Điểm tin báo chí sáng ngày 10 tháng 11 năm 2008

10/11/2008
Trong buổi sáng ngày 10/11/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: ngày 7/11, câu cầu treo Nậm Cản nối liền khu tái định cư Nậm Cản sang khu cơ khí (Thị xã Mường Lay) đã bị đứt cáp, làm hơn 50 học sinh bị thương. Ngày 8/11, CTV VietNamNet tại Điện Biên thông tin cho biết: Thời điểm xảy ra tai nạn vào lúc 11h30, ngày 7/11, đúng thời điểm tan buổi học, học sinh Trường THPT Thị xã Mường Lay đang trên đường qua cầu treo về nhà. Khi gần 100 học sinh, phần lớn là học sinh khối lớp 10 đang qua cầu thì cầu treo Nậm Cản đứt một bên cáp chính và hất văng hàng chục học sinh xuống suối.
Đến 16h30 ngày 7/11, bác sỹ Tao Thị Hồng Vân, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa khu vực Thị xã Mường Lay cho biết, bệnh viện đã tiếp nhận 41 em học sinh bị nạn do sự cố đứt cáp cầu treo Nậm Cản, với mức độ thương tật khác nhau. Trong đó, có trường hợp nặng nhất là bị gẫy hai tay và chấn thương vùng đầu. Còn lại là bị chấn thương vùng đầu, cột sống, gẫy tay, chân. Theo thống kê, có 4 em học sinh bị nặnh nhất là 2 em gẫy tay, 1 em gẫy chân, 1 em gẫy cả 2 tay và chấn thương vùng đầu.
Đến thời điểm này, nguyên nhân vụ đứt cáp cầu treo Nậm Cản được xác định do cầu được đưa vào sử dụng lâu; ít được trùng tu, bảo dưỡng (đặc biệt là việc trùng tu bảo dưỡng trong mùa mưa lũ) nên dây cáp và các néo chằng bằng kim loại ở cây cầu này bị han rỉ nặng, không chịu nổi tải trọng đã bị đứt.
2. Báo Vietnamnet phản ánh: "Xăng quay đầu trở về mức giá của 4 tháng trước, thì cước vận tải cũng sẽ giảm, trở về mức giá hồi tháng 7/2008"- Đó là khẳng định của ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam ngay sau khi giá xăng dầu vừa được điều chỉnh lần thứ 5 - giảm 1.000 đồng/lít.
"Cước vận tải là ngành nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến hầu hết hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối, đi lại của toàn dân nên được đặc biệt chú ý. Vì thế, khi xăng dầu tiếp tục giảm vào lần thứ 4, sau khi Hiệp hội có văn bản khuyến cáo, nhiều đơn vị, tuyến vận tải đã giảm giá. Cộng với lần giảm 1.000đ/lít này nữa, không có lý gì để các doanh nghiệp còn lại không hạ cước vận tải", Chủ tịch hiệp hội vận tải ô tô cho biết.
Cụ thể, sau lần giảm giá xăng dầu thứ 4 trong vòng 3 tháng qua, ngày 18/10, các doanh nghiệp thuộc hiệp hội đã bắt đầu tính toán điều chỉnh giá cước. Đến đầu tháng 11 vừa qua, hàng chục đơn vị vận tải phía Nam đã giảm giá từ 5.000đ - 20.000đ/vé thuộc các tuyến từ TP. Hồ Chí Minh đi: Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Đà Nẵng, Cà Mau...
Ông Hùng cũng nói thêm, giá xăng dầu đã giảm đáng kể, nhưng lãi suất ngân hàng vẫn quá cao, 70% doanh nghiệp vận tải vẫn đi vay với lãi suất thương mại 18%/năm nên chi phí sản xuất còn ở mức cao. Vị này cho rằng, nếu mức lãi suất đi vay tiếp tục ở mức như hiện giờ, thì giá cước vận tải, có hạ xuống trong 10 ngày tới, cũng chỉ có thể tồn tại trong 2 tháng tới, đến hết năm 2008. Sau đó lại phải tăng lên. Vì rằng, từ 1/1/2009, lương lao động tăng, thuế VAT phải tăng 5%, doanh nghiệp không tăng thì không thể kinh doanh được.
Điều đó cũng có nghĩa là, các doanh nghiệp vận tải sẽ chỉ "cam kết" ổn định giá trong năm 2009, nếu giá xăng dầu tiếp tục giảm để "bù" vào lương lao động và thuế VAT.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Đòi hỏi trái luật". Bài báo phản ánh: Luật Cư trú chỉ quy định việc tạm trú nhưng công ty cấp nước lại yêu cầu người dân phải xin xác nhận là tạm trú có KT3.
