Điểm tin báo chí sáng ngày 29 tháng 6 năm 2010

29/06/2010
Trong buổi sáng ngày 29/6/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân có bài Bế mạc Hội nghị cấp cao Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20). Bài báo phản ánh: Sáng 28-6 (giờ Hà Nội), Hội nghị cấp cao Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) đã bế mạc tại TP Tô-rôn-tô (Ca-na-đa) với việc thông qua Tuyên bố chung của các lãnh đạo G-20. Theo đó, các nhà lãnh đạo G-20 nhất trí cần thực hiện những bước tiếp theo nhằm  bảo đảm tăng trưởng kinh tế, khôi phục việc làm, cải cách và tăng cường các hệ thống tài chính và tạo sự tăng trưởng toàn cầu mạnh mẽ, bền vững và cân bằng.

Các nhà lãnh đạo G-20 cho rằng, mặc dù tăng trưởng đã trở lại, nhưng sự phục hồi diễn ra không đồng đều và không chắc chắn, tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều nước vẫn cao quá mức cho phép và tác động xã hội của cuộc khủng hoảng vẫn còn tồn tại nhiều nơi. Do đó, ưu tiên cao nhất hiện nay vẫn là tăng cường sự phục hồi của nền kinh tế và các nước cần hoàn tất những kế hoạch kích thích kinh tế hiện hữu, cùng với việc tạo điều kiện đẩy mạnh sức cầu tư nhân. Những diễn tiến gần đây đã nêu bật tầm quan trọng của hoạt động tài chính công bền vững, buộc các nước đưa ra kế hoạch thực hiện ổn định ngân sách một cách đáng tin cậy, theo từng giai đoạn hợp lý và có lợi cho tăng trưởng, có xét đến sự khác biệt và phải phù hợp  hoàn cảnh quốc gia... Việc hoàn tất những cải cách đối với các tổ chức tài chính quốc tế cũng là một nhu cầu cấp bách khác.

Tuyên bố của các lãnh đạo G-20 nêu rõ các giải pháp cụ thể trong việc thực hiện khuôn khổ tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững và cân bằng; cải cách các lĩnh vực tài chính; các tổ chức tài chính quốc tế và phát triển; chống chủ nghĩa bảo hộ và thúc đẩy thương mại và đầu tư; các vấn đề khác và chương trình nghị sự cho tương lai, trong đó ưu tiên cao nhất của G-20 là bảo vệ và tăng cường sự phục hồi, đặt nền móng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững và cân bằng, đồng thời củng cố các hệ thống tài chính chống lại rủi ro.

Trước đó, các nhà lãnh đạo G-20 và các khách mời gồm Việt Nam, Ma-la-uy, Ê-ti-ô-pi-a, Tây Ban Nha và Hà Lan, các tổ chức quốc tế gồm LHQ, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) đã họp phiên toàn thể về cải tổ các tổ chức tài chính quốc tế và hành chính. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trên cương vị Chủ tịch luân phiên Hiệp hội các quốc gia Ðông - Nam Á (ASEAN), đã dẫn đầu Ðoàn đại biểu tham dự hội nghị và nêu bật những quan điểm của ASEAN về kinh tế thế giới: triển vọng và thách thức, về chống chủ nghĩa bảo hộ và thúc đẩy thương mại, đầu tư, về cải cách tài chính quốc tế.

Phát biểu ý kiến tại phiên làm việc về kinh tế thế giới - triển vọng và thách thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao những nỗ lực của các nước thành viên G-20 trong việc đối phó khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu trong thời gian qua.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, trong thời gian qua, các nước ASEAN đã tương đối thành công trong việc khôi phục tăng trưởng kinh tế, qua đó góp phần thúc đẩy sự phục hồi của kinh tế khu vực châu Á nói riêng và kinh tế thế giới nói chung. Các nền kinh tế châu Á, trong đó có Trung Quốc, Ấn Ðộ, ASEAN, đã đóng góp tới 75% tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2009. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, tuy kinh tế thế giới đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức do sự phục hồi kinh tế diễn ra chưa đồng đều và rộng khắp. Những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa được giải quyết triệt để và không loại trừ khả năng sẽ làm bùng phát thêm những cuộc khủng hoảng ở cấp độ quốc gia và quốc tế, ở các nước phát triển cũng như đang phát triển. Vì vậy, các nước ASEAN cho rằng, các biện pháp chính sách của G-20 cần hướng tới mục tiêu bảo đảm kinh tế thế giới phục hồi bền vững và tăng trưởng cân bằng, đều khắp. Bên cạnh việc giải quyết những thách thức trước mắt, chúng ta cần tiếp tục quan tâm những vấn đề mang tính cốt lõi và dài hạn như xây dựng các mô hình phát triển kinh tế bền vững; giải quyết các vấn đề phát triển, bao gồm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nhóm nước; đối phó các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực và an ninh năng lượng...

