Trong buổi sáng ngày 12/5/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử VnMedia có bài Kinh tế Việt Nam 2008: Bất ổn do bất cập từ chính sách quản lý vĩ mô. Bài báo phản ánh: Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu “Kinh tế Việt Nam 2008: Suy giảm và thách thức đổi mới” vừa diễn ra tại Hà Nội do Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) thuộc Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cùng phối hợp với Báo Sài Gòn tiếp thị tổ chức.
Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam của CEPR là chuỗi báo cáo được xuất bản hàng năm nhằm tổng kết những thành tựu và khó khăn, cơ hội và thách thức của nền kinh tế nước ta, đồng thời thảo luận có chọn lọc một số vấn đề kinh tế lớn ở mức chuyên sâu.
Báo cáo nhận định, suy giảm và bất ổn của kinh tế Việt Nam trong năm qua là do những bất cập của chính sách quản lý vĩ mô và những yếu kém về mặt cơ cấu của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới đã làm đẩy sâu thêm quá trình này. Những khó khăn cả trong nước lẫn ngoài nước, khiến thách thức đổi mới ở Việt Nam lớn hơn rất nhiều.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Sinh con thứ 3 tiếp tục tăng, mất cân bằng giới tính, bộ máy làm công tác dân số tuyến cơ sở y tế yếu. Đây là những vấn đề được đặt ra tại hội nghị giao ban trực tuyến giữa Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ Y tế, Tổng cục Dân số với lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố về công tác DS-KHHGĐ vào ngày 11- 5.Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu cho biết, thống kê đến hết quý I-2009, số trẻ được sinh ra trong toàn quốc tiếp tục tăng 0,1% so với cùng kỳ 2008, trong đó số trẻ là con thứ 3 chiếm 10%.
Theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Bá Thủy, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, việc số trẻ là con thứ 3 được sinh ra tiếp tục tăng là vấn đề rất đáng lo ngại, vì năm 2008 đã là năm có tỷ lệ sinh con thứ 3 cao nhất trong những năm gần đây. Do đó, rất có thể trong năm nay tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên sẽ vẫn tiếp tục tăng mạnh so với năm 2008.
Cùng với đó, tình trạng mất cân bằng giới tính vẫn tiếp diễn nghiêm trọng. Cho tới hết năm 2008, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam là 112 bé trai/100 bé gái và tỷ lệ này đang có chiều hướng nới rộng thêm. Một vấn đề nữa cũng được đề cập là hoạt động và sự ổn định bộ máy làm công tác quản lý dân số ở các địa phương.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ có bài Hết nhiệm kỳ hơn 3 năm vẫn làm trưởng thi hành án. Bài báo phản ánh: Đó là trường hợp ông Nguyễn Bá Hóa, hiện vẫn là trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam. Dù đã hết nhiệm kỳ được bổ nhiệm cách đây hơn ba năm nhưng ông Hóa vẫn tiếp tục “giữ ghế” và ký hàng trăm quyết định thi hành án.
Ông Nguyễn Bá Hóa được Bộ Tư pháp bổ nhiệm chức vụ trưởng Phòng thi hành án dân sự (nay gọi là trưởng Thi hành án dân sự) tỉnh Quảng Nam từ năm 1998-2005 (bảy năm). Theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, thủ trưởng và phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự được bổ nhiệm có thời hạn là năm năm. Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã giữ chức vụ từ năm năm trở lên phải được xem xét bổ nhiệm lại. Nếu không được bổ nhiệm lại thì không được làm nhiệm vụ cũ cho đến khi có quyết định mới của cấp có thẩm quyền. Đối với trường hợp ông Nguyễn Bá Hóa, kể từ năm 2005 đến nay bộ trưởng Bộ Tư pháp vẫn chưa có quyết định bổ nhiệm lại chức trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam. Ông Hóa bị Trường đại học Luật Hà Nội thu hồi bằng đại học luật (hệ tại chức) vì chưa có bằng tốt nghiệp cấp II.
Trả lời về vấn đề liên quan đến ông Hóa, ông Lê Đạo - giám đốc Sở Tư pháp Quảng Nam - nói: “Việc miễn nhiệm chức vụ trưởng thi hành án dân sự cấp tỉnh hoàn toàn không thuộc thẩm quyền của giám đốc Sở Tư pháp mà do Bộ Tư pháp quyết định”.