Tháng 7-2008, bà Nguyễn Thị Kiều Chinh (ngụ 2/26 Trần Nhân Tôn, phường 2, quận 10, TP.HCM) nhận được tin không vui: Công ty cổ phần Cấp nước Phú Hòa Tân đã cắt bớt định mức nước của hai nhân khẩu trong gia đình bà. Cụ thể là tháng 11-2004, chồng và em chồng của bà Chinh đăng ký tạm trú theo diện KT3 và đã được cấp định mức nước sinh hoạt. Nay cho rằng thời hạn đăng ký tạm trú của họ đã hết nên công ty từ chối cung cấp nước.
Theo hướng dẫn của công ty, bà Chinh đi làm sổ tạm trú mới và đã được Công an phường 2, quận 10 giải quyết vào ngày 13-8. Tuy nhiên, Công ty Phú Hòa Tân vẫn từ chối phục hồi định mức nước cũ cho bà với lý do “sổ tạm trú không ghi hai người trên có KT3”. Ngay sau đó, bà đã quay lại Công an phường 2, quận 10 với đề nghị “ghi thêm từ KT3 vào sổ” nhưng nơi đây đã... lắc đầu.
Trao đổi với PV Báo Pháp Luật TP.HCM, ông Lê Trung Thành, Phó phòng Thường vụ Công ty Phú Hòa Tân, cho biết: “Chúng tôi làm đúng theo Thông báo số 3347 ngày 6-7-2005 của Công ty Cấp nước TP.HCM (nay là Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn). Theo thông báo này, chỉ những người đang tạm trú tại TP.HCM có xác nhận tạm trú diện KT2 và KT3 của cơ quan công an mới có định mức nước”.
Tuy nhiên, trung tá Hà Văn Đuốc, Phó trưởng Công an phường 2, quận 10, lại có ý kiến khác: “Theo Luật Cư trú có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007, có cả thảy ba nhóm đối tượng cư trú là: thường trú, tạm trú và lưu trú. Do vậy, công an phường không thể bổ sung từ KT3 vào sổ tạm trú như yêu cầu của công ty cấp nước”.
KT3 là cách gọi những hộ tạm trú dài hạn và từ này đã bị Luật Cư trú “khai tử” hơn một năm nay. Đề nghị Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn (và Công ty Phú Hòa Tân) chỉnh sửa ngay những yêu cầu bất hợp lý về KT3 theo thông báo năm 2005 nêu trên, tạo thuận lợi cho các hộ tạm trú được cung cấp đầy đủ định mức nước.
2. Báo Sài gòn tiếp thị có bài "Bình Dương: Quan toà được đất nhờ… “vận động” thi hành án?". Bài báo phản ánh: Một số quan chức toà án của tỉnh Sông Bé cũ (nay là Bình Dương) đã mua hàng ngàn mét đất của đương sự thắng án trong vụ tranh chấp dân sự. Sự khuất tất càng lộ rõ với việc thi hành án vào lúc đã hết thời hiệu.
Trong lá đơn kêu oan, chị Huỳnh Kim Vân (con gái bà Nguyễn Thị Te 74 tuổi, ngụ tại thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương) kể, vào năm 1971, mẹ chị đã bỏ ra 30 ngàn mua nhà và đất rộng 860m2 (gọi chung là nhà) từ ông Huỳnh Công Nhẫn. Đến năm 1987, hai mẹ con chị có nguy cơ bị mất nhà vì một bản án phúc thẩm của Toà án tỉnh Sông Bé.
Chuỗi tố tụng nhiều tranh cãi
Theo các báo cáo của Thanh tra tỉnh gửi Thường vụ tỉnh uỷ và chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, nguồn cơn vụ việc bắt đầu từ khi ông Nhẫn làm đơn kiện đòi lại nhà mẹ con chị Vân đang sống. Hai bản án sơ, phúc thẩm đều tuyên, buộc bà Te phải trả ngôi nhà cho ông Nhẫn. Thời hạn trả trong vòng một năm.
Bản án đã không được thi hành ngay sau đó vì một lý do: ông Nhẫn vượt biên. Trước khi vượt biên, ông Nhẫn làm giấy uỷ quyền cho con mình (tên Hiếu) căn nhà. Tuy nhiên, trong uỷ quyền lại không phải căn nhà đang tranh chấp. Năm năm sau kể từ khi án có hiệu lực, anh Hiếu làm đơn yêu cầu, Toà án tỉnh Sông Bé ra quyết định thi hành án. Nhưng phải chờ năm năm nữa (tức năm 1997), phòng Thi hành án Bình Dương mới tổ chức cưỡng chế, giao nhà cho anh Hiếu. Mẹ con chị Vân lao vào hành trình đi kiện.
Về vụ việc này viện Kiểm sát tối cao và cục Quản lý thi hành án (bộ Tư pháp) có ý kiến: theo quy định, nếu bản án có hiệu lực nhưng sau ba năm anh Hiếu không yêu cầu thi hành án, bản án trên sẽ hết hiệu lực. Thực tế, án trên đã “lố” hai năm, lẽ ra phải đình chỉ, nhưng phòng Thi hành án vẫn thi hành. Chưa kể, giấy uỷ quyền của cha con ông Nhẫn không hợp pháp, chị Vân có khiếu nại… Do vậy, viện tối cao yêu cầu phòng huỷ ngay quyết định thi hành án, giao lại nhà cho mẹ con chị Vân. Dù bị trên “ép” liên tục, nhưng phòng không có động thái gì.
Vụ việc nhùng nhằng thêm năm năm nữa, đến 2001, ông Hồ Minh Phương, chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương phải yêu cầu Thanh tra tỉnh làm rõ vụ việc. Ngoài việc vạch ra những cái sai của phòng Thi hành án (giống như năm năm trước) và đề nghị chủ tịch tỉnh buộc phòng huỷ quyết định thi hành án. Đến nay, sau bảy năm, vụ việc vẫn không tiến triển.
Thu – cấp, mua – bán đất lạ lùng
Cũng vào chính thời điểm phòng Thi hành án chuẩn bị cưỡng chế, buộc mẹ con chị Vân giao nhà cho cha con anh Hiếu thì xảy ra một tình huống khác. Năm 1996, UBND thị xã Thủ Dầu Một ra quyết định thu hồi gần 5.500m2 đất tại phường Phú Cường cấp cho anh Hiếu sử dụng. Theo kết luận UBND tỉnh và bộ Tài nguyên môi trường, đất trên là đất công.
Được cấp đất, anh Hiếu đã bán ngay cho tám người, tổng cộng hơn 2.000m2. Trong tám cá nhân mua đất, có một số người là quan chức ngành toà án của thị xã và tỉnh Sông Bé lúc bấy giờ. Có thể điểm tên: ông Bùi Văn Tâm, phó chánh án toà thị xã lúc đó, ông Tâm là chồng của bà thẩm phán Nguyễn Thị Tám, chủ toạ phiên toà phúc thẩm xử vụ kiện đòi nhà giữa ông Nhẫn và bà Te. Ngoài ra còn có ông Nguyễn Thanh Tùng, lúc mua đất là phó chánh án toà án tỉnh, nay là chánh án (có thêm anh em ruột ông Tùng cũng được mua). Ông Tùng là anh em bạn dì ruột với bà trưởng phòng Thi hành án tỉnh, nơi ra quyết định cưỡng chế thi hành án buộc bà Te giao nhà cho cha con anh Hiếu. Ngoài ra, còn ông Đỗ Hữu Phước, hiện là phó chánh án toà tỉnh. Phần đất còn lại, gần 3.500m2, anh Hiếu để hoang đến nay.
Một cái lạ nữa trong tám hợp đồng mua bán đất trên, tất cả đều ghi rõ lý do người bán không có nhu cầu sản xuất và cũng không hợp đồng nào thể hiện giá bán bao nhiêu tiền. Tất cả đều được phường và UBND thị xã xác nhận cho mua bán. Có đất, ông Tùng và ông Nhàn, em ruột ông Tùng, xây nhà ở ngay. Tuy không có phép và xây trên đất nông nghiệp nhưng nhà vẫn mọc lên.
Cho đến năm 2001, sau khi vụ việc thu – cấp và mua – bán đất công bị vỡ lở, UBND tỉnh Bình Dương đã phải yêu cầu Thanh tra tỉnh làm rõ, sau đó huỷ quyết định cấp đất sai của UBND thị xã Thủ Dầu Một cho anh Hiếu. Tỉnh chỉ đạo thu hồi lại gần 3.500m2 đất phần còn lại. Đồng thời buộc thị xã thu hồi số tiền anh Hiếu đã bán đất cho tám cá nhân kia. Chắc một điều, người được cấp đất và mang đi bán sẽ không biết phải nộp bao nhiêu vì chẳng thấy giá bán tại các hợp đồng mua – bán đất.