Liên quan việc chống chủ nghĩa bảo hộ và thúc đẩy thương mại, đầu tư, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, Việt Nam và ASEAN quan ngại trước tiến triển chậm chạp của Vòng đàm phán Ðô-ha  và kêu gọi G-20 đi đầu trong các nỗ lực thúc đẩy hoàn tất Vòng đàm phán Ðô-ha trong thời gian sớm nhất. ASEAN hoan nghênh G-20 đã thể hiện thái độ mạnh mẽ phản đối mọi hình thức của chủ nghĩa bảo hộ thương mại và đầu tư, đặc biệt thỏa thuận kéo dài thêm ba năm cam kết không gia tăng hay áp đặt các rào cản mới đối với đầu tư và thương mại hàng hóa và dịch vụ.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh là nước phải chịu nhiều biện pháp bảo hộ trá hình của một số nước phát triển, Việt Nam kêu gọi G-20 tiếp tục có các biện pháp cụ thể xóa bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhiệm vụ đối phó  suy thoái kinh tế không phải là cơ sở cho phép các nước quay lại sử dụng các biện pháp bảo hộ thiển cận và ích kỷ. ASEAN ủng hộ mạnh mẽ việc G-20 đưa vào chương trình nghị sự các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, bao gồm thúc đẩy quan hệ giữa khu vực nhà nước và tư nhân, giảm chi phí giao dịch và xây dựng năng lực cho các nền kinh tế đang phát triển. Thủ tướng cho rằng, các nước ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực theo hướng mở tại Ðông Á với việc ký kết nhiều Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) quan trọng có mức độ tự do hóa cao. Các chương trình hợp tác và liên kết kinh tế trong khuôn khổ tiểu vùng Mê Công có sự tham gia của các nước ASEAN và các đối tác bên ngoài khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ,... cũng đang tiến triển tốt đẹp. Việt Nam cũng chủ động tham gia tiến trình thúc đẩy tự do hóa thương mại và liên kết kinh tế khu vực và liên khu vực. Vừa qua, Việt Nam đã tham gia đàm phán Ðối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó có hai nước thành viên G-20 là Ô-xtrây-li-a và Mỹ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề xuất ASEAN cùng với các khối, các tổ chức thương mại tự do và hợp tác kinh tế khác như Liên hiệp châu Âu (EU), Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh châu Phi (AU)... cùng G-20 soạn thảo và ra một Tuyên bố chung quyết tâm thúc đẩy Vòng đàm phán Ðô-ha kết thúc trong 12 tháng tới; khẳng định liên kết và tự do hóa thương mại khu vực và song phương chỉ bổ trợ chứ không làm ảnh hưởng đến quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu trong khuôn khổ WTO.

Thảo luận về phiên cải cách các thể chế tài chính quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam cũng như ASEAN hoan nghênh và đánh giá cao những sáng kiến và nỗ lực cải cách các thể chế tài chính quốc tế trong thời gian qua nhằm nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của các tổ chức này, đồng thời phản ánh được tiếng nói, vai trò của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi. Việt Nam và ASEAN cũng đánh giá cao việc tăng cường nguồn lực cho các ngân hàng phát triển khu vực, cho phép các tổ chức này tiếp tục hỗ trợ các nước đang phát triển về vốn, kinh nghiệm và các hỗ trợ kỹ thuật khác nhằm tạo sự chủ động trong ứng phó  những bất ổn của kinh tế vĩ mô trong khu vực.

