Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 7 năm 2009

01/07/2009
Trong buổi sáng ngày 01/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Bộ Giao thông Vận tải vừa ban hành thông tư hướng dẫn việc sử dụng xe thô sơ, xe gắn máy và các loại xe tương tự để vận chuyển hành khách, hàng hóa.
Theo đó, từ ngày 8-8, người hành nghề kinh doanh vận chuyển hành khách, hàng hóa bằng xe thô sơ, xe gắn máy, môtô hai bánh, môtô ba bánh và các loại xe tương tự phải có biển hiệu hoặc trang phục do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định để phân biệt với các đối tượng tham gia giao thông khác. Đồng thời, các lái xe ôm phải trang bị mũ bảo hiểm cho hành khách đi xe đối với các loại xe bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm.Cũng theo thông tư trên, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quy định cụ thể phạm vi, tuyến đường hoạt động, thời gian hoạt động đối với từng loại phương tiện để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
2. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Theo kế hoạch tổng thể triển khai hệ thống một cửa VN (VNSW), VNSW sẽ được thực hiện trước năm 2011 và năm 2012 sẽ kết nối với hệ thống một cửa ASEAN (ASW). Thông tin này được đưa ra tại hội thảo lấy ý kiến xây dựng kế hoạch tổng thể triển khai cơ chế một cửa quốc gia VN do Tổ chức Phát triển quốc tế Hoa Kỳ, Hải quan VN, Ban thư ký ASEAN tổ chức trong hai ngày 29 và 30-6.
Theo đó, hệ thống một cửa sẽ cho phép các bên liên quan đến hoạt động thương mại và vận tải khai thông tin và chứng từ dưới dạng chuẩn hóa và chỉ khai một lần tại một điểm duy nhất nhằm hoàn thành tất cả các yêu cầu của pháp luật liên quan tới xuất nhập khẩu và quá cảnh đối với hàng hóa, thiết bị và người... Theo cơ chế một cửa, các bộ ngành, doanh nghiệp thống nhất cùng sử dụng dữ liệu thông tin dưới dạng chuẩn hóa và cung cấp các yêu cầu về thuế quan, thủ tục, giấy phép có kết nối với bộ ngành liên quan.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 30-6, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, tính đến hết tháng 6-2009 đã có thêm 800.000 tấn gạo xuất khẩu được ký hợp đồng, đưa tổng số gạo đăng ký xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm tới nay lên hơn 5 triệu tấn. Trong đó, số gạo đã giao cho các khách hàng tính đến hết tháng 6 là hơn 3,46 triệu tấn, trị giá trên 1,47 tỷ USD. Như vậy, chỉ trong 6 tháng, mức gạo đăng ký xuất khẩu đã vượt định hướng đề ra cho cả năm (4,5 - 5 triệu tấn).
Theo nhận định của VFA, viễn cảnh xuất khẩu 6 triệu tấn gạo trong năm nay, mức cao nhất trong lịch sử xuất khẩu gạo là trong tầm tay. Và như vậy, đây sẽ là mức kỷ lục của Việt Nam về lượng gạo xuất khẩu trong vòng 20 năm qua (kể từ năm 1989).
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Chiều 30-6, tại trại tạm giam B34 (Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an), Cơ quan đại diện Bộ Tư pháp tại TPHCM đã thực hiện thủ tục tống đạt quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư đối với Lê Công Định (SN 1968, ngụ quận 7 TPHCM).
Với việc bị rút chứng chỉ hành nghề số 0626/TP/LS-CCHB do Bộ Tư pháp cấp ngày 11-4-2002, Lê Công Định không còn là luật sư, không được phép hành nghề luật sư. Trước đó, vào ngày 22-6, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư TPHCM cũng đã quyết định thi hành kỷ luật với hình thức xóa tên Lê Công Định khỏi danh sách luật sư của đoàn.
Vào ngày 19-6, Lê Công Định đã bị Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra quyết định khởi tố bị can, tạm giam 4 tháng về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự. Đồng thời, cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân của Định. Theo lời khai tại cơ quan điều tra, để thực hiện “giấc mơ” lật đổ chế độ, Định không chỉ tham gia các tổ chức phản động, tổ chức khủng bố mà còn lập ra cái gọi là “Đảng lao động VN” nhằm lôi kéo lực lượng tham gia lật đổ Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Hôm qua 30.6, Cơ quan đại diện Bộ Tư pháp tại TP.HCM tổ chức tổng kết công tác 6 tháng đầu năm 2009 và phương hướng 6 tháng cuối năm.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính trao quyết định bổ nhiệm PGS-TS Nguyễn Thái Phúc giữ chức Vụ trưởng - Trưởng cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại TP.HCM; ông Hoàng Kim Chiến thôi giữ chức Trưởng chi nhánh Cục Trợ giúp pháp lý tại TP.HCM nhận chức Phó vụ trưởng - Phó trưởng Cơ quan đại diện từ 1.7.
