I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia xây dựng xã hội học tập
Bài báo phản ánh: Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2011-2020. Ban Chỉ đạo có 22 thành viên do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân làm Trưởng ban.
03 Phó Trưởng ban gồm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo (Phó Trưởng Ban thường trực), Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam.
Các Ủy viên Ban Chỉ đạo gồm lãnh đạo một số Bộ, ngành liên quan.Ban Chỉ đạo có Tổ thư ký do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.
Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, cơ chế, chính sách và các giải pháp xây dựng xã hội học tập.
Ban Chỉ đạo cũng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành, các địa phương và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án về xây dựng xã hội học tập; kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, có nhiệm vụ bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban Chỉ đạo này.
Báo cũng có bài Chuyển PVN thành Công ty TNHH một thành viên
Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Nhà nước một thành viên.
Sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên, PVN kế thừa các quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và xử lý những vấn đề tồn tại và phát sinh của PVN trước khi chuyển đổi.
Quyết định này cũng quy dịnh, Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên của PVN cho đến khi Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm mới Chủ tịch và các thành viên Hội đồng thành viên của Tập đoàn này.
2. Diễn đàn doanh nghiệp có bài DN “mê” khai thuế qua mạng
Diễn đàn phản ánh: Mở rộng đối tượng, hoàn thiện quy trình kê khai thuế qua mạng là yêu cầu của nhiều DN đưa ra trong buổi đối thoại giữa Tổng cục Thuế với DN lớn được tổ chức vào ngày 18/6 tại Hà Nội.
Tại hội nghị, một số DN cho rằng, hiện nay Tổng cục Thuế đã có phần mềm hỗ trợ kê khai thuế nhưng phần mềm này lại không cập nhật kịp thời được các văn bản mới, chưa hướng dẫn chi tiết kê khai từng trường hợp. Bên cạnh đó, hiện nay, DN nộp tờ khai và nộp thuế tại hai nơi tách biệt, DN khó theo dõi được tình trạng nộp thuế của mình. Vì vậy, các đơn vị mong muốn Tổng cục Thuế xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tâp trung để DN có thể truy cập tin về tình hình trạng nộp thuế của DN.
Ông Vũ Xuân Cự - đại diện Tập đoàn Viettel cho biết, hiện nay năng suất lao động bình quân đầu người của Tập đoàn là 3 tỷ đồng/người/năm, tổng số lao động của Tập đoàn là rất lớn. Do vậy, việc áp dụng công nghệ thông tin trong vấn đề kê khai thuế là một đòi hỏi cấp thiết. Đơn vị mong muốn Tổng cục Thuế nhanh chóng hoàn thiện phần mềm quản lý kê khai thuế qua mạng, tạo điều kiện giải quyết vấn đề liên quan đến thủ tục thuế. Bà Đàm Thị Huyền - Phó Tổng giám đốc TCty xăng dầu VN lại đưa kiến nghị về việc hướng dẫn cụ thể về kê khai thuế thu nhập DN đối với lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Theo bà Huyền, hiện nay, Pertrolimex đều có Cty con ở 63 tỉnh, thành trên cả nước. Kết quả kinh doanh ở tỉnh, thành là khác nhau. Doanh thu ở địa phương có những địa bàn lãi nhưng có nơi lỗ. Vì vậy, nếu thực hiện kê khai theo thuế theo quy định hiện hành thì với DN kinh doanh đặc thù như của TCty còn tồn tại nhiều vướng mắc. Qua hội nghị, DN lớn cũng đề nghị Tổng cục Thuế mở rộng áp dụng việc kê khai thuế qua mạng đối với DN do đơn vị quản lý. Đây là những DN lớn có khả năng đảm bảo về CNTT.
Trước những kiến nghị của DN đưa ra, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn đã có phản hồi đến từng DN. Bên cạnh đó, thứ trưởng cũng đã thông báo về việc thành lập Vụ quản lý thuế DN lớn (Tổng cục Thuế). Theo đó, với nhiệm vụ chức năng được giao thì Vụ quản lý thuế DN sẽ giúp đỡ tập đoàn, công ty... tháo gỡ khó khăn về thủ tục, chính sách thuế.
Trong buổi đối thoại về các chính sách thuế - hải quan giữa Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) và DN Hàn Quốc diễn ra ngày 17/6 tại Hà Nội, các DN đã thẳng thắn trao đổi, kiến nghị về vướng mắc còn tồn tại. Đặc biệt, số đông DN tham gia đều vướng mắc về thuế thu nhập DN (TNDN).
