõ từ khóa Việt Nam trên trang mạng Google, các trang đầu tiên đều nói đến đề tài chiến tranh. Nếu có những thông tin cập nhật thì cũng gắn với những hình ảnh bất lợi như thiên tai, lũ lụt, lao động rẻ, giá trị thấp… Đó là một bất lợi lớn khi thuyết phục các nhà đầu tư đến với Việt Nam. Đại diện Quỹ đầu tư Dynasty cho rằng, với thông tin “quá cũ” về Việt Nam như vậy trên các kênh thông tin quốc tế, sẽ rất khó thuyết phục nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam.

Thương hiệu quốc gia không thể tách rời hoạt động kinh tế - ông Phan Chánh Dưỡng, Giám đốc Quỹ Hỗ trợ cộng đồng Lawrence S.Ting khẳng định - thương hiệu không chỉ là sản phẩm mà còn là văn hóa, con người. Và chất lượng sẽ quyết định thương hiệu. Ví như hãng điện tử Apple trở thành một thương hiệu nổi tiếng không phải vì hình ảnh trái táo (bị cắn một miếng) mà vì chất lượng! Điều này nhận thấy rất rõ trong chiến lược phát triển sản phẩm hàng hóa của các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản. Các doanh nghiệp điện tử, xe hơi của 2 quốc gia này là nhân tố quan trọng xây dựng thành công THQG cho nước họ. Nhắc tới Hàn Quốc, Nhật Bản là nói đến đất nước của công nghệ cao.

Nhân tố về văn hóa, lịch sử, con người có nhiều điểm nhấn để có thể xây dựng thành THQG. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, một trong những điểm yếu nhất của người Việt hiện nay chính là việc “không hiểu được mình muốn gì”. Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc xây dựng và phát triển hình ảnh nhưng cách làm chưa hiệu quả, có nhiều cái đáng quảng bá nhưng không quảng bá. Doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển, vươn ra thế giới nhưng bị phân tán, không liên kết được để thể hiện được tinh thần dân tộc. Ẩm thực Việt Nam cũng đang nổi lên trở thành yếu tố quan trọng trong xây dựng THQG.

Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam đang có đủ yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để trở thành “Bếp ăn của thế giới”, như cha đẻ ngành marketing thế giới Philip Kotler gợi ý trong chuyến làm việc của ông tại Việt Nam năm 2007.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Hội đồng sáng lập dự án Đại học quốc tế Trí Việt, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển giáo dục Trí Việt, cho biết: “Qua nhiều năm làm việc trong các cơ quan nhà nước, có điều kiện tiếp xúc với nhiều bạn bè quốc tế, tôi nghĩ đây là thời điểm để Việt Nam xây dựng THQG cho mình. Và tất nhiên, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng THQG. Rõ ràng, trong suy nghĩ của các nhà đầu tư và bạn bè thế giới đang có một hình ảnh khác về Việt Nam. Những hình ảnh này ngược lại hoàn toàn khi họ đến và khám phá Việt Nam. Thay vì mang hàng triệu du khách đến Việt Nam để họ hiểu và biết rõ Việt Nam hơn thì chúng ta phải làm điều ngược lại. Chúng ta phải mang câu chuyện của Việt Nam ra thế giới. Đó là ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng THQG Việt Nam. Đây cũng là dịp để tách bạch sự ngộ nhận giữa THQG và thương hiệu của doanh nghiệp mà nhiều người đã nghĩ”.

3. Báo Vnmedia có bài Từ 1/7: Sim "rác" hết cơ hội tung hoành. Bài báo phản ánh: Sau đúng 45 ngày ban hành, Thông tư số 11/TT-BTTTT quy định về hoạt động khuyến mại đối với dịch vụ thông tin di động sẽ chính thức hiệu lực thực hiện vào ngày 1/7/2010. Thông tư 11 được cả cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Thông tin và Truyền thông cùng doanh nghiệp di động kỳ vọng sẽ chấm dứt việc cạnh tranh không lành mạnh bằng hình thức khuyến mại hiện nay.