2. Báo Công an nhân dân có bài Cơ quan hành chính đẩy cái khó về doanh nghiệp, người dân. Bài báo phản ánh: Ở TP HCM hiện còn rất nhiều cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục đẩy trách nhiệm kiểm tra tính chính xác của bản chính các loại văn bản, giấy tờ… cho bộ phận sao y, chứng thực cấp phường, cấp quận hoặc Phòng công chứng; đẩy thêm một công đoạn buộc người dân phải làm theo những yêu cầu hết sức vô lý…
Cuối tháng 4/2009, chị Q.A. - nhân viên kế toán của một doanh nghiệp có chi nhánh ở TP HCM, (trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại Hà Nội, nên hạch toán thuế của chi nhánh phụ thuộc vào công ty mẹ) phàn nàn với chúng tôi: Sau một thời gian hoạt động, doanh nghiệp quyết định giải thể chi nhánh, cứ tưởng thủ tục đơn giản, ai ngờ phải chạy tới, chạy lui nhiều ngày, từ Chi cục Thuế quận 1 đến Sở Kế hoạch - Đầu tư để hỏi và cuối cùng vẫn bị kẹt lại ở thủ tục "Xác nhận không nợ thuế". Khi đến xin xác nhận không nợ thuế để bổ túc hồ sơ, chúng tôi có nộp kèm theo bản cam kết của giám đốc công ty mẹ với cơ quan thuế rằng "Mọi phát sinh về thuế của chi nhánh sau khi giải thể, công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm…". Thế nhưng cán bộ thuế vẫn không chấp nhận mà yêu cầu phải tìm lại văn bản do Hội đồng thành viên của công ty quyết định trước khi thành lập chi nhánh...
Một trường hợp khác, để xây căn nhà ở phường 17, quận Gò Vấp, bà Đ.T.M.T. ký hợp đồng thi công với một công ty xây dựng ở quận 1. Lúc hoàn công, các thủ tục từ UBND phường đến Phòng Quản lý đô thị quận đều được thực hiện đúng hẹn. Bộ hồ sơ hoàn công của bà T., nộp vào Chi cục Thuế quận Gò Vấp và khi nhận hồ sơ, cán bộ tiếp nhận kiểm tra xong cũng không có ý kiến gì. Đến hẹn, bà T. đến nhận giấy tờ thì được cán bộ thuế hướng dẫn "Phải có xác nhận của Chi cục Thuế quận 1 về tình trạng khai báo thuế, thực hiện nghĩa vụ thuế của đơn vị thi công căn nhà?!". Sau đó doanh nghiệp thi công căn nhà cho bà T., đã trích sao bản kê khai thuế, việc thực hiện nghĩa vụ thuế năm 2007 và 3 tháng đầu 2008 (trong đó có căn nhà của bà T.) nhưng Chi cục Thuế quận Gò Vấp vẫn không chấp nhận. Vì vậy, doanh nghiệp này buộc phải cử nhân viên đến Chi cục Thuế quận 1 xin "Bản xác nhận" hợp đồng thi công căn nhà cho bà T., có kê khai với Chi cục Thuế quận 1, khi ấy mới giải quyết.
Trước thông tin phản ánh của một số người dân tại phường 6, quận 3 về tình trạng bị gây khó khăn, thậm chí bị từ chối khi đi sao y văn bản giấy tờ tại UBND phường, cuối tháng 4 vừa qua, chúng tôi đã mang CMND của anh T. tới UBND phường 6 để sao y. Khi chúng tôi ngồi chờ tới lượt thì một cán bộ tiếp nhận hồ sơ đã lớn tuổi (không đeo bảng tên), cầm bản chính CMND của anh T., lên "soi" rất kỹ… bằng mắt thường, sau đó, bà cán bộ này "phán" một câu xanh rờn: Dấu chìm trên CMND bị mờ nên không được sao y! Phải đến khi chúng tôi thắc mắc rằng CMND này đã nhiều lần được chủ sở hữu sao y ở đây những năm qua và nhiệm vụ chính của UBND phường là "Sao đúng nguyên bản rồi lưu lại một bản. Về tính chính xác của giấy CMND này cũng như các loại giấy tờ, văn bản khác có dấu đỏ của cơ quan Nhà nước, người sử dụng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật…" thì bà cán bộ tiếp nhận hồ sơ mới chỉ chúng tôi vào gặp bà Phó Chủ tịch phường Hồ Thị Phi Phượng để "trình bày xem có được sao y hay không?!".