Quan tâm đến vấn đề ưu đãi thuế TNDN, đại diện của nhiều DN Hàn Quốc đã quan tâm đến việc đơn vị có được hưởng ưu đãi về thuế TN DN không nếu việc cấp giấy chứng nhận đầu tư trước thời điểm 1/1/2009 quyết định giao đất sau thời điểm 1/1/2009. Trong khi đó, theo quy định thì việc ưu đãi thuế TNDN chỉ được thực hiện trước thời điểm 1/1/2009 đối với những trường hợp có đầy đủ giấy chứng nhận đầu tư và quyết định giao đất, sau ngày 1/1/2009, DN không được hưởng ưu đãi này nữa. Tại hội nghị, nhiều DN còn đặt câu hỏi liên quan đến việc miễn thuế nhập khẩu cho DN. Vấn đề gia hạn bảo lãnh ngân hàng khi nhập khẩu thiết bị với mục đích sử dụng tạm thời cũng được các DN đề cập. Bên cạnh đó, một số DN còn kiến nghị về việc chênh lệch giữa thuế nhập khẩu nguyên chiếc và thuế nhập khẩu linh kiện. Việc chậm trễ trong vấn đề trao giấy chứng nhận xuất xứ sản phẩm cho loại xe chở tiền của DN được nhiều đại biểu quan tâm.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn đã trả lời, riêng vướng mắc về ưu đãi thuế DN nêu trên sẽ trực tiếp làm việc với các đơn vị liên quan để làm rõ thời điểm cấp giấy chứng nhận đầu tư và quyền sử dụng đất, tránh để DN chịu thiệt thòi. Vấn đề chậm trễ trong việc trao giấy chứng nhận xuất xứ sản phẩm cho loại xe chở tiền của DN cũng được giải thích cặn kẽ. Đó là do các đơn vị liên quan phải thống nhất việc xác định tiêu chuẩn nhà nước giữa xe chở tiền và xe du lịch. Hai loại xe này có mức thuế chênh nhau gần 3 lần. Tuy nhiên, hiện nay, các DN đã có thể mang hàng về tự bảo quản nhằm giảm chi phí lưu kho, lưu bãi.
3. Diễn đàn Doanh nghiệp có bài “Thay tên đổi họ” có mạnh lên ?
Bài báo phản ánh: Từ 1/7/2010, Luật DNNN sẽ hết hiệu lực, toàn bộ các DNNN hiện tại sẽ phải chuyển đổi hình thức để hoạt động phù hợp với quy định của Luật DN. Chỉ còn vẻn vẹn chưa đầy một tuần nhưng số DN phải “đổi tên” vẫn còn nhiều thắc mắc.
Được biết, ngày 19/3/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2010/NĐ-CP "về việc chuyển đổi các DNNN thành Cty TNHH một thành viên và việc tổ chức, quản lý Cty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu" (NĐ25) thay Nghị định số 95/2006/NĐ - CP (NĐ 95). NĐ 25 có hiệu lực thi hành từ 5/5/2010. Từ ngày đó tới 1/7/2010 chỉ vẻn vẹn 55 ngày theo lịch. Trong thời gian đó, sẽ phải chuyển đổi hơn 1.500 DNNN thành Cty TNHH một thành viên, tức là mỗi ngày phải hoàn thành thủ tục chuyển đổi cho ít nhất 27 DN !
Không dừng lại ở hơn 1.500 DN "nợ chuyển đổi", NĐ 25 còn mở rộng diện chuyển đổi sang các lĩnh vực khác. So với NĐ 95, đối tượng chuyển đổi theo NĐ 25 bao gồm cả "Cty nông nghiệp, Cty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh". Như vậy, số lượng các DN thuộc diện phải chuyển đổi tăng lên đáng kể.
Về điều kiện được chuyển đổi, NĐ 25 cũng thay đổi theo hướng mở rộng hơn nữa đối tượng chuyển đổi. Theo Nghị định 95, một trong những điều kiện quan trọng để được chuyển đổi là "Có mức vốn điều lệ không thấp hơn 30 tỷ đồng đối với Cty nhà nước độc lập hoặc đơn vị hạch toán phụ thuộc của TCty, của Cty mẹ và 500 tỷ đồng đối với Cty mẹ". Điều kiện nêu trên đã được xoá bỏ trong NĐ 25 và do đó, những DN thuộc diện phải chuyển đổi lại tăng lên hơn nữa. Việc chuyển đổi theo NĐ 25, với một khối lượng công việc khá đồ sộ, là rất nặng nề. Song, suy cho cùng, những việc phải làm để chuyển đổi chỉ là các thủ tục hành chính. Vì vậy, các cơ quan quản lý, các DN có liên quan vẫn có thể "hoàn thành kế hoạch" và sau 1/7, phần lớn DNNN sẽ được "thay tên, đổi họ". Câu hỏi quan trọng hơn và cần phải giải đáp là: liệu các DNNN có mạnh lên hơn sau khi "thay tên, đổi họ"? Câu trả lời là: chưa thể ! Bởi lẽ, "Cty TNHH" chỉ là hình thức bề ngoài. Bản chất của những DN này vẫn là DNNN với những cơ chế, phương thức quản lý như cũ.
Mục tiêu của việc chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNNN là huy động vốn từ các thành phần kinh tế; thay đổi phương thức quản trị DN; đổi mới công nghệ... nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN - những tế bào quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự "thay tên, đổi họ" cho các DNNN như nêu trên sẽ không thể đáp ứng được mục tiêu đã nêu. Hơn nữa, về nguyên tắc, các DNNN thuộc diện cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, sau khi đã chuyển thành Cty TNHH một thành viên phải tiếp tục thực hiện việc cổ phần hoá. NĐ 25 quy định: "DN quy định tại khoản 3 điều này (DN thuộc diện cổ phần hoá) sau khi chuyển thành Cty TNHH một thành viên phải tiếp tục chuyển thành Cty cổ phần theo lộ trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt". Điều đó có nghĩa là, đối với những DN thuộc diện cổ phần hoá, việc chuyển thành Cty TNHH một thành viên chỉ là một bước "quá độ", với cam kết đã ký khi gia nhập WTO.
Việc cổ phần hoá các DNNN đã triển khai từ năm 1993 đến nay và chưa năm nào chúng ta hoàn thành kế hoạch theo "lộ trình quy định". Điều đó có rất nhiều nguyên nhân từ nhận thức tư tưởng đến hành lang pháp lý và chuyên môn, nghiệp vụ. Những nguyên nhân đã được chỉ ra trong nhiều cuộc họp, hội nghị, hội thảo và báo cáo tổng kết của cơ quan quản lý, cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa. Song, khi các thủ tục để "thay tên, đổi họ" các DNNN để "thực thi" cam kết khi gia nhập WTO, chắc chắn sẽ xuất hiện tâm lý yên tâm và coi các Cty TNHH một thành viên là điểm dừng trong quá trình cải cách nền kinh tế. Từ đó, rất có thể, tốc độ cổ phần hoá các Cty TNHH một thành viên lại rơi vào tình trạng "rùa bò" như những năm trước đây và không có cá nhân hoặc cơ quan nào chịu trách nhiệm.
Cần phải khẳng định rằng, mục tiêu trong cải cách các DNNN của chúng ta không phải là tạo ra những chiếc "bình mới" mà bên trong vẫn là chất "rượu cũ". Vì vậy, không thể "kê cao gối ngủ" sau khi đã "thay tên, đổi họ" cho các DNNN. Có những việc cần được giải quyết ngay như sau:
Chuyển đổi hình thức sở hữu, nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các DN là yêu cầu quan trọng và cấp bách nhất ở nước ta từ nhiều năm qua. Những năm trước đây, mặc dù có "mốc giới" là 1/7/2010 nhưng việc chuyển đổi hình thức sở hữu của các DNNN vẫn không đạt yêu cầu. Vì vậy, sau khi đã trở thành Cty TNHH một thành viên và về hình thức là đã thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật DN thì lực cản trong việc chuyển đổi sẽ nhiều hơn. Nếu không chỉ đạo quyết liệt, việc cổ phần hoá các Cty TNHH một thành viên sẽ không thể về đích đúng hạn. Từ đó, nền kinh tế VN sẽ khó có thể được thừa nhận là nền kinh tế thị trường theo lô trình đã cam kết khi gia nhập WTO.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới có bài Hàng loạt sai phạm, ai chịu trách nhiệm?