Ðể tăng cường hơn nữa vai trò của các thể chế tài chính quốc tế trong nền kinh tế toàn cầu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị IMF, WB và các thể chế tài chính khu vực tăng cường hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Các thể chế tài chính quốc tế, đặc biệt là WB, cần ưu tiên các sáng kiến hỗ trợ đối phó  biến đổi khí hậu, tăng cường vai trò điều phối các nguồn tài chính để thực hiện ứng phó  biến đổi khí hậu. Với IMF, cần hoàn thiện các công cụ cho vay phù hợp  hoàn cảnh và điều kiện của các nước chậm và đang phát triển, đặc biệt trong việc ứng phó  tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Tăng cường các hoạt động hợp tác và tham vấn chính sách giữa các thể chế tài chính quốc tế với các tổ chức khu vực trong khi vẫn  bảo đảm nguyên tắc tự chủ trong điều hành kinh tế của các nước.

2. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài 20 năm khiếu nại chỉ vì “trên bảo dưới không nghe”. Bài báo phản ánh: đây là vụ tranh chấp về quyết định buộc thôi việc kéo dài với thời gian kỷ lục là 20 năm, vụ án đã khép lại sau sáu lần xét xử và 28 lần hòa giải ở các cấp tòa. Ngày 18-6-2010, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM đã tuyên hủy quyết định xử lý kỷ luật số 21/XN-ĐL ngày 5-12-1989 của Liên hiệp các xí nghiệp thủy sản xuất khẩu Bến Tre.

Theo trình bày của ông Lữ Thành Trung (ngụ phường 6, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre), sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia trở về, ông được chuyển ngành về Sở Thủy sản Bến Tre và được phân công làm cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm thủy sản trực thuộc Xí nghiệp liên hiệp thủy sản xuất khẩu (XNLHTSXK) Bến Tre do ông Trần Văn Cồn làm giám đốc. Sau khi xí nghiệp này giải thể, ông Trần Văn Cồn về làm Giám đốc Công ty đông lạnh thủy sản xuất khẩu (ĐLTSXK) Bến Tre, ông Trung vẫn làm cửa hàng trưởng. Đến năm 1989, ông Trung được ông Đoàn Văn Bền - Giám đốc Sở Thủy sản - chỉ đạo trực tiếp đổi mới hoạt động kinh doanh của ngành. Nội dung giao khoán ghi rõ: “Về nhân sự do cửa hàng tự chọn tám người nhưng thực tế công ty đưa xuống 13 người; hàng tháng cửa hàng phải nộp lợi nhuận 1,5 triệu đồng về cho công ty, nếu nộp chậm sẽ bị phạt 12%/tháng, công ty đứng ra ký hợp đồng còn cửa hàng chịu trách nhiệm về lãi, lỗ...”.

Mâu thuẫn xảy ra khi ông Trung phản đối việc công ty cho cửa hàng vay với lãi suất quá cao, trong khi ban giám đốc công ty lấy ngân sách của nhà nước kinh doanh chia nhau xài mà không tính lãi. Kể từ đó, ông Trung phải hứng chịu nhiều cay nghiệt. Ngày 18-8-1989, ông Trần Văn Cồn đề nghị thành lập đoàn thanh tra và sau đó có kết luận: “Nói chung các mặt về quản lý lao động, tài sản, vốn, lương, đời sống cán bộ đều đạt kết quả tốt; về hiệu quả hoạt động còn hạn chế, công ty cho cửa hàng vay lại quá cao 12%/tháng, cửa hàng còn nợ 10,6 triệu đồng và 5,47 tấn cá thu, cá bạc má cùng với 3 triệu đồng bỏ ra sửa chữa tàu”. Theo kế họach thì đến cuối tháng 9-1989 cửa hàng mới quyết toán báo cáo gửi về công ty và Sở Thủy sản. Thế nhưng, đoàn thanh tra đã đề xuất ra quyết định đình chỉ hoạt động kinh doanh của cửa hàng và đến ngày 19-9-1989 ông Trần Văn Cồn ký quyết định số 43 đình chỉ công tác đối với ông Trung, buộc phải thu hồi số nợ trên.

Sau gần ba tháng ông Trung bị đình chỉ công tác, ngày 5-12-1989 ông Trần Văn Cồn tiếp tục ký quyết định số 21 với nội dung: “Không có năng lực quản lý, mất phẩm chất đạo đức, gây thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, buộc thôi việc trả về địa phương, trợ cấp 500 đồng tiền tàu xe”. Đây là một quyết định hết sức trớ trêu. Điều 1 của quyết định này nêu rõ “Anh, chị Lữ Thành Trung làm việc ở xí nghiệp này từ tháng 2-1972”, trong khi ông Trung chính thức chuyển về xí nghiệp ngày 31-3-1989, mặt khác xí nghiệp này được thành lập sau năm 1975. Điều trớ trêu nữa là mãi đến ngày 24-6-1990 (tức sau sáu tháng 19 ngày) ông Trung mới nhận được quyết định kỷ luật trên, mục đích của việc chậm trễ này là nhằm ngăn chặn ông Trung khiếu nại và khởi kiện ra tòa.
Sau khi nhận được quyết định, ông Trung kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, tòa thụ lý hồ sơ và tiến hành hòa giải. Lần này, ông Trần Văn Cồn xin rút lại quyết định số 21 nhưng không phục hồi quyền lợi theo luật định mà ký thêm quyết định 02, ngày 4-1-1993 tiếp tục buộc thôi việc ông Trung, đồng thời không giải quyết chế độ chính sách. Ông Trung tiếp tục khiếu nại. Ngày 2-3-1994, ông Nguyễn Hòa - Giám đốc Sở Thủy sản Bến Tre - ký quyết định 138 hủy quyết định 02 và vẫn giữ quyết định số 21 đã ký trước đó năm năm. Ông Trung lại tiếp tục khiếu nại thì ngày 25-6-1998 ông Lương Lê Phương - Giám đốc Sở Thủy sản (thay ông Nguyễn Hòa) - ký quyết định số 15, sửa đổi quyết định 138 và hủy bỏ quyết định 21, chuyển hồ sơ về Công ty ĐLTSXK Bến Tre giải quyết. Thế nhưng, ngày 29-9-1998 ông Nguyễn Xuân Hùng - Giám đốc công ty (thay ông Trần Văn Cồn) - đã ký quyết định 80 tiếp tục kỷ luật buộc thôi việc ông Trung. Tiếp đó, ngày 19-8-2002 ông Đặng Kiết Tường lên làm giám đốc (thay ông Nguyễn Xuân Hùng) ký quyết định 125, hủy bỏ quyết định 80 của ông Hùng và tiếp tục thực hiện quyết định 21 trước đó.

Chỉ vì quyết định trái luật của ông Trần Văn Cồn mà ông Lữ Thành Trung phải mất 20 năm khiếu kiện. Vụ án tuy đã khép lại nhưng khi “ngẫm lại” đoạn trường 20 năm đi tìm công lý của ông Trung thì thật là khủng khiếp!

3. Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bà Rịa-Vũng Tàu chuẩn bị kiện Vedan. Bài báo phản ánh: Chiều 28-6, tại UBND huyện Tân Thành, lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cùng các ban, ngành chức năng của tỉnh đã họp để chuẩn bị khởi kiện Công ty Vedan ra tòa.

Vụ kiện nhằm đòi bồi thường thiệt hại cho hơn 1.250 nông dân của huyện Tân Thành do hành vi xả thải của công ty này trên sông Thị Vải.

Tại cuộc họp, tất cả ban, ngành đều đồng tình khởi kiện Vedan và thống nhất sẽ mời nhiều luật sư làm đại diện ủy quyền cho nông dân để thay mặt họ khởi kiện Vedan. Chậm nhất đến ngày 20-7, các thủ tục về ủy quyền, pháp lý sẽ làm xong để các luật sư chính thức thay mặt nông dân kiện Vedan.           

Trước đó, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã yêu cầu Vedan bồi thường hơn 53 tỉ đồng nhưng Vedan chỉ đồng ý mức hỗ trợ 10 tỉ đồng.

4. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Cấp bách tổng vệ sinh sông Tô Lịch và Kim Ngưu. Bài báo phản ánh:  Phó chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Vũ Hồng Khanh vừa chỉ đạo về việc cấp bách tổng vệ sinh, làm sạch, đẹp và xử lý ô nhiễm nước sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu cùng các hồ trên địa bàn Thành phố.

Theo đó, Thành phố giao Chủ tịch UBND các quận, huyện Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Thanh Xuân, Hoàng Mai, Thanh Trì chỉ đạo lực lượng thanh tra xây dựng kiểm tra việc xây dựng, sử dụng đất để kinh doanh, dịch vụ hai bên bờ sông của các tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn, xử lý ngay các vi phạm theo thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật. Chỉ đạo khảo sát, tính toán sơ bộ khối lượng phải thu gom, vận chuyển rác thải, phế thải, GPMB, báo cáo Sở Xây dựng.