Tuy nhiên, ngay trong chiều qua, 29/6, trong cuộc trao đổi với phóng viên, một thuê bao điện thoại 01692xxxxx7 vẫn còn chia sẻ, hiện anh có tới 3-4 chiếc SIM điện thoại mạng Viettel. Sử dụng chiếc điện thoại 2 SIM, 2 sóng, chỉ một chiếc SIM được vị khách hàng này dùng cố định, còn lại là một SIM khuyến mại, cứ xài hết tiền là chuyển sang SIM mới ngay. Theo anh, chỉ cần bỏ ra 60 ngàn đồng mua một chiếc SIM mới là trong tài khoản đã có sẵn tới 160 ngàn đồng. Có thể nói, đến thời điểm tháng 6 này, rất nhiều khách hàng của mạng Viettel vẫn có thể ung dung liên tục thay SIM điện thoại như thay áo vậy. Thực tế này rất cần doanh nghiệp phải xem lại chính sách của mình. Chạy đua theo phát triển thuê bao, nhưng thực chất, với chính sách quản lý lỏng lẻo như vậy, đây là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng SIM rác tràn lan trên thị trường. Tuy nhiên, ngay cả khi doanh nghiệp không có sự rà soát lại, quy định mới cũng không còn cho phép những ưu đãi quá mức kia được… lọt lưới nữa. Với việc Thông tư 11 quy định tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ thông tin di động được khuyến mại, giới chuyên môn nhìn nhận sẽ ảnh hưởng khá nhiều tới các chương trình mà doanh nghiệp đã và đang thực hiện.

Trước nay, đa số việc khuyến mại của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với SIM di động và bán giá dịch vụ thấp hơn giá bình thường. Nhưng khi Thông tư có hiệu lực, một môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, chi tiết, lượng hóa được để thực hiện được theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành sẽ được hình thành. Chiểu theo quy định, trong trường hợp các mạng di động bán SIM di động hoà mạng mới sẽ không còn được muốn tặng bao nhiêu tiền trong tài khoản thì tặng như trước đây nữa.

Chẳng hạn với một SIM điện thoại mới có giá bán 60 ngàn đồng, số tiền trong tài khoản của SIM đó tối đa chỉ có được là 85 ngàn đồng thay vì 160 ngàn, thậm chí là hơn thế nữa như trước kia. Không còn khuyến mại lớn, người dùng cũng phải cân nhắc hơn trong việc mua SIM mới hay mua thẻ nạp tiền điện thoại. Cùng với quy định mỗi cá nhân chỉ được sở hữu không quá 3 SIM di động/1 mạng di động đã được ban hành từ năm 2009, các quy định của thông tư 11 được kỳ vọng giúp cho SIM rác hết cơ hội tung hoành.

Khi Thông tư 11 có hiệu lực, với nhiều chính sách quản lý khuyến mại bị quản chặt lại, nhiều người lo ngại thị trường SIM thẻ sẽ mất đi sự sôi động trước đây, sức mua của người dùng di động sẽ giảm mạnh. Sẽ phải đắn đo để lựa chọn nên mua SIM mới hay mua thẻ để dùng tiếp SIM cũ, nhưng sự đắn đo này của người dùng hoàn toàn hợp lý chứ không thể cứ thích mua là mua, thích thay SIM là thay SIM như trước đây khiến tình trạng SIM ảo, SIM rác tràn lan không kiểm soát. Kho số viễn thông thì hữu hạn nên có nguy cơ sẽ cạn bất cứ lúc nào.

“Có thể ban đầu, cả doanh nghiệp và người dùng còn chưa kịp thích nghi với chính sách mới này, tuy nhiên, đây là một việc rất cần phải thực hiện áp dụng ở thời điểm hiện nay. Khi thị trường thông tin di động đã dần đi vào đúng quỹ đạo của nó, người dùng sẽ nhận ra những chính sách như thế này chính là đảm bảo quyền lợi của họ, được lựa chọn và dùng mạng di động không chỉ giá rẻ mà chất lượng đáp ứng tốt nhất” - một lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông bày tỏ quan điểm.