Dịp này, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính cho biết, từ hôm nay (1.7), Luật Thi hành án dân sự (THADS) 2008 bắt đầu có hiệu lực thi hành, thay thế Pháp lệnh THADS 2004. Tuy nhiên, qua thống kê có 62 văn bản pháp quy (luật, nghị định, thông tư) có các quy định chồng chéo với Luật THADS. Bộ Tư pháp đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định. Trong lúc các nghị định, thông tư hướng dẫn chưa được ban hành, ngay trong tuần này Bộ Tư pháp sẽ hướng dẫn các cơ quan THADS tạm thời áp dụng những văn bản nào trong công tác.
Báo cũng có bài “Luật ra mà chưa thể thi hành”. Bài báo phản ánh: Tình trạng Chính phủ "nợ" các văn bản dưới luật là một thực tế. Nhiều giải pháp cũng đã được đề ra.
Ví dụ như việc áp đặt thủ tục trình dự án luật cùng với dự thảo các văn bản hướng dẫn thi hành; việc tăng cường bộ máy phục vụ công tác soạn thảo các văn bản dưới luật; việc củng cố vụ pháp chế của các bộ... Tuy nhiên, các giải pháp nêu trên có vẻ như đã không giải quyết được vấn đề. Cụ thể là một số đạo luật có hiệu lực vào ngày hôm nay, 1.7.2009 này (Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi); Luật Bảo hiểm y tế; Luật Đa dạng sinh học; Luật Công nghệ cao; Luật Quốc tịch Việt Nam; Luật Thi hành án dân sự…), có thể vẫn chưa thi hành được, vì chưa kịp có các văn bản hướng dẫn dưới luật. Đâu là nguyên nhân của tình trạng nan giải này? Dưới đây xin được mạo muội nêu ra một vài nguyên nhân cơ bản:
Nguyên nhân trước tiên gắn liền với quan niệm của chúng ta về pháp luật. Chúng ta nặng về việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi thay vì để xác lập khuôn khổ của các quyền. Mà như vậy thì, chắc chắn phải hướng dẫn thi hành rất nhiều. Trong lúc đó, nhiều nước lại thiên về việc sử dụng pháp luật để xác lập khuôn khổ của các quyền thay vì để điều chỉnh hành vi. Người ta gọi một hệ thống pháp luật như vậy là hệ thống pháp luật dựa trên các quyền (right-based legal system). Nếu pháp luật đề ra khuôn khổ cho các quyền thì các đối tượng bị điều chỉnh mặc nhiên được hành xử trong khuôn khổ đó. Việc hướng dẫn thi hành là không cần thiết. Ai vi phạm các quyền thì sẽ phải đối mặt với tòa án.
Nguyên nhân thứ hai là vấn đề "luật khung". Nhiều ý kiến cho rằng do các đạo luật của ta chủ yếu là luật khung nên bắt buộc phải có nhiều văn bản hướng dẫn mới cụ thể hóa được. Thực ra, mọi chuyện không hoàn toàn như vậy. Các đạo luật thường được chia thành hai loại: luật khung và luật chi tiết. Luật khung quy định những khuôn khổ rất rộng cho các hành vi. Luật chi tiết áp đặt một hành lang rất nhỏ hẹp cho các hành vi. Không thể nói loại luật nào tốt hơn loại nào. Chúng ta bao giờ cũng phải kết hợp hài hòa giữa hai loại luật này và ban hành từng loại phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Vấn đề không phải ở luật khung mà ở sự tuyên bố chung chung về các nguyên tắc. Ví dụ, các quy định kiểu như "phải phù hợp với thuần phong, mỹ tục", "phải hài hòa lợi ích của cá nhân và cộng đồng"... là không rõ về chính sách và cũng không rõ về hành vi bị điều chỉnh, vì vậy hướng dẫn thi hành là rất khó. Ngoài ra, đằng sau các nguyên tắc chung chung có thể là chính sách nhạy cảm mà Quốc hội chưa nhất trí được. Mà như vậy thì Chính phủ sẽ rất khó hướng dẫn thi hành.