Thành phố cũng giao Công ty TNHH Nhà nước một thành viên môi trường đô thị Hà Nội phối hợp với UBND các quận, huyện liên quan thực hiện việc khảo sát, tính toán trên toàn tuyến về khối lượng phải thu gom, vận chuyển rác thải, phế thải, khối lượng san lấp mặt bằng. Kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách Thành phố sẽ do Sở Xây dựng thẩm định và trình UBND Thành phố.

Thành phố cũng đề nghị Thành đoàn Hà Nội phát động phong trào đoàn viên, thanh thiếu niên, sinh viên Thủ đô gương mẫu, đi đầu và là lực lượng nòng cốt trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường nơi sinh sống, tập trung vào các khu vực sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu.

Những việc làm trên nhằm thực hiện vệ sinh môi trường, cải tạo cảnh quan, xử lý cấp bách ô nhiễm nước sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và xử lý ô nhiễm nước hồ nhằm giải quyết yêu cầu dân sinh bức xúc trên địa bàn Thành phố, chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Rao bán đất bằng giấy tờ giả. Bài báo phản ánh: Qua điều tra, ngày 26-6-2010, cơ quan CSĐT Công an thị xã Sơn Tây (Hà Nội) đã ra quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam Chu Hoàng Minh (SN 1956, trú số nhà 13, ngõ 1, Quang Trung, TX Sơn Tây), cán bộ địa chính phường Sơn Lộc (TX Sơn Tây) về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trên địa bàn Thuần Nghệ (TX Sơn Tây) dự kiến sẽ triển khai dự án xây dựng khu đô thị nên phải thu hồi đất của dân. Theo quy định, những hộ nào ở Thuần Nghệ bị thu hồi 30% đất nông nghiệp cho dự án sẽ được cấp một căn hộ trong khu đô thị tái định cư và còn được cấp 1 suất đất dịch vụ 50m2. Có 36 hộ ở Thuần Nghệ nằm trong diện này. Vốn là cán bộ địa chính phụ trách địa bàn Thuần Nghệ từ năm 1996 đến 2009, Minh mới được luân chuyển sang phường Sơn Lộc nên ông ta nắm khá rõ các hộ ấy. Từ đầu năm 2010 đến nay do liên tiếp thua cá độ bóng đá, không có tiền chi trả nên ông ta nảy sinh ý đồ phạm tội. Minh làm giả chữ ký của các hộ trong giấy ủy quyền cho ông ta nhận đất rồi mang lên UBND phường Quang Trung xin chứng thực. Với những tờ giấy ủy quyền giả mạo này, Minh mang rao bán mỗi suất đất từ 350 đến 400 triệu đồng. Trong khi đó, dự án cấp đất dịch vụ phục vụ cho việc thu hồi đất xây dựng khu đô thị Thuần Nghệ chưa được UBND TX Sơn Tây triển khai. Bước đầu xác định, từ tháng 1-2010 đến khi bị bắt, Minh đã lừa đảo bán được hơn 20 suất đất, thu gần 10 tỷ đồng.

2. Báo Người lao động online có bài Chậm xử lý, công nhân trắng tay. Bài báo phản ánh: Các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản đã được Công đoàn cảnh báo nhưng không nhận được sự hợp tác của các cơ quan chức năng

“Công ty đứng trước nguy cơ phá sản, trong khi phần lớn tài sản bị ngân hàng xiết nợ, quyền lợi của chúng tôi coi như mất trắng”. Đó là tiếng kêu cứu của tập thể công nhân (CN) Công ty TNHH Sản xuất - Thương mại Phú Quang (quận Thủ Đức - TPHCM) trong đơn gửi các cơ quan chức năng quận Thủ Đức - TPHCM mới đây.

Trước Tết Nguyên đán Canh Dần, Công ty TNHH Phú Quang chỉ thanh toán một phần lương tháng 1-2010, thưởng cho CN và hẹn sau Tết sẽ trả dứt điểm. Cam kết là vậy song công ty không thực hiện. Bức xúc trước thái độ chây ì của công ty, trong tháng 3-2010, CN đã nhiều lần ngừng việc, đề nghị công ty trả dứt quyền lợi. Làm việc với các cơ quan chức năng quận Thủ Đức, bà Nguyễn Thị Phước Dung, giám đốc công ty, xác nhận đã mất khả năng chi trả, sẽ làm thủ tục phá sản và hứa sẽ thanh toán dứt điểm tiền lương cho CN vào cuối tháng 3-2010. Thực tế, chẳng những không thanh toán tiền lương cho CN như đã hứa mà đến tháng 4-2010, bà Dung quyết định đóng cửa công ty trong sự ngỡ ngàng của tập thể CN và các cơ quan chức năng quận.