Cùng với thông tư 11, ngày 1/7/2010 cũng chính là thời điểm Luật Viễn thông của Việt Nam có hiệu lực. Với 10 chương, 63 điều, Luật có nhiều điều mới rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người tiêu dùng, trong đó có vấn đề giá cước.

Luật quy định có bốn nguyên tắc xác định giá cước viễn thông. Tựu chung lại, nhà nước khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả giảm giá thành cung cấp dịch vụ, giảm giá cước để nâng cao mức độ sử dụng dịch vụ của người dân. Điều này đồng nghĩa với việc người dùng viễn thông sẽ có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ viễn thông hơn hẳn trước đây, mức cước ngày càng giảm nên không phải lo lắng nhiều đến túi tiền của mình.

Và như vậy, sau 1/7, một bức tranh viễn thông di động đầy mầu sáng đang tin tưởng thay thế cho những mảng tối vẫn còn tồn tại đâu đó. Thị trường thông tin di động Việt Nam đã có tới 9 tấm giấy phép trong đó có 7 nhà mạng đang cung cấp dịch vụ cho gần 90 triệu dân chứng tỏ một sự cạnh tranh gay gắt tới mức nào.

Tuy nhiên, sự cạnh tranh đó không có chỗ cho những chiêu thức thiếu lành mạnh, giành giật khách hàng của nhau bằng mọi giá mà trên hết phải vì quyền lợi của người dùng, hướng tới dịch vụ giá rẻ, chất lượng cao.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Diễn đàn doanh nghiệp có bài Doanh nghiệp bị hành vì “làm văn mẫu”. Bài báo phản ánh: Hiện có nhiều quy định biến doanh nghiệp từ một tổ chức kinh tế trở thành một “cơ quan hành chính nhà nước”. Hơn thế, nhiều văn bản của doanh nghiệp lại trở thành… ngoài luồng.

 Nghị định số 110/2004/NĐ - CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ quy định về Công tác văn thư quy định áp dụng đối với mọi tổ chức kinh tế, trong đó có các công ty phi nhà nước, kể cả công ty 100% vốn của nước ngoài. Theo đó, một doanh nghiệp cũng phải thực hiện những thao tác không khác gì cơ quan nhà nước trong việc ban hành văn bản và chấp hành về thể thức của văn bản. Tiếp theo là Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản. Thể thức văn bản hành chính gồm nhiều thành phần, trong đó có quốc hiệu “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đã có Phòng Công chứng nhất định không chịu xác nhận hợp đồng thế chấp hàng hóa chỉ vì thiếu dòng quốc hiệu. Việc văn bản của các doanh nghiệp đều phải ghi quốc hiệu là điều không cần thiết. Đã từng xảy ra chuyện rắc rối khôi hài, khi một công ty nước ngoài phát văn bản “kiện” Nhà nước ta vì cho rằng tên “Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” ở trên, khác nào đó là công ty mẹ, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thay công ty con của mình. Đặc biệt, hợp đồng buôn bán ký giữa công ty Việt Nam với công ty có quốc tịch nước ngoài mà cũng cứ ghi quốc hiệu như trên thì lại càng không ổn. Chưa nói, để cho “công bằng” thì phải ghi quốc hiệu của cả hai nước. Như thế, xem ra hợp đồng giữa hai bên có dáng dấp của Hiệp định giữa hai quốc gia.

Thiết nghĩ, xin đừng bắt phải ghi quốc hiệu vào hợp đồng, văn bản giao dịch làm ăn giữa các công ty tư nhân với nhau, không “dính” đến Nhà nước. Thay vào đó, chỉ cần ghi các nội dung lô-gô, địa chỉ, điện thoại,… là hợp lý và hữu ích hơn nhiều.

Điều 4 Nghị định trên còn quy định rõ 4 hình thức văn bản hình thành trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức bao gồm: Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính, văn bản chuyên ngành và văn bản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Mọi văn bản của doanh nghiệp được xếp vào loại hình “văn bản hành chính”. Nghị định này liệt kê văn bản hành chính gồm 23 loại, trong khi đó những loại văn bản khác của doanh nghiệp “chiểu” theo đúng Nghị định về Công tác văn thư thì lại thành ra là văn bản ngoài “luồng”. Chẳng hạn như, Điều lệ, Nghị quyết của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp; Thỏa ước lao động tập thể theo quy định của Bộ luật Lao động rồi Cổ phiếu theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán không biết thuộc loại văn bản nào? Ngay cả giấy ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự cũng không thuộc văn bản hành chính? Rồi Dự án đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và Luật các Tổ chức tín dụng cũng không biết xếp vào loại văn bản nào?...