Một chuỗi nghi vấn trong một vụ kiện đòi nhà và hàng loạt điều lạ trong quá trình thu – cấp, mua – bán đất giữa bên nguyên đơn và một số quan chức toà án có phải là điều bình thường? Có hay không một sự lại quả trong đây để các bên cùng có lợi như dư luận đã nghi ngờ lâu nay? Đó là những câu hỏi đặt ra cho lãnh đạo tỉnh Bình Dương.
3. Báo điện tử Vietnamnet có bài "Bộ trưởng Tư pháp: Tăng phí công chứng là phù hợp xu thế chung". Bài báo phản ánh: Lý giải việc tăng phí công chứng và chứng thực, Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cho hay đây là điều phù hợp với xu thế chung và công bằng.
- Trong khi chi phí hành chính đều có xu hướng giảm thì mới đây, với hai thông tư liên tịch số 91 và 92 quy định về mức phí mới đối với công chứng và chứng thực bản sao, do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành, lệ phí công chứng, chứng thực lại tăng cao so với hiện nay. Bộ trưởng lý giải điều này như thế nào?
Việc tăng phí, lệ phí là phù hợp với xu thế chung, vì đây là dịch vụ chất xám. Phí dịch vụ pháp lý về mặt bằng chung đều ngày càng tăng cao. Sự thay đổi của việc thu phí thay vì lệ phí công chứng là công bằng, vì điều này đảm bảo Nhà nước không lấy tiền nộp thuế của dân để nuôi các phòng công chứng. Nếu lấy thuế nuôi hoạt động của các phòng công chứng nhà nước thì người dân ai cũng phải chịu, dù không được hưởng dịch vụ. Thực tế, đa số người dân không thực hiện những giao dịch bị nâng phí này. Đây là cách làm công bằng.
Hơn nữa, mức tăng trung bình của các phí công chứng so với lệ phí công chứng năm 2001 chỉ gấp đôi. Cũng có những trường hợp phí công chứng chỉ 20 nghìn đồng, hoặc công chứng giao dịch mua bán một căn nhà trị giá dưới 1 tỷ đồng cũng chỉ phải nộp 100 nghìn đồng. Nếu chỉ đề cập một vài trường hợp tăng gấp 10 - 20 lần là phiến diện, dễ gây bức xúc trong dân.
Khác với thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT ngày 21/1/2001, thông tư số 91/2008/TTLT thay đổi cách tính. Chúng ta quay trở về cách tính của thông tư số 84/1992/TT-LB, tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch được công chứng. Theo thông tư 93 hiện đang áp dụng, chúng ta ấn định trước mức tiền phải đóng.
So với năm 1992, cách đây 16 năm, thì số tiền thu theo thông tư mới chỉ bằng 1/2 so với mức thu lệ phí công chứng của năm 1992. Trước đây, ngoài con số thu tuyệt đối thì phần cộng thêm dao động từ 0,1 - 0,2% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch. Hiện nay, mức thu cao nhất cũng chỉ chiếm 0,1% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng. Vấn đề là giá trị của bất động sản sau nhiều năm đã tăng rất cao, nên mức thu mới đội lên như vậy.
- Đâu là ưu điểm của cách tính phí mới, thưa ông?
Cách tính phí theo tỷ lệ phần trăm này cũng giảm được nguy cơ các đối tượng nộp thuế lách luận, điều chỉnh giá trị tài sản hợp đồng, giao dịch để tránh nộp thuế cao khi khoảng cách giữa các mức thu tương đối lớn như hiện nay. Ví dụ, trường hợp tài sản có giá trị 2 tỷ đồng thì mức thu phí tương ứng là 1 triệu đồng, trong khi giá trị tài sản chỉ giảm 1 đồng thì mức thu lệ phí tương ứng chỉ còn 500 nghìn đồng.
Về lệ phí, với Thông tư số 92, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp chỉ đưa ra hướng dẫn mức trần là như vậy. Trên mặt bằng chung, mức trần này so với năm 2001 chỉ tăng gấp đôi. Hơn nữa, đó mới chỉ là quy định trần. Mức thu bao nhiêu ở từng địa phương thuộc quyền quyết định của HĐND cấp tỉnh, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khả năng ngân sách địa phương, mặt bằng thu nhập của địa phương... Các sở tư pháp, sở tài chính các tỉnh có trách nhiệm tham mưu cho HĐND đưa ra quyết định. Cách nêu của báo chí hiện nay dễ gây hiểu nhầm trong dư luận.