Nguyên nhân thứ ba là các vấn đề kỹ thuật của lập pháp. Một đạo luật có phần chính sách lập pháp và phần kỹ thuật lập pháp. Phần chính sách có thể được quyết định theo ý chí của các vị đại biểu Quốc hội, nhưng phần kỹ thuật thường tồn tại khách quan và phải được thiết kế với kiến thức và sự hiểu biết của các chuyên gia. Nếu sự sửa đổi liên quan đến chính sách không phải bao giờ cũng chấp nhận được về mặt chính trị, thì sự sửa đổi liên quan đến kỹ thuật không phải bao giờ cũng chấp nhận được về mặt chuyên môn. Những sửa đổi trong các dự luật về mặt kỹ thuật trong nhiều trường hợp có thể đẩy Chính phủ vào tình cảnh khó khăn khi triển khai thi hành.
Nguyên nhân thứ tư là sự ôm đồm của không ít các đạo luật. Nhiều đạo luật của chúng ta được thiết kế để xử lý quá nhiều vấn đề (mà các chuyên gia gọi là các đạo luật nhồi nhét). Qua mỗi lần trình xin ý kiến, những vấn đề mới lại được bổ sung. Kết quả, chúng ta thường có được các đạo luật điều chỉnh quá nhiều vấn đề. Mà như vậy thì hướng dẫn thực hiện sẽ mất rất nhiều thời gian công sức.
Để khắc phục hiện tượng nợ đọng các văn bản dưới luật, Chính phủ cần chỉ đạo sát sao hơn công việc này. Tuy nhiên, những nguyên nhân nói trên cũng cần được khắc phục.
Báo cũng phản ánh: Sau khi Thanh Niên bài viết phản ánh từ ngày 1.7, Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) có hiệu lực nhưng do chưa kịp ban hành nghị định mới nên cơ quan chức năng sẽ  áp dụng các chế tài theo Nghị định 146/2007 để xử phạt, nhiều phản hồi cho rằng, việc áp dụng nói trên là sai vì Nghị định 146/2007 được căn cứ theo Luật Giao thông đường bộ năm 2001 và sau ngày 1.7 thì luật này hết hiệu lực. Do vậy, không thể đem chế tài cũ để áp dụng cho luật mới.
Trao đổi với Báo Thanh Niên, tiến sĩ Lê Hồng Sơn - Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp cho biết: "Về  nguyên tắc, luật ban hành rồi và có hiệu lực thì nghị định cũ buộc phải được sửa đổi bổ sung, thay thế". Tuy nhiên, ông Sơn cũng cho rằng nghị định cũ vẫn có thế áp dụng nếu các chế tài phù hợp với luật mới. Ngược lại, nếu trái với luật mới thì không được áp dụng. Đồng tình với ý kiến này, ông Trần Đình Nhã, Phó chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho rằng nếu các chế tài áp dụng không đúng với Luật Giao thông đường bộ sẽ rất tai hại, trong đó không chỉ ảnh hưởng đến việc thực thi luật mà cơ quan áp dụng có thể bị kiện vì làm trái luật. Cũng theo ông Nhã, tình trạng luật có hiệu lực nhưng các văn bản dưới luật chưa kịp ban hành xảy ra  không chỉ có riêng đối với Bộ GT-VT. Và trách nhiệm ở đây thuộc về cơ quan chuẩn bị, cụ thể là Bộ GT-VT.
So với luật hiện hành, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 gồm 8 Chương với 89 điều, trong đó chỉ có 3 điều được giữ nguyên cả nội dung và kết cấu; có 68 điều bổ sung, sửa đổi và 18 điều mới. Trong việc sửa đổi, ngoài các hành vi vi phạm bị xử lý theo hướng tăng nặng hơn thì còn có một số điểm thay đổi hẳn. Do vậy, cơ quan chức năng cần cẩn trọng khi áp dụng chế tài nghị định cũ đối với luật mới.
Một thẩm phán của TAND tối cao tại TP.HCM cũng thừa nhận Luật bị thay thế thì nghị định và các văn bản dưới luật đương nhiên cũng bị bãi bỏ theo nguyên tắc văn bản con phụ thuộc vào văn bản có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, vào thời khắc giao thời khi luật mới được áp dụng mà các văn bản dưới luật vẫn chưa ra đời kịp thì vẫn áp dụng các văn bản dưới luật đó miễn không trái với luật mới. Những quy định của các văn bản dưới luật này nếu "nặng" hơn luật mới thì không thể áp dụng mà phải chờ. Trả lời câu hỏi: "liệu người dân có thể khởi kiện các cơ quan ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vì căn cứ vào nghị định đã hết hiệu lực?", vị thẩm phán này cho biết: "Rất khó".