Bài báo phản ánh: Là một cơ sở y tế điều trị những người bị bệnh tâm thần, trong đó có cả phạm nhân phải điều trị bắt buộc, nhưng Viện Giám định Pháp y tâm thần Trung ương (GĐPYTTTƯ) lại đề ra các quy định về điều trị hết sức lỏng lẻo, dẫn đến một số sai phạm trong thực hiện. Tuy nhiên kết luận giải quyết đơn khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền lại không chỉ rõ trách nhiệm của lãnh đạo viện, gây bức xúc trong CBCNV…
Viện GĐPYTTTƯ được thành lập trên cơ sở tách ra từ Bệnh viện Tâm thần TƯ 1 (thuộc Bộ Y tế) có trụ sở tại xã Hòa Bình, huyện Thường Tín (Hà Nội). Trong số các bệnh nhân điều trị tại viện, có nhiều người là phạm nhân phải điều trị bắt buộc theo quyết định của các cơ quan tố tụng, song việc quản lý số đối tượng này lại không được thực hiện theo quy trình chuẩn. Ông Dương Văn Lương, cán bộ của viện khẳng định: Viện đã lợi dụng quy định của Bộ luật Hình sự là "thời gian điều trị bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù" cộng thêm với một số quy định tự đặt ra nên đã cho bệnh nhân nghỉ phép vô tội vạ. Có người sau khi đi phép đã không quay trở lại hoặc tự ý nghỉ thêm. Nhiều trường hợp đáng tiếc đã xảy ra như bệnh nhân Nguyễn Đình Hiệp (Thanh Oai, Hà Nội) trong thời gian đi phép (được về nhà) năm 2009 đã tự sát; đối tượng Dư Kim Dũng (ở số 95, gác 2, Hàng Kênh, quận Lê Chân, TP Hải Phòng) đã phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, thậm chí còn ra nước ngoài trong thời gian đi phép (đầu năm 2008)…
Lý giải về việc này, ông Phạm Đức Thịnh, Viện trưởng Viện GĐPYTTTƯ cho biết: Theo hướng dẫn của Thông tư liên bộ số 03 ngày 24-9-1997 và các quy định của viện, việc quản lý, điều trị người chữa bệnh bắt buộc thực hiện như đối với những người bệnh tâm thần khác nên bệnh nhân cũng được đi phép để tái thích ứng, hòa nhập xã hội. Mỗi đợt đi phép, bệnh nhân được nghỉ 15 ngày, nếu vào dịp tết thì viện "linh động" cho nghỉ thêm 5 ngày. Trong thực tế cũng có trường hợp đi phép quá hạn, nhưng viện đều có thông báo đến gia đình; khi nghỉ phép, người nhà bệnh nhân phải viết cam đoan, chịu mọi trách nhiệm về bệnh nhân nên viện không chịu trách nhiệm bởi viện chỉ là cơ sở chữa bệnh. Ông Thịnh cũng từ chối không cung cấp số liệu bệnh nhân đang đi phép và số người hiện đi phép quá hạn với lý do "phóng viên đến không báo trước nên không chuẩn bị (?)".
Trong khi đó, theo kết luận xác minh của Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1, chỉ trong 1 tuần, từ ngày 14-3 đến 20-3-2009, viện đã cho 25/72 bệnh nhân đi phép, trong số đó có đến 16 bệnh nhân diện bắt buộc chữa bệnh. Điều lạ là những bệnh nhân trong thời gian đi phép vẫn phải trả tiền giường 30.000đồng/ngày (ở khu điều trị tự nguyện) và điều này được hợp pháp hóa bằng Văn bản số 03 ngày 28-4-2008, quy định hoạt động của Ban Đời sống do viện tự soạn thảo? Một vấn đề nữa được ông Lương đặt ra là chuyện bớt suất ăn của người bệnh: Tiêu chuẩn ăn của bệnh nhân 10.000 đồng/ngày nhưng qua kiểm tra của Thanh tra Bộ Y tế (tháng 8-2009), có ngày mỗi bệnh nhân chỉ được ăn hơn 6.000 đồng? Ông Phạm Đức Thịnh giải thích là "ngày ăn nhiều bù ngày ăn thấp" chứ không phải cố tình?
Những nội dung này, ông Lương đã viết trong đơn tố cáo gửi lên cấp trên, đã được nhiều cấp có thẩm quyền kiểm tra, xem xét trả lời. Tuy nhiên, theo ông Lương, mặc dù trong kết luận giải quyết đơn, thư của các cơ quan chức năng đã khẳng định: "Quy chế làm việc và một số quy định khác như quy định đi phép của bệnh nhân, quy định thu tiền giường của bệnh nhân nghỉ phép, định lượng thực đơn cho người bệnh... chưa được xây dựng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của viện" nhưng lại không chỉ rõ trách nhiệm cụ thể của những cá nhân liên quan, khiến ông chưa "tâm phục khẩu phục".
Như thế, việc khiếu nại ở Viện GĐPYTTTƯ vẫn chưa được giải quyết thấu đáo. Đề nghị Bộ Y tế, Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1 sớm kiểm tra lại nội dung đã giải quyết và có kết luận cuối cùng, vừa để chấm dứt khiếu nại kéo dài, vừa nhằm chấn chỉnh, thắt chặt hơn nữa hoạt động quản lý, điều trị các đối tượng chữa bệnh bắt buộc tại đây.
2. Báo Pháp luật và xã hội có bài Quá một tháng, nạn nhân chưa được giám định thương tích
Bài báo phản ánh: Sau khi bị ông Hậu “nhắc nhở” nặng lời vì đâm vào đuôi xe của hai anh em ông, hung thủ đã chặn đầu để “ra tay” một cách hung bạo, khiến hai anh em ông Hậu phải nằm viện bởi những nhát chém chí tử.
Theo đơn kêu cứu của ông Trần Văn Liệu gửi Ban Giám đốc CA tỉnh Thái Bình ngày 19-5: 14g ngày 16-5, ông Trần Văn Liệu (43 tuổi), cùng người em họ là Trần Văn Hậu (42 tuổi), ở thôn Luật Trung, xã Quang Lịch, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, trên đường từ TP Thái Bình về nhà bằng xe máy, đến cầu Kiến Xương bị một người đàn ông, chở một phụ nữ, đi cùng chiều va quệt vào phần đuôi xe, cả hai bên đều không có thiệt hại gì. Nhưng ông Hậu đã quay lại “nhắc nhở” bằng một thái độ bực bội.
Khi đi thêm được khoảng 7km, về gần tới cầu Kìm, chiếc xe ga chở người phụ nữ kia, biển số xe đã được bịt kín bằng một túi nilon đen, vượt lên trước đón đầu xe ông. Ngay lúc đó, ông Hậu nhảy xuống nhặt một đoạn tre luồng cạnh đường để phòng thân, nhưng khi ông Liệu chưa kịp dựng xe, lập tức người đàn ông kia cầm một con dao phay dài lao tới, chém tới tấp vào người ông Liệu, khiến ông bị đứt hai ngón của bàn tay trái và đuôi bả vai.
Ông Liệu hoảng sợ chạy đi kêu cứu. Hung thủ tiếp tục quay lại “xả” vào ông Hậu. “Nó nhằm trúng đầu tôi để chém, sợ quá tôi đưa tay lên đỡ, bị trúng nhát chém lả cánh tay phải, tôi không thể chống cự được nữa, nó tiếp tục vung dao chém vào đầu làm chiếc mũ cối tôi đang đội trên đầu vỡ tung, máu từ đầu tôi chảy xuống, may lúc đó con dao sát khí bị tuột nắm, nên tôi mới thoát chết”.
Thực hiện hành vi côn đồ xong, hung thủ nhảy lên xe ga cùng người phụ nữ định chạy thoát, rất may người dân đến xem đông đã chặn lại được, nhưng chỉ giữ được người phụ nữ ngồi sau, còn hung thủ đã nhanh chóng tẩu thoát. “Người phụ nữ được xác định là Nguyễn Thị Đoàn (36 tuổi), trú tại tổ 19, Trần Hưng Đạo, TP Thái Bình, một mực khai là đi xe ôm, không quen biết gì hung thủ” - đồng chí Lê Văn Tiến, đội CSĐT tội phạm về trật tự xã hội CA TP Thái Bình cho biết.