 Theo LĐLĐ quận Thủ Đức, hiện công ty còn nợ gần 300 triệu đồng tiền lương của CN, gần 400 triệu đồng trợ cấp thôi việc và nợ BHXH khoảng 500 triệu đồng. Mới đây, Cơ quan Thi hành án quận Thủ Đức đã bàn giao tài sản của công ty cho Ngân hàng TMCP Đông Á quản lý, xử lý theo các hợp đồng vay, thế chấp tài sản giữa bà Dung với ngân hàng. “Việc cơ quan thi hành án giao tài sản cho chủ nợ của doanh nghiệp (DN) đã đẩy CN vào thế mất trắng quyền lợi”- ông Nguyễn Văn Băng, Phó Chủ tịch LĐLĐ quận Thủ Đức, bức xúc.

Mới đây, khi hay tin toàn bộ tài sản DN bị phát mãi, nhiều CN Công ty TNHH Il Shin Cap VN (100% vốn Hàn Quốc, huyện Bình Chánh - TPHCM) đã bật khóc: “Từ hồi giám đốc bỏ trốn, chúng tôi liên tục đeo bám DN với hy vọng sẽ vớt vát chút đỉnh quyền lợi khi các cơ quan chức năng kê biên, thanh lý tài sản. Nay, tài sản DN bị phát mãi cho chủ nợ, coi như chúng tôi hết hy vọng”. Ngày 3-4, ông Lee Seong Ho, giám đốc công ty, đã bỏ trốn. Qua kiểm tra, các cơ quan chức năng huyện Bình Chánh phát hiện công ty còn nợ lương CN trên 100 triệu đồng, nợ thưởng Tết hơn 172 triệu đồng và nợ BHXH hơn 825 triệu đồng. Trong quá trình can thiệp bảo vệ quyền lợi CN, LĐLĐ huyện Bình Chánh còn phát hiện công ty nợ nhiều đối tác khác và bị Cơ quan Thi hành án huyện Bình Chánh kê biên tài sản để thi hành án. Đến nước này, LĐLĐ huyện Bình Chánh chỉ còn cách hỗ trợ CN chốt sổ BHXH.

 Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại Công ty Sin B (quận 12 - TPHCM). Khi giám đốc công ty này bỏ trốn, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, phát mãi toàn bộ tài sản hiện có của công ty để thanh toán nợ cho một công ty cho thuê tài chính. Những dự định khiếu nại quyền lợi của hàng trăm CN đành phải gác lại trong nỗi cay đắng.

 Xuyên suốt trong các vụ việc trên, không khó để nhận ra một thực tế: Nhiều DN trên bờ vực phá sản hoặc có chủ bỏ trốn đều là những DN có “bề dày thành tích” vi phạm pháp luật lao động. Đáng nói là sai phạm của những DN dạng này đều có tính hệ thống, đã được tổ chức CĐ cảnh báo, khuyến cáo song sự thờ ơ, chậm trễ trong xử lý của chính quyền và các cơ quan chức năng đã khiến hàng trăm CN mất trắng quyền lợi.

3. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài 1.001 nỗi khổ khi đi công chứng tại phường. Bài báo phản ánh: Từ khi cấp uỷ ban nhân dân phường có chức năng công chứng (chứng thực giấy tờ), có một số mặt còn biểu hiện tính quan liêu và lãng phí, điển hình tại một phường thuộc quận Tân Bình (TP.HCM).

 - Tại sao phường bắt buộc phải lưu một bản sao chứng thực của người dân, trong khi hầu hết là các bản chứng thực bình thường (sao y bản chính các văn bằng, hộ khẩu, CMND, giấy chủ quyền…) Đây là hình thức mà trước đây và hiện tại các phòng công chứng quy định theo vai trò công chứng thực sự của họ, còn trước kia, các phường đều không yêu cầu người dân phải photo thêm cho phường lưu giữ một bản.