Bà Phượng sau khi nghe chúng tôi thắc mắc bèn gọi một nhân viên khác của Văn phòng UBND phường mang giấy CMND của anh T sang Công an phường để "hỏi xem CMND này có sao y được hay không?!". Một lát sau, đến lượt bà Phó Chủ tịch phường khẳng định rằng: "CMND này không thể sao y được". Để tiếp tục kiểm chứng, một ngày sau đó, chúng tôi đã mang giấy CMND này qua UBND phường Tân Định, quận 1 và được sao y bản chính một cách nhanh chóng mà không bị vặn vẹo hay hỏi han gì. Quay lại làm việc với bà Phó Chủ tịch UBND phường 6 với những bằng chứng "cán bộ phường gây khó khăn cho người dân" này, bà Phượng sau một hồi loay hoay lục tìm kiếm văn bản đã không thể đưa ra câu trả lời thuyết phục để biện minh cho việc từ chối sao y của mình ngày hôm trước!.
Cái gốc của sự nhiêu khê, rắc rối phát sinh đối với người dân nằm ở chỗ: Hầu hết các công đoạn bổ túc hồ sơ trong một thủ tục hành chính đều được dồn trách nhiệm cho người dân tự làm; các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền chỉ việc ngồi chờ nhận đủ hồ sơ, khi đó hồ sơ mới bắt đầu được tính thời gian giải quyết. Như vậy, người dân chưa thực sự được hưởng dịch vụ hành chính công đúng nghĩa bởi cơ quan, đơn vị hành chính Nhà nước hoạt động bằng ngân sách để phục vụ dân và người dân khi giải quyết thủ tục hành chính phải nộp phí, lệ phí… Đề nghị chính quyền và các sở, ngành, quận huyện của thành phố cần tiếp tục rà soát, kiên quyết loại bỏ những thủ tục, công đoạn không cần thiết, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc: Khẳng định vai trò quan trọng của luật sư. Bài báo phản ánh: Hôm qua (11-5), Đại hội đại biểu lần thứ nhất luật sư toàn quốc đã khai mạc tại Hà Nội với sự tham dự của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Viện trưởng VKSND tối cao Trần Quốc Vượng, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cùng lãnh đạo nhiều cơ quan, ban ngành trung ương.
Chào mừng đại hội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ôn lại lịch sử phát triển 64 năm nghề luật sư tại Việt Nam với truyền thống đoàn kết, yêu nước, phụng sự nhân dân của các thế hệ luật sư. Đó là những lớp luật sư - trí thức đầu tiên của nước Việt Nam mới như Phan Anh, Vũ Trọng Khánh, Trần Công Tường... quy tụ dưới ngọn cờ của lãnh tụ Hồ Chí Minh, nguyện tận tụy phấn đấu vì công lý, công bằng cho một đất nước tự do, dân chủ. Tiếp đó là thế hệ những luật sư dấn thân vào con đường gian khổ cứu dân, cứu nước như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo. Truyền thống vẻ vang đó được nối tiếp bởi lớp luật sư được đào tạo trong chế độ XHCN hay trưởng thành từ phong trào sinh viên “Dậy mà đi”, “Hát cho đồng bào tôi nghe”.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam ra đời vào lúc cả hệ thống chính trị đang triển khai công cuộc cải cách tư pháp, trong đó khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của luật sư trong mở rộng tranh tụng. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: “Thực tiễn cải cách tư pháp thời gian qua minh chứng rằng không thể có phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp nếu thiếu sự tham gia tranh tụng của các luật sư có năng lực, có trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp. Cải cách tư pháp không thành công nếu không có sự song hành cải cách tổ chức của các cơ quan tư pháp và đổi mới hoạt động của luật sư cùng các tổ chức bổ trợ tư pháp khác”.
Trình bày dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội, Chủ tịch Hội đồng lâm thời Lê Thúc Anh nhận định nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý trong xã hội đang gia tăng nhanh chóng nhưng đội ngũ luật sư cả nước lại thiếu về lượng, yếu về chất. Để khắc phục, liên đoàn dự kiến quy hoạch lại hệ thống luật sư cả nước theo hướng: Đối với các thành phố lớn vừa tạo điều kiện thông thoáng cho luật sư mới đăng ký, vừa quản lý chặt chất lượng tập sự. Ở những vùng sâu, khó khăn về nguồn bồi dưỡng thì vận động những người có đủ điều kiện, kinh nghiệm pháp lý đang sống tại địa phương tham gia hoạt động luật sư. Nâng cao trách nhiệm tự quản, các đoàn địa phương cần tăng cường kiểm tra, giám sát luật sư thành viên trong việc tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu.
Về phía liên đoàn, cùng với nhiệm vụ kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả, sẽ tập trung xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam thay thế cho quy chế hiện hành. Liên đoàn sẽ phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng và ban hành quy chế tập sự hành nghề; quy định mẫu trang phục luật sư tại tòa; phát hành mẫu thẻ luật sư và cấp, đổi, thu thẻ. Liên đoàn cũng sẽ tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp của đội ngũ luật sư cho các cơ quan đảng, nhà nước về hoàn thiện pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của giới luật sư. Đặc biệt, liên đoàn sẽ là một bên phối hợp với Bộ Tư pháp cùng các cơ quan tố tụng sớm ban hành văn bản liên tịch hướng dẫn hoạt động tham gia tố tụng của luật sư.
Hôm qua, hơn 320 đại biểu luật sư cả nước đã bầu Hội đồng luật sư toàn quốc - cơ quan thường trực của liên đoàn giữa hai kỳ đại hội. Cơ cấu Hội đồng luật sư toàn quốc là 93 vị, gồm 62 trưởng đoàn luật sư các tỉnh, thành (cả nước chỉ còn Lai Châu chưa lập đoàn) và 31 người do bầu cử. Chuẩn bị cho cuộc bầu cử này, Hội đồng lâm thời đã giới thiệu 31 vị; các đoàn luật sư, tổ đại biểu luật sư đề cử và tự ứng cử thêm chín người.
Cuộc bầu cử được tiến hành khách quan, dân chủ với sự giám sát của 24 vị trong ban kiểm phiếu do đại hội bầu. Kết quả là 27/31 ứng viên do Hội đồng lâm thời giới thiệu trúng cử, 4/9 ứng viên do các đoàn luật sư, tổ đại biểu đề cử và tự ứng cử trúng cử.
Tối qua, 93 ủy viên Hội đồng luật sư toàn quốc đã bầu ra 21 ủy viên Ban Thường vụ liên đoàn, đồng thời bầu ban lãnh đạo gồm Chủ tịch Liên đoàn Lê Thúc Anh (nguyên Phó Chánh án TAND tối cao, hiện là luật sư Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu). Bốn phó chủ tịch là các ông Nguyễn Văn Thảo (nguyên Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, hiện là luật sư Đoàn luật sư TP Hà Nội), ông Đỗ Ngọc Thịnh (nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức, Ban Tổ chức trung ương, hiện là luật sư thuộc Đoàn luật sư TP Hà Nội) và hai luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đoàn luật sư TP.HCM), Phạm Hồng Hải (Đoàn luật sư TP Hà Nội). Ban lãnh đạo cũng đã thống nhất phân công ông Thảo làm phó chủ tịch thường trực, ông Thịnh kiêm tổng thư ký.
Báo cũng có bài “Giám đốc thẩm khi đã thi hành án?”. Bài báo phản ánh: Năm 2005, ông L. khởi kiện người em gái tên Y. ra TAND tỉnh Tây Ninh để tranh chấp di sản thừa kế. Sinh thời, cha mẹ ông L. có tạm giao cho bà Y. một số diện tích đất tại xã Phước Đông, huyện Gò Dầu cho bà Y. canh tác. Sau đó, bà Y. đã được huyện cấp “giấy đỏ”. Do cha mẹ ông L. mất không để lại di chúc nên ông L. yêu cầu tòa phân chia đều số đất của cha mẹ để lại cho chín anh chị em. Theo bản án phúc thẩm năm 2006 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM, bà Y. không đưa ra được tài liệu chứng minh đã được cha mẹ cho hẳn phần đất bị tranh chấp. Do vậy, tòa này đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L.
Tháng 1-2008, vì vợ chồng bà Y. không tự nguyện thi hành án nên Thi hành án huyện Gò Dầu đã ra quyết định cưỡng chế buộc bà Y. giao đất cho ông L. và những người khác. Sau khi được giao đất, ông L. đã làm xong thủ tục cấp “giấy đỏ” và kế tiếp là bán phần đất của mình cho người khác. Người này cũng đã tiếp tục chuyển nhượng đất cho một người tiếp theo. Phía bà Y. cũng đã bán một phần đất của mình. Vụ việc tưởng vậy là xong nhưng vào ngày 3-4, khi chỉ còn một tuần nữa là hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm (ba năm kể từ ngày bản án có hiệu lực), Chánh án TAND tối cao đã ra quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên để Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm và xét xử sơ thẩm lại. Đồng thời, Chánh án TAND tối cao cũng đề nghị tạm đình chỉ thi hành bản án cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Theo luật sư Phạm Quang Hiệp (Đoàn luật sư TP.HCM), việc giám đốc thẩm trong trường hợp này là không cần thiết bởi bản án đã được thi hành trên thực tế và hai bên đương sự đều đã chuyển nhượng tài sản. Nếu xét xử lại mà có kết quả khác hơn, cơ quan thi hành án sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thi hành án vì về nguyên tắc, tài sản đã chia phải được thu hồi, khôi phục như hiện trạng ban đầu thì mới có thể thi hành án lại.
4. Trang web Đài tiếng nói Việt Nam có bài Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: Cần tạo dựng hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động của luật sư. Bài báo phản ánh: Việc chỉnh sửa Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đang thu hút sự quan tâm của dư luận, đặc biệt là giới luật sư.
Theo họ BLTTHS năm 2003 có nhiều điểm “vênh” với một số văn bản pháp luật khác mà tiêu biểu là Luật Luật sư. Luật Luật sư qui định luật sư chỉ cần xin cấp Giấy chứng nhận người bào chữa một lần và có thể sử dụng giấy này trong suốt quá trình tố tụng, từ lúc điều tra đến khi xét xử vụ án. Nhưng BLTTHS lại qui định “chung chung”, cũng là “có giá trị trong suốt quá trình tố tụng”, nhưng không cụ thể là từ khi khởi tố đến lúc xét xử. Mỗi địa phương áp dụng một kiểu, mà hầu hết là với mỗi giai đoạn tố tụng, luật sư lại phải xin cấp Giấy chứng nhận mới. Thậm chí, ngay cả thời hạn cấp hoặc trả lời từ chối không cấp Giấy chứng nhận này trong vòng “3 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị” cũng không phải lúc nào cũng được thực hiện. Có luật sư khi xin được Giấy chứng nhận người bào chữa cũng là lúc hồ sơ đã hoàn thành và được chuyển sang Viện kiểm sát.
Luật sư Nguyễn Hồng Bách (Chủ tịch Hội đồng tư vấn Văn phòng luật sư Hồng Bách và cộng sự, Đoàn Luật sư Hà Nội) là người “va vấp” khá nhiều với những quy định dạng này. Không ít vụ án, khi luật sư Bách làm đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa tới cơ quan tiến hành tố tụng thì lại bị yêu cầu “phải có đơn mời hoặc hợp đồng thuê luật sư do chính bị can hoặc bị cáo (đang bị tạm giam) ký”. Điều này rất khó thực hiện, bởi lẽ muốn có chữ ký của bị can, bị cáo, thì luật sư phải vào trong trại giam để gặp họ.
Muốn vào trong trại giam thì luật sư phải có Giấy chứng nhận người bào chữa. Mặt khác, khi đã được cầm trên tay Giấy chứng nhận người bào chữa rồi thì không phải lúc nào luật sư cùng có thể được tham gia vào các buổi lấy cung của cơ quan điều tra. Luật sư ở Hà Nội, bị can ở các tỉnh xa như Cao Bằng, Bắc Cạn (không đi được bằng máy bay) thì nếu chỉ được thông báo trước 1-2 ngày, luật sư cũng không thể “mọc cánh” bay ngay tới nơi được. Theo luật sư Bách, nên chăng BLTTHS xem xét quy định rõ ràng trách nhiệm của phía cơ quan điều tra về việc thông báo trước các cuộc thẩm vấn, hỏi cung cho luật sư được tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.
Theo luật sư Nguyễn Thảo Nguyên (Đoàn luật sư Hà Nội), luật không qui định cụ thể cơ quan tố tụng phải chịu chế tài thế nào nếu không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của người bào chữa không được thực hiện, nhất là “quyền được có mặt và được hỏi khi điều tra viên lấy lời khai”. Rất ít luật sư có được “may mắn” này. Hay như việc Toà án có thể chuyển tội danh tại phiên toà, xét xử bị cáo theo tội khác với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố cũng khiến các luật sư thụ động trong việc chuẩn bị luận cứ bào chữa, bảo vệ cho thân chủ...
Một quy định khác, tại Điều 188-BLTTHS 2003 quy định về giám sát bị cáo tại phiên tòa, có cho phép: “Bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa. Việc tiếp xúc với những người khác phải được phép của chủ tọa phiên tòa”. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp công an, cảnh sát dẫn giải hoặc không cho luật sư được tiếp xúc với bị cáo đang bị tạm giam, hoặc yêu cầu phải được sự đồng ý của chủ tọa (trong khi luật không yêu cầu). Việc áp dụng quy định một cách máy móc như thế này gây cản trở không nhỏ trong việc tác nghiệp của các luật sư, cũng như ảnh hưởng đến tâm lý của họ tại phiên tòa.
Bởi vậy, nên chăng sửa đổi Bộ luật theo hướng tăng cường trách nhiệm của những người trực tiếp tiến hành tố tụng - các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán. Cụ thể là việc phân định rành mạch trách nhiệm của những người này và thủ trưởng cơ quan tố tụng, trong đó những người trực tiếp tiến hành tố tụng sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp về quyết định của mình.
Mặc dù BLTTHS năm 2003 đã có nhiều qui định “tiến bộ” về hoạt động bào chữa nhưng phần lớn các luật sư đều cho rằng họ bị “lép vế” hơn trong tranh tụng. Điển hình nhất là tại phiên tòa xét xử, khi tranh tụng, các luật sư không được thoải mái thời gian phát biểu. Ức chế lên đến đỉnh điểm khi mà mỗi ý kiến mình đưa ra đều bị Tòa ngắt lời, vì “nội dung này luật sư đã nói rồi”... Trong khi đó, phía công tố viên thì được thoải mái thời gian phát biểu và hầu như chưa bao giờ bị Tòa ngắt lời. Song, điều mà luật sư Bách cũng như nhiều luật sư khác “ngán” hơn cả là khi tranh luận, kiểm sát viên không lập luận đối đáp lại các ý kiến của luật sư mà chỉ nói rằng: “tôi bảo lưu ý kiến của mình”, “tôi có đủ cơ sở để kết luận hành vi vi phạm của bị cáo”, trong khi Hội đồng xét xử lại không yêu cầu phía Viện kiểm sát phải đối đáp đầy đủ theo luật.
Những bất cập này sắp tới sẽ được xem xét để chỉnh sửa BLTTHS cho hoàn thiện hơn, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các luật sư tham gia tố tụng, đảm bảo tính dân chủ và minh bạch, góp phần phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
5. Báo Thanh niên có bài Rắc rối chuyện đổi giấy phép lái xe Fc. Bài báo phản ánh: Theo Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) có hiệu lực từ 1.7.2009, tất cả tài xế lái xe đầu kéo rơ-moóc, sơ mi rơ-moóc (sau đây gọi chung là lái xe đầu kéo) buộc phải có bằng lái xe hạng Fc thay vì bằng C như lâu nay. Rất nhiều rắc rối phát sinh xung quanh quy định này.
Do cơ quan chức năng không kịp chuẩn bị nên việc chuyển đổi bằng lái này không thể hoàn thành trước ngày 1.7.2009. Ngày 15.4.2009 vừa qua, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đã ra quyết định lùi thời hạn đổi bằng Fc trên phạm vi cả nước đến hết ngày 1.7.2010.