Hai anh em ông Hậu được kịp thời đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Việt - Bun (TP Thái Bình). Họ đã may mắn thoát chết nhưng vẫn không nguôi trăn trở, bởi hung thủ còn nằm ngoài vòng pháp luật. Việc bà Nguyễn Thị Đoàn lại được xem là không liên quan gì đến hung thủ, trong khi “người phụ nữ này vẫn ngồi trên xe hung thủ khi anh ta có hành vi bọc kín biển số xe, và dừng lại để chặn đầu xe khác. Hơn thế, khi hung thủ đã gây án và bỏ chạy, người phụ nữ này còn nhảy lên xe chạy cùng hung thủ?” – ông Tốt, xã Vũ Lạc, huyện Kiến Xương, người có mặt tại hiện trường vụ án kể lại.
Không những thế, như đã nói ở trên, ngày 19-5, ông Liệu đã nộp đơn gửi Tổng cục Cảnh sát, Ban Giám đốc CA tỉnh Thái Bình xin được đi giám định thương tích theo đúng trình tự pháp luật. Nhưng sau sáu ngày nằm tại Bệnh viện Việt Bun, 2 ngày chuyển về bệnh viện tuyến huyện, đến nay đã được ra viện về nhà mà hai anh em ông Hậu vẫn chưa được giám định thương tích.
Mặc dù 15 mũi khâu ở lưng và tay trái ông Liệu, 14 mũi khâu ở đầu và tay phải ông Hậu vẫn không thôi làm cho nạn nhân đau buốt, “Hai ngón tay ông ấy đã được nối lại gân, nhưng đến nay đã hơn một tháng mà vẫn chưa cử động được, sau này không biết hai ngón tay đó có khỏi được không nhưng chắc chắn sẽ không làm được những công việc nặng như trước – Bà Tô Thị Lanh, vợ ông Liệu ngậm ngùi.
Về nguyên nhân chưa giám định thương tật cho hai nạn nhân trên, ông Lê Văn Tiến trả lời “Khi nào nạn nhân đi lại bình thường đến đây thì chúng tôi mới làm giám định thương tật cho họ”, trong khi gia đình hai nạn nhân cho biết chưa nhận được thông báo gì từ phía CA?
Báo cũng có bài Cán bộ pháp chế phải có trình độ cử nhân luật!
Bài báo phản ánh: Sáng 21-6, Sở Tư pháp Hà Nội đã tổ chức sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định 122/2004/NĐ-CP về công tác pháp chế tại các sở, ngành.
Theo thống kê, hiện số cán bộ làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP Hà Nội là 64 người, nhưng cán bộ chuyên trách chỉ 14 người, chiếm 22%. Trong 64 người này, chỉ có 10 người tốt nghiệp Đại học Luật. Hà Nội cũng mới chỉ có 3/21 sở, ngành có phòng pháp chế độc lập là Sở Nội vụ, Sở Xây dựng và Văn phòng UBND TP.
Các con số trên cho thấy công tác pháp chế sở, ngành hiện còn khá nhiều bất cập, mà theo như ông Đỗ Minh Sơn – Trưởng phòng Văn bản pháp quy là “rất ít vấn đề để nói”. Trong khi đó, thực tế sáu năm qua đã chứng minh, đơn vị nào công tác pháp chế tốt, thì lãnh đạo làm việc rất “nhàn”.
Ông Nguyễn Văn Vỹ - Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội cho rằng: Để công tác pháp chế tại các sở, ngành hoạt động hiệu quả, phải sửa đổi Nghị định 122 bởi nghị định này đã quá lạc hậu. Các sở, ngành trước tiên phải được phân bổ biên chế để hình thành Phòng pháp chế. Bên cạnh đó, phải quy định trình độ cử nhân luật là điều kiện bắt buộc và nâng cao chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này…
3. Báo pháp luật có bài Nuôi con... ảo
Bài báo phản ánh: Để được mua thêm nền đất tái định cư, hai vợ chồng bàn nhau ly dị giả và nuôi con... ảo. Nhưng hậu quả người trong cuộc phải gánh chịu lại không lường...
Năm 1994, ông Phạm Duy Hương (SN 1957, ngụ phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước) kết hôn với bà Nguyễn Thị Phượng (SN 1958). Trong thời gian sống với nhau, hai người không có con. Đến năm 2004, tỉnh Bình Phước có chủ trương mở rộng đường Trần Hưng Đạo nên thu hồi đất dân để làm đường, trong đó gia đình ông Hương có hai căn nhà nằm ở góc đường Trần Hưng Đạo – Nguyễn Bình bị giải tỏa.