Lệ phí chỉ là khoản bù đắp cho phần ngân sách chưa đủ cho hoạt động. Ở nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bất cập như không có máy phô-tô phục vụ phô-tô công chứng, nhất là vùng sâu, vùng xa, kiếm đâu ra dịch vụ phô-tô. Trong khi đó, ngân sách địa phương chưa sẵn sàng, cần có đóng góp từ dân, những người có nhu cầu dịch vụ này, để có thể trang bị thiết bị. Chính người dân sẽ góp phần vào trang bị phương tiện để giúp cho họ.
- Với mức tăng cao như vậy, liệu người dân có đủ khả năng chi trả?
Ban hành thông tư 2 năm sau khi Luật Công chứng ra đời, chúng ta đã làm khá chậm với quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng. Các địa phương đã xây dựng đề án thu phí có tính toán đến khả năng chi trả. Trên cơ sở đề nghị của các sở tư pháp và sở tài chính gửi lên Trung ương, chúng tôi đã tiến hành khảo sát liên ngành về vấn đề này. Sau khi xây dựng thông tư, chúng tôi đã tiến hành lấy ý kiến ở các sở, ngành liên quan. Nghĩa là, hai thông tư là sản phẩm của quá trình làm rất cẩn trọng.
- Quyết định tăng phí này có liên quan gì đến sự ra đời các văn phòng công chứng tư thời gian gần đây?
Có 3 thực tế cần nhìn vào khi xem xét vấn đề phí công chứng.
Một là, cùng với việc ra đời Luật Công chứng năm 2006, chúng ta tiến hành xã hội hoá hoạt động này với việc cho thành lập các văn phòng công chứng hoạt động hoàn toàn như một doanh nghiệp, nghĩa là họ phải đóng thuế, tự nuôi bộ máy, thuê văn phòng, mua sắm thiết bị.
Với các phòng công chứng nhà nước trước đây được Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động thì từ ngày 1/1/2008 sẽ trở thành đơn vị sự nghiệp tự trang trải, hoạt động theo loại hình doanh nghiệp và phải tự chủ về tài chính. Do đó, lệ phí chuyển sang phí. Nói cách khác, bản thân các phòng công chứng nhà nước cũng không được Nhà nước lấy tiền của dân để nuôi bộ máy, mà chỉ những người có nhu cầu và sử dụng dịch vụ công chứng mới phải chịu khoản này. Để thống nhất hoạt động, thông tư mới quy định mức thu phí công chứng áp dụng thống nhất đối với phòng công chứng nhà nước và văn phòng công chứng tư.
Hai là, chúng ta cần phải xem xét các khoản phí này trên cơ sở mặt bằng giá, tốc độ lạm phát. Từ năm 2001 đến nay, tất cả các chi phí đầu vào cho hoạt động công chứng đều tăng lên. Riêng mức lương, hiện chúng ta đang áp dụng Thông tư liên tịch số 93/2001/TTLT ngày 21/1/2001, trong khi đó, lương tối thiểu của năm 2001 chỉ là 270 nghìn đồng, trong khi bây giờ đã gấp 2,6 lần, chưa kể sắp tới sẽ nâng mức lương tối thiểu lên. Do đó, mức thu tăng lên là dễ hiểu.
Ba là, giá bất động sản so với năm 2001 tăng lên rất nhiều lần. Năm 2001, giá của một ngôi nhà 1 tỷ đồng đã là rất lớn, nhưng bây giờ thì khác. Đây là nhân tố gây đội mức thu từ giao dịch, hợp đồng.
Báo cũng có bài trên mục Bạn đọc viết "Chứng thực sơ yếu lý lịch: có cũng như không". Bài báo phản ánh: Các sơ yếu lý lịch (SYLL) thường được UBND phường/xã xác nhận hết sức thiếu trách nhiệm: “Đương sự có thường trú tại địa phương”. Trong khi đó, SYLL của công dân cần được chính quyền địa phương xác nhận về tính xác thực của những nội dung khai trong đó chứ không yêu cầu xác nhận rằng công dân ấy có sống ở địa phương đó hay không.