Cá nhân tôi có hai lần xin chứng thực sao y sổ hộ khẩu và CMND cùng một tên người, nhưng mỗi lần cũng phải photo thêm một bản để phường lưu giữ. Kết quả là khối lượng giấy tờ lưu tại phường ngày càng nhiều và… vô dụng (vì hầu như không có vấn đề sưu tra các văn bản được chứng thực sao y do cơ quan nào đó liên hệ), chỉ hữu dụng cho các vựa ve chai sau một thời gian và cần thiết cho cái máy photocopy được phường mua sắm “phục vụ người dân” trong văn phòng của phường! Tôi đề nghị nên bãi bỏ thủ tục này, chỉ cần thiết đối với các phòng công chứng theo nội dung và tính chất văn bản, để tránh lãng phí giấy, đóng dấu thêm một bản vô dụng và tốn diện tích lưu trữ một cách vô tích sự trong cơ quan phường.

 - Tại sao phí chứng thực tăng cao, trong khi trước khi có bộ phận cải cách hành chính nào đó, phí chứng thực chỉ mang tính hình thức (500đ, rồi 1.000đ) nhưng sau đó tăng lên vô tội vạ (10.000đ/bản chứng thực). Chúng ta cần nghĩ rằng con số 10.000đ đối với nhiều người dân hiện nay vẫn còn là một con số lớn trong khi khối lượng công việc chứng thực tại phường không giảm bớt (tức là “không ế ẩm” để ảnh hưởng đến khoản thu cố định của phường).

Người dân dễ xác định rằng “chi phí công mà Nhà nước còn tăng thì chi phí, giá cả thị trường không tăng sao được!” Mặt khác, tôi mục kích hai thanh niên cầm hồ sơ gồm bản sao văn bằng xin “chứng thực sao y”, đơn xin việc và sơ yếu lý lịch xin xác nhận “thường trú tại địa phương” đã phải ngần ngại và tiếc tiền vì phường thẳng xét thu của họ theo hình thức như trên. Rõ ràng họ đang thất nghiệp và khả năng tài chính của họ không dễ dàng chấp nhận chi phí vô tâm như vậy! Loại phí này có cần mang tính giai cấp không đối với những người công nhân đang thất nghiệp?

 - Không phải chúng ta tốn chi phí chứng thực như thế để được phục vụ đúng luật, nhanh chóng và chính xác, chúng ta không thể không khó chịu khi lãnh đạo phường đi họp mà không uỷ quyền hoặc quy định cho cấp phó đại diện ký thay, khi phải “đầu giờ chiều trở lại”, khi nhân viên kém trình độ hành chính đòi hỏi trình CMND, rồi hộ khẩu, rồi phải chính đương sự có mặt để được… chứng thực sao y (trong khi việc chứng thực sao y có thể đến bất cứ uỷ ban phường nào thuận tiện cho thời giờ, đi lại và công việc của người dân), hoặc rị mọ xem xét, sắp xếp văn bản để trình ký, hoặc hạch sách dấu trên bản photo mờ quá mặc dù bản chính đã mờ sẵn… để phải đôi co qua lại với người dân một cách quá khích!

Từ hình thức trên, hầu hết cấp phường chưa ý thức rằng họ đang hưởng lương do người dân đóng thuế nuôi họ mà họ cho rằng có đặc quyền để thị uy, quan liêu và tạo thêm tâm lý nặng nề cho người dân khi phải đến cửa quan.

4. Báo Lao động có bài Chính quyền khai tử người khiếu nại. Bài báo phản ánh: Đó là trường hợp của ông Nguyễn Văn Thơm - SN 1924, tạm trú thị trấn Giá Rai, huyện Giá Rai. Dù ông vẫn còn sống cùng với con gái, nhưng các cấp chính quyền đã khai tử ông, lấy tài sản cấp cho người khác.

Ông Nguyễn Văn Thơm có hơn 8ha đất tại xã Tân Phong, huyện Giá Rai do chính mình khai phá từ năm 1945. Trong quá trình canh tác, ông có sang bán một số đất cho những người thân cận. Do hoàn cảnh gia đình, ông “đi bước nữa” với người vợ kế và có 7 mặt con. Hai đứa con với người vợ trước sống với mẹ ruột của ông tên là Nguyễn Văn Đấu và Nguyễn Trường Thụ.