Một câu hỏi đặt ra, tại sao doanh nghiệp không được ban hành thẳng quy chế, quy định, quy trình, nội quy mà lại cứ phải thông qua quyết định? Thông tư 55 nói trên cũng “bắt” các công ty phải thực hiện “bắt đầu từ số 01 vào ngày đầu năm và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hàng năm”. Như vậy, mỗi năm Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng thành viên họp một lần, thì lúc nào cũng ghi biên bản số 01? Nếu doanh nghiệp ghi theo số thứ tự phiên họp diễn ra qua các năm thì liệu có trái pháp luật?

Điều 10 của Nghị định 110/2004/NĐ-CP còn phân biệt thẩm quyền ký văn bản trên cơ sở phân ra làm 2 loại cơ quan, tổ chức: Làm việc theo chế độ thủ trưởng và làm việc theo chế độ tập thể. Vậy doanh nghiệp phải theo loại tổ chức nào, khi mà Đại đội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên, HĐQT, Ban kiểm soát làm việc theo chế độ tập thể, còn Tổng giám đốc thì lại làm việc theo chế độ thủ trưởng? Nghị định cũng quy định “Cấp phó của người đứng đầu và các thành viên giữ chức vụ lãnh đạo khác được thay mặt tập thể, ký thay người đứng đầu cơ quan, tổ chức những văn bản theo ủy quyền của người đứng đầu và những văn bản thuộc các lĩnh vực được phân công phụ trách”. Điều này cũng không phù hợp với tính chất của Hội đồng thành viên và HĐQT, vì theo đúng Luật Doanh nghiệp thì chỉ có Chủ tịch và các thành viên, chứ không có chức danh Phó Chủ tịch hoặc các thành viên lãnh đạo khác. Chẳng hạn Điều 49 của Luật Doanh nghiệp quy định: “Trường hợp vắng mặt thì Chủ tịch Hội đồng thành viên ủy quyền bằng văn bản cho một thành viên thực hiện các quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty.” Cũng tương tự như vậy là Điều 111 của Luật Doanh nghiệp về việc ủy quyền của Chủ tịch HĐQT.

Nghị định còn quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể ủy quyền cho một cán bộ phụ trách dưới mình một cấp ký thừa ủy quyền một số văn bản mà mình phải ký. Việc giao ký thừa ủy quyền phải được quy định bằng văn bản và giới hạn trong một thời gian nhất định. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người khác ký.” Như vậy, Tổng giám đốc chỉ được ủy quyền cho Trưởng phòng, chứ không được phép ủy quyền cho cán bộ, nhân viên khác của doanh nghiệp ký hợp đồng. Điều này là trái với các quy định của Bộ luật Dân sự về việc ủy quyền và ủy quyền lại.