Ông Phạm Duy Hương kể: Nghe một số người mách bảo, trong gia đình có nhiều nhân khẩu, khi bị giải tỏa sẽ được Nhà nước bán thêm một suất đất tái định cư, vợ chồng ông Hương bàn nhau... ly dị giả để được ưu tiên mua thêm nền đất. Để “chắc ăn”, họ quyết định làm giấy khai sinh cho một đứa con... không có thật mang tên Phạm Thị Bích Thảo, sinh ngày 15-5-2001.
Sau đó, ông Hương ra UBND phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài làm giấy khai sinh cho con “ảo”. Theo quy định, khi đăng ký làm giấy khai sinh, bắt buộc phải có giấy chứng sinh. Trường hợp không có giấy chứng sinh (sinh con trong vùng hẻo lánh, sinh tại nhà...) phải có hai người làm chứng. Ông Hương làm đơn, ghi tên hai nhân chứng là Lê Thị Tuyết Hoa và Nguyễn Thị Huyền rồi... tự ký luôn tên của họ. Do quen biết, cán bộ Tư pháp UBND phường Tân Phú không đi xác minh, đã cấp cho vợ chồng ông Hương bản sao giấy khai sinh mang tên Phạm Thị Bích Thảo, được đánh số 56, quyển số 2, ngày 14-11-2003.
Có giấy khai sinh của con “ảo”, ngày 22-11-2004, vợ chồng ông Hương làm đơn gửi TAND thị xã Đồng Xoài xin ly hôn. Nhận thấy các thủ tục pháp lý đầy đủ, ngày 29-11-2004, TAND thị xã Đồng Xoài ra biên bản thuận tình ly hôn cho ông Hương và vợ. Đến ngày 16-12-2004, TAND thị xã Đồng Xoài ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn phân chia tài sản, quyền nuôi con. Theo quyết định này, phần tài sản do vợ chồng ông Hương tự thỏa thuận giải quyết; “con gái” giao bà Phượng nuôi, mỗi tháng ông Hương phải chu cấp cho “con” 1 triệu đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 1-12-2004 đến khi “con” đủ 18 tuổi.
Sau khi có quyết định ly hôn không bao lâu, bà Phượng đi bước nữa với một người đàn ông khác, bán hết số tài sản được chia với ông Hương rồi đi nơi khác sinh sống. Ông Hương cũng đi bước nữa. Cuối năm 2009, do tuổi cao trong khi bản thân là thương binh nặng, ông Hương quyết định bán bớt đất của mình để lấy tiền xây phòng trọ cho thuê. Khi biết được sự việc, bà Phượng làm đơn gửi Cơ quan Thi hành án thị xã Đồng Xoài để nhờ đơn vị này buộc ông Hương thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 1 triệu đồng/tháng cho “con gái” tên Phạm Thị Bích Thảo (tính từ khi TAND ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực là 4 năm, với số tiền 48 triệu đồng).
Ông Hương đương nhiên không đồng ý chu cấp cho đứa con không hề tồn tại thật trên đời. Khổ nỗi, việc nuôi con “ảo” chỉ ông và bà Phượng là rõ nhất, còn Thi hành án thị xã Đồng Xoài chỉ làm theo quyết định, bản án của tòa, buộc lòng họ phải ra văn bản đề nghị các cơ quan chức năng không cho ông Hương chuyển nhượng hay cầm cố đất cho ai.
Đất đã bán nhưng bị ngăn chặn, ông Hương gửi đơn lên TAND tỉnh Bình Phước xin hủy bỏ việc nuôi và cấp dưỡng cho đứa con “ảo”. Tuy nhiên, theo một thẩm phán, nếu TAND tỉnh kháng nghị giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm thì thời hiệu không còn vì đã quá 3 năm kể từ khi quyết định (bản án) có hiệu lực. Nếu kháng nghị theo trình tự tái thẩm là một năm kể từ ngày phát hiện chứng cứ mới (chứng cứ mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án) và chứng cứ đó (đứa con “ảo” – PV) đương sự phải hoàn toàn không biết. Nhưng ở đây, cả hai người đã bàn bạc ngay từ đầu và cố tình làm sai.
Hiện vụ việc đang được Phòng Giám đốc Kiểm tra thuộc TAND tỉnh Bình Phước thụ lý giải quyết theo đơn của ông Hương. Có điều, bao giờ vụ án đứa con “ảo” kết thúc thì... thật khó trả lời.