Tại Việt Nam, tính chính xác trong SYLL của công dân được bảo đảm bằng cách phải có xác nhận của chính quyền. Tuy nhiên, trong tay tôi có khoảng 200 hồ sơ của cán bộ, công nhân viên thì chỉ có 2 hồ sơ có xác nhận “Nội dung khai trong lý lịch là chính xác” (2 hồ sơ này đều thuộc những địa phương giàu truyền thống cách mạng, nhưng lại là vùng hẻo lánh).
Các hồ sơ còn lại đều được ghi hết sức thiếu trách nhiệm: “Đương sự có thường trú tại địa phương”. Các hồ sơ chứng thực tại TP. Hồ Chí Minh, câu chứng thực ấy phần lớn đều được khắc thành mộc. Nghĩa là người ta cứ việc nhất loạt chụp câu ấy vào lý lịch cần chứng thực của công dân.
Có lần chúng tôi tuyển dụng một nhân viên có bằng tiến sĩ do một trường Đại học tại Mỹ cấp hẳn hoi. Mức lương dự kiến hàng ngàn đô la. Chúng tôi muốn kiểm tra, giở lý lịch ra, chính quyền xác nhận: “Đương sự có thường trú tại địa phương”. Liên lạc với địa phương, họ trả lời: “Vụ này không biết!”. Thật chẳng nhờ cậy được gì.
SYLL của công dân cần được chính quyền địa phương xác nhận về tính xác thực của những nội dung khai trong đó chứ không yêu cầu xác nhận rằng công dân ấy có sống ở địa phương đó hay không. Thành ra, đối với những lời chứng thực ấy thì có cũng như không, mặc dù tất cả đều có con dấu đỏ chót của UBND cấp xã/phường.
Chứng thực kiểu chối bỏ trách nhiệm ấy thực ra cũng có lý do của nó. Với những thành phố lớn thì quản lý dân nhập cư là một vấn đề không đơn giản. Đã nhập cư thì chỗ ở không thể ổn định như dân bản địa. Mà ngay cả dân bản địa thì biến động về nhân khẩu của họ cũng nhiều hơn vùng quê.
Để giải quyết “lỗ hổng” chết người trong không gian pháp lý này, nếu đủ lực, Nhà nước nên triển khai thiết lập cho mỗi công dân 1 “căn cước điện tử”. Tương ứng với khái niệm “Trung tâm lý lịch tư pháp”, Nhà nước thành lập “Trung tâm lý lịch công dân”. Trung tâm này tập hợp thông tin cá nhân của từng nhân khẩu và cập nhật thường xuyên. Phiên bản điện tử sẽ do cơ quan chức năng nắm giữ. Trên bản in, nó có thể được thiết kế như Giấy chứng minh nhân dân hiện nay. Trong đó cần thiết phải có những thông số cơ bản: ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, nhóm máu… và đặc biệt là mã vạch để truy cập vào dữ liệu của công dân. Ví dụ: Ngày…, nhân viên của Công ty A. bị buộc thôi việc vì có hành vi "gợi ý và nhận hối lộ", nhà chức trách cập nhật vào. Hoặc ngày…, tài xế lái taxi Nguyễn Văn B trả lại bọc tiền 1 triệu USD cho khách, nhà chức trách cập nhật vào.
Những việc tốt, đương sự (hoặc tổ chức hữu quan) có thể chủ động cung cấp cho nhà chức trách. Những việc không tốt, đặc biệt là dính vào pháp luật thì nhà chức trách chủ động liên thông với nhau để cập nhật. Và nếu không ngại động chạm đến vấn đề nhân quyền vì cung cấp thông tin cá nhân của công dân thì có thể phân quyền truy cập cho tất cả mọi người để họ có thể xem. Ông bố vợ tương lai chọn chồng cho con gái rượu cua mình chỉ cần nhắp chuột là có thể biết được lý lịch của anh chàng ấy.
Điều quan trọng hơn là khi thực hiện phân quyền (truy cập) rộng rãi thì mọi công dân chắc chắn phải cân nhắc kỹ hành vi của mình, đặc biệt là những hành vi vi phạm đạo đức hoặc pháp luật. Không công cụ nào có thể răn đe tốt hơn công cụ này. Hơn nữa, công tác điều tra dân số cũng sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. 
4. Báo Lao động có bài "Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: Xử lý triệt để, nghiêm minh và có bước đi thích hợp đối với sai phạm của Vedan VN". Bài báo phản ánh: Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo số 314/ TB-VPCP, ngày 6.11 thông báo kết luận của Thủ tướng về xử lý sai phạm của Cty CPHH Vedan Việt Nam (Vedan VN). Theo đó, ngày 2.11 vừa qua, thường