Đã từng có Phòng công chứng căn cứ vào quy định con dấu chỉ được đóng vào chữ ký của người có “chức sắc” ký văn bản, nên từ chối việc xác nhận hợp đồng của doanh nghiệp khi người ký chỉ là “lính” nghiệp vụ. Thứ nhất đây là sự từ chối trái luật. Thứ hai, kể cả có “vin” vào Nghị định trên cũng không đúng, vì về nguyên tắc chỉ cần con dấu đóng trong văn bản ủy quyền là đủ, chứ đâu có bắt buộc phải đóng thêm một con dấu nữa vào chính bản hợp đồng. Điều đáng nói, lâu nay rất nhiều doanh nghiệp chủ động vượt qua các “rào cản” luật pháp về văn bản, văn thư nói trên để văn bản của mình chuyên nghiệp hơn, hợp lý hơn, thực chất hơn. Sự vi phạm pháp luật một cách bất đắc dĩ, thực ra lại cần thiết và không gây ra hậu quả xấu, tai hại nào. Đó cũng chính là một trong những vấn đề về thủ tục hành chính cần cải cách để cởi trói cho doanh nghiệp. Đã đến lúc phải xây dựng Luật về công tác văn thư và Luật về con dấu để đừng buộc văn bản của doanh nghiệp, nhất là công ty tư nhân, phải đồng dạng với văn bản hành chính nhà nước.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Thừa phát lại ơi, lập vi bằng cho tui đi!”. Bài báo phản ánh: Sau một tháng được cấp giấy phép, chờ các thủ tục con dấu, mã thuế… và đi vào hoạt động chính thức, năm văn phòng thừa phát lại đầu tiên được thí điểm tại TP.HCM đã có nhiều khách hàng gõ cửa. Yêu cầu phổ biến nhất là việc lập vi bằng. Công chứng hợp đồng bán căn nhà tái định cư ở quận 2 cho người quen xong, ông Phan Nam mới chột dạ nhận ra ở một số dự án, ngoài tiền bồi thường hỗ trợ được nhận ban đầu, một thời gian sau người bị giải tỏa còn nhận được thêm một khoản tiền hỗ trợ nữa. Sợ mất khoản tiền đó vào tay bên mua, ông Nam giao kèo: Nếu có bất kỳ khoản hỗ trợ thêm nào thì ông phải được nhận. Bên mua đồng ý. Nhưng suy đi nghĩ lại, ông Nam vẫn thấy chưa yên tâm. Ông bèn thuyết phục bên mua nhà đến Văn phòng thừa phát lại quận 1 nhờ lập một cái vi bằng ghi nhận thỏa thuận giữa hai bên: Nếu sau này nhà nước có hỗ trợ gì thêm cho người tái định cư thì ông Nam là người được hưởng.

Không riêng ông Nam, nhiều khách hàng bắt đầu tiếp cận với hoạt động lập vi bằng của thừa phát lại. Có người công chứng hợp đồng mua nhà xong thì một mực kêu Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh đến ghi nhận chuyện giao nhận tiền với lời giải thích: “Tiền mua nhà lên đến hàng tỉ đồng, thôi mình cứ làm cái vi bằng cho chắc ăn!”. Cách đây vài hôm, Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh nhận được yêu cầu của ông NĐK (đường Võ Duy Ninh, phường 22, Bình Thạnh) và họ lập tức xuống ngay hiện trường. Hóa ra việc đập bỏ và xây dựng mới của nhà kế bên đã gây ra một vệt nứt dài trên tường nhà ông K. Khi nhận được tờ vi bằng ghi nhận có việc xây dựng của nhà hàng xóm, có vệt nứt trên nhà mình, ông K. gật gù: “Coi như tôi đã có bằng chứng. Mà nhanh thiệt, gọi thừa phát lại là được đáp ứng ngay, không phải chầu chực đợi chờ”.

Vì được lập theo yêu cầu của các đương sự nên các vi bằng có nội dung khá đa dạng. Trưởng Văn phòng thừa phát lại quận Tân Bình, ông Nguyễn Năng Quang, cho biết: “Trong nhiều trường hợp, người dân không thể yêu cầu công chứng, chứng thực mà chỉ có hình thức vi bằng mới có thể đáp ứng được yêu cầu ghi nhận sự thỏa thuận của đôi bên, biến nó thành bằng chứng trước tòa khi có tranh chấp xảy ra. Chẳng hạn chúng tôi vừa lập vi bằng về một trường hợp tự thỏa thuận tài sản sau khi ly hôn. Người vợ trả cho chồng 500 triệu đồng để được sở hữu căn nhà mà vợ chồng đã tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân”. Thừa phát lại Đỗ Phi Thường, Văn phòng thừa phát lại quận 1, cho biết có một số trường hợp mua bán nhà đất bằng giấy tay đã hẹn ông lập vi bằng về việc giao tiền, sau đó bên mua hoàn toàn chịu trách nhiệm về thủ tục hợp thức hóa căn nhà. Ông Thường nói: “Theo quy định, nhà đất phải có giấy tờ sở hữu thì mới có thể ra công chứng hợp đồng. Tuy nhiên, nhiều người không có giấy tờ hợp pháp nên đành phải mua bán bằng giấy tay và không có cơ quan nào chứng, để rồi khi một bên lật kèo thì bên kia ngã ngửa”. Ông Thường cho biết thừa phát lại không làm hợp đồng mua bán mà chỉ ghi nhận trực tiếp chứng kiến việc giao nhận tiền và ghi nhận thỏa thuận của các bên một cách chính xác, khách quan. Điều khiến người dân hài lòng là thừa phát lại làm việc nhanh, hiệu quả. Thừa phát lại Nguyễn Văn Thắng, Văn phòng thừa phát lại quận Bình Thạnh, cho biết để xác minh một căn nhà có thuộc sở hữu của bên phải thi hành án, ông đã trực tiếp đến UBND phường, quận để hỏi và lập biên bản vì chờ UBND trả lời bằng văn bản thì lâu hơn khiến khách hàng phải đợi.Nhiều thừa phát lại khi được người viết hỏi đã tin rằng trong tương lai, hoạt động lập vi bằng sẽ là thế mạnh của các văn phòng thừa phát lại do đây là lĩnh vực “độc quyền”, không cơ quan nào có thẩm quyền làm.