Năm 1985, ông Thơm chia Thụ và Đấu mỗi người một cái nền (nói miệng). Năm 1995, Thụ bỏ nhà ra đi biệt xứ, ở nhà vợ của Thụ là Nguyễn Thị Hồng xác lập giấy CNQSDĐ cho mình. Điều khá lạ là trong tất cả các bản khai có chứng nhận của Trưởng ấp Khúc Tréo B, UBND xã Tân Phong, Phòng Địa chính (nay là Tài nguyên – Môi trường) huyện Giá Rai đều xác nhận đây là đất của ông Nguyễn Văn Thơm, năm 1993 chết để lại cho con trai là Nguyễn Trường Thụ, ông Thụ bỏ nhà ra đi để lại cho bà Nguyễn Thị Hồng.

Có được những thủ tục này, UBND huyện Giá Rai ra quyết định công nhận cho bà Nguyễn Thị Hồng sử dụng 1.368m2 đất tại tờ bản đồ số 03, thửa số 427 lý ra là của ông Thơm. Phát hiện chính quyền khai tử mình và cho con dâu đứng tên toàn bộ đất, ông Thơm làm đơn khiếu nại đến UBND xã Phong Tân và huyện Giá Rai.

Lúc này UBND huyện Giá Rai mới xác minh và phát hiện ra toàn bộ diện tích đất cấp cho bà Hồng đã cấp cho ông Nguyễn Trường Thụ vào ngày 20.6.1992. Lỡ cấp sai, UBND huyện mau mắn ban hành Quyết định 67/QĐ-CT, ngày 31.6.2006 thu hồi quyết định cấp đất cho bà Hồng. Khi ông Thơm khiếu nại quyết định cấp đất cho ông Thụ thì được UBND huyện trả lời bằng Quyết định 109/QĐ-UBND, ngày 2.1.2007 bác đơn khiếu nại của ông Thơm với lý do, việc cấp giấy CNQSDĐ cho ông Thụ là đúng theo trình tự thủ tục.

Tiếp xúc với PV Lao Động, ông Nguyễn Văn Thơm rưng rưng nước mắt: “Tôi còn sống đây, ai cũng biết, chưa có ai khai tử tôi hết, mà chính quyền xã Tân Phong, huyện Giá Rai cho rằng tôi đã chết, lấy đất cấp cho con dâu. Tôi thật tình không thể nào hiểu nổi”.

Ông Thơm càng khó hiểu hơn khi UBND tỉnh Bạc Liêu thành lập đoàn thanh tra do Phó Chánh thanh tra tỉnh làm trưởng đoàn xác minh vụ việc, lại cho rằng: UBND huyện Giá Rai cấp đúng, thừa nhận ông Thơm khai phá toàn bộ thửa đất nói trên, nhưng lại không xác lập quyền sử dụng đất cho ông.

 Từ kết quả xác minh này, thanh tra lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh ban hành quyết định “ba trong một”. Quyết định số 777/QĐ-UBND, ngày 17.4.2008 có đến 3 nội dung: Sửa một phần Quyết định số 109/QĐ-UBND, ngày 23.1.2007 của Chủ tịch UBND huyện Giá Rai; thu hồi giấy CNQSDĐ số 02885, ngày 20.6.1992 với diện tích 6.920m2, cấp theo Quyết định số 230/QĐ-UB, ngày 17.5.1992 cho ông Nguyễn Trường Thụ; công nhận cho ông Nguyễn Văn Thơm được sử dụng một phần đất tại thửa số 427, tờ bản đồ số 3, diện tích 216m2 (ngang 4m x dài 54m). Phần diện tích còn lại công nhận cho bà Nguyễn Thị Hồng (vợ ông Nguyễn Trường Thụ).

Như vậy, từ một người khai phá đất đai, ông Thơm trở thành người không đất đai, mà nguyên nhân chính là sự tắc trách của chính quyền. Trao đổi với chúng tôi về Quyết định 777/QĐ-UBND ngày 17.4.2008, một cán bộ lãnh đạo Sở Tư pháp Bạc Liêu cho rằng: Đây là quyết định trái thẩm quyền, vi phạm pháp luật và khó triển khai. Theo lời vị này thì đất đai đã có giấy CNQSDĐ, khi giải quyết, thẩm quyền thuộc về TAND và một quyết định giải quyết khiếu nại hành chính không thể có cùng lúc 3 nội dung như vậy.