Theo quyết định của Bộ GTVT, những người có giấy phép lái xe hạng C, D, E có đủ thâm niên (3 năm) và số km lái xe an toàn (50.000 km), trong đó có 2 năm liên tục điều khiển ô tô đầu kéo thì được miễn tham gia khóa học tại cơ sở đào tạo lái xe, miễn sát hạch lý thuyết và sát hạch thực hành lái xe trên đường. Tuy nhiên, để lấy được bằng Fc, quy định bắt buộc đến hết ngày 31.12.2009, các tài xế nhóm này phải dự sát hạch thực hành lái xe trong hình theo quy định. Đối với tài xế mới có thời gian từ 1 đến dưới 2 năm liên tục điều khiển ô tô đầu kéo (đủ các điều kiện còn lại) thì chỉ được miễn tham gia các khóa học tại cơ sở đào tạo lái xe, còn lại phải tham dự sát hạch lý thuyết và thực hành. Riêng số tài xế mới lái xe đầu kéo dưới 1 năm thì phải tham gia học lý thuyết, tham dự sát hạch lý thuyết và sát hạch thực hành lái xe theo nội dung và quy trình sát hạch lái xe hạng Fc. Đối tượng này chỉ được miễn học thực hành tại cơ sở đào tạo lái xe. Bộ GTVT quy định, việc sát hạch, cấp bằng lái cho nhóm tài xế này được thực hiện từ nay cho đến hết ngày 1.7.2010.
Theo một thành viên Hiệp hội vận tải hàng hóa TP.HCM, quy định trên là có tham khảo và ghi nhận ý kiến đề đạt từ cơ sở. Việc giãn thời gian thực hiện và ban hành một số quy chế "đặc cách" như trên đã phần nào giảm được áp lực không cần thiết cho phía doanh nghiệp vận tải và người lái xe. Bởi thực chất, theo ông này, việc đổi bằng lên hạng Fc chỉ là một thủ tục về hình thức. Còn thực tế, mọi việc vẫn vậy, tất cả những xe đầu kéo rơ-moóc, sơ mi rơ-moóc đều do người có bằng lái xe hạng C điều khiển mà thôi.
Nhiều doanh nghiệp vận tải đồng ý rằng tài xế lái xe đầu kéo được đào tạo thêm để cấp bằng Fc là việc làm có lợi cho cả doanh nghiệp, lái xe và cho xã hội. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Ai có trình độ lái xe hạng Fc để dạy kiến thức về Fc, hay vẫn là những tài xế "lý thuyết" dạy cho những tài xế có "kinh nghiệm thực hành"? Ông Trần Văn, chủ một doanh nghiệp vận tải tại TP.HCM, lo ngại: "Không biết đã có cơ quan quản lý nhà nước hay trung tâm đào tạo sát hạch lái xe nào đưa người ra nước ngoài học về bằng lái hạng Fc hay chưa?". Thực tế ở nhiều địa phương, trong khi lái xe đầu kéo giỏi, hàng chục năm kinh nghiệm thì nhiều nhưng ngược lại tại các trung tâm đào tạo lái xe hiếm có thầy dạy đủ trình độ và kinh nghiệm bằng tài xế. Đó là nghịch lý "trò giỏi hơn thầy" trên thực tế.
Nếu cho rằng việc đổi bằng là để giảm tai nạn giao thông thì giới tài xế không đồng ý. Bởi việc hạn chế tai nạn giao thông cần được xem xét ở một phạm vi rộng hơn, trong đó thi đổi bằng chẳng qua là một cách vượt qua các bài thi đánh đố mà ở đó người lái xe phải "học" các thủ thuật để không vi phạm những điều định sẵn trong một không gian tĩnh và quá hẹp.
Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có hơn 20.000 tài xế phải đổi bằng Fc để tiếp tục hành nghề, trong khi đó số trung tâm đủ điều kiện đào tạo và sát hạch thì rất hạn chế. Theo Cục Đường bộ Việt Nam thì các cơ sở đào tạo lái xe cấp bằng hạng C, D, E đều có thể nâng cấp đào tạo bằng Fc. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, đến thời điểm này, tại TP.HCM hầu hết các trung tâm đào tạo lái xe đều chưa sẵn sàng cho việc "đổi bằng Fc". Bởi vậy, theo đề xuất của nhiều doanh nghiệp vận tải và tài xế lái xe, việc đổi giấy phép lái xe từ hạng C, D, E sang hạng Fc cho các tài xế chạy xe đầu kéo cần được "rộng" hơn nhằm giảm bớt những áp lực và chi phí không cần thiết.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 12/5/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.