3. Báo An ninh thủ đô có bài Phối hợp tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Bài báo phản ánh: Sáng 29-6, dưới sự chủ trì của Thiếu tướng Trần Long Xuyên - Phó Giám đốc CATP Hà Nội, Chi hội trưởng Chi hội Luật gia CATP, Liên Chi hội Luật gia CATP - Viện Kiểm sát - Tòa án - Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư TP Hà Nội đã ký chương trình phối hợp hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và bảo vệ pháp luật trên địa bàn Hà Nội.

Tại lễ ký kết, Thiếu tướng Trần Long Xuyên nhấn mạnh hoạt động phối hợp giữa các Chi Hội Luật gia TP Hà Nội trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và bảo vệ pháp luật trên địa bàn thành phố là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Nằm trong các hoạt động phối hợp, Chi hội Luật gia CATP Hà Nội sẽ tổ chức cung cấp thông tin về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật liên quan đến ANTT; Hướng dẫn các luật gia về kỹ năng soạn thảo văn bản; công tác xử lý, xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến ANTT ở Thủ đô; Tạo điều kiện cho các luật gia của các chi hội tham gia bảo đảm ANTT; Thông tin hoạt động phối hợp giao lưu trên Báo An ninh Thủ đô và chương trình truyền hình “Vì An ninh Thủ đô”.

4. Báo Tuổi trẻ có bài Báo Pháp Luật TP.HCM đề nghị báo Đời Sống & Pháp Luật cải chính. Bài báo phản ánh: Ngày 30-6, báo Pháp Luật TP.HCM đã có công văn gửi tổng biên tập báo Đời Sống & Pháp Luật đề nghị cải chính và xin lỗi báo Pháp Luật TP.HCM, nhà báo Nguyễn Đức Hiển và công luận về những thông tin liên quan đến vụ nghi vấn tống tiền cảnh sát giao thông tại miền Trung.

Báo Pháp Luật TP.HCM cho rằng bài báo Sự thật vụ “nhà báo tống tiền cảnh sát”: vu khống đồng nghiệp để “bảo kê” - đớn đau “đạo đức nghề nghiệp” trên báo Đời Sống & Pháp Luật ngày 29-6 có đến năm nội dung xúc phạm nghiêm trọng không chỉ danh dự nhà báo Nguyễn Đức Hiển, phó tổng thư ký tòa soạn báo Pháp Luật TP.HCM, mà còn xúc phạm đến uy tín, danh dự của báo Pháp Luật TP.HCM.

Trong đó công văn của báo Pháp Luật TP.HCM viết: “Báo Đời Sống & Pháp Luật đã đăng bài viết trên với hình minh họa lớn ở hai trang là một tranh biếm họa mang tính nhục mạ là một nhà báo đứng sau dùng bút đâm vào lưng đồng nghiệp, túi quần giắt đầy phong bì. Đây là điều không thể chấp nhận được”.