3. Báo Tuổi trẻ có bài Thực hiện luật bảo hiểm y tế: Sẽ rối về nhóm đối tượng?. Bài báo phản ánh: Trong Luật bảo hiểm y tế (BHYT) phân thành 25 nhóm đối tượng, thì trong dự thảo thông tư liên tịch Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện luật này có 30 nhóm - thêm năm đối tượng như: công nhân cao su nghỉ việc, thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thân nhân học sinh cơ yếu, người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau, người hoạt động không chuyên trách xã, phường, thị trấn...
Thông tư cũng cụ thể hóa rất chi tiết một số nhóm đối tượng - như đối tượng 9 (người có công với cách mạng) - có đến 12 nhóm nhỏ: bà mẹ VN anh hùng, anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, thương binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học... Một cán bộ làm công tác BHYT cho biết: “Rất khó xác định đối tượng nhiễm chất độc hóa học vì chỉ có thể căn cứ vào con cái họ sinh ra bị dị tật. Trường hợp họ không có con thì làm sao?”.
Việc phân loại chi li để xác định ai thuộc nhóm đối tượng tự đóng BHYT hay Nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn phần, khi khám chữa bệnh được chi trả 100% hay phải đồng chi trả 5% hoặc 20%... khá rối rắm và có trường hợp để ngỏ. Như đối tượng 18 là người đã hiến bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác. Theo Luật BHYT, những người này được ngân sách nhà nước đóng BHYT, thông tư thì hướng dẫn: căn cứ vào giấy xác nhận đã hiến bộ phận cơ thể để cấp thẻ BHYT. Nhưng đối với người hiến xác thì sao?
Thông tư không nói rõ sẽ cấp thẻ BHYT ngay khi đăng ký hiến hay khi lấy xác, trong khi số lượng người đăng ký hiến xác hiện khá đông, chỉ riêng ĐH Y dược TP.HCM hiện tại có trên 12.000 hồ sơ đăng ký, số xác đã hiến là 326 xác. Người đó đăng ký hiến nhưng lúc chết thân nhân không cho lấy xác thì sao? Khi triển khai, các cơ quan, đơn vị còn phải xem lại trong cán bộ nhân viên của mình có ai thuộc nhóm đối tượng ưu tiên theo quy định mới hay không.
Cách đóng phí cho các đối tượng được Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT lại không đưa ra một nguyên tắc chung để làm căn cứ tính toán, mà thông tư hướng dẫn lại đưa ví dụ một hộ nông nghiệp có ba người có mức sống trung bình được Nhà nước hỗ trợ 30% mức đóng! Vậy nếu gia đình có năm, sáu hoặc chín người thì sao? Đã có thông tư hướng dẫn mà chưa sáng tỏ thì làm sao triển khai thực hiện?
Nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng trong khám chữa bệnh, trước đây BHYT từng áp dụng quy định bệnh nhân đồng chi trả 20%. Hậu quả là tăng việc cho bộ máy thu phí ở các bệnh viện và bệnh nhân vô cùng vất vả khi cùng chi trả. Sau một thời gian phải bỏ. Đến khi quỹ khám chữa bệnh BHYT tự nguyện thâm thủng nặng thì BHYT buộc đối tượng này phải đồng chi trả 20%. Nay Luật BHYT và thông tư chia làm ba nhóm: một số đối tượng được hưởng 100%, khám chữa bệnh tại tuyến xã hoặc chi phí cho một lần khám chữa bệnh dưới 100.000 đồng; một nhóm cùng chi trả 5% và các nhóm còn lại cùng chi trả 20%. Hiện nay ở nhiều bệnh viện lớn vốn quá tải, khu vực khám chữa bệnh BHYT chật hẹp, bệnh nhân phải đợi chờ trong ngột ngạt thì dự báo chuyện xếp hàng để đóng phí cùng chi trả 5%, 20% sẽ vô cùng nhiêu khê. Không chỉ bệnh nhân mất rất nhiều thời gian chờ đợi mà bộ máy thu chi của bệnh viện cũng vất vả.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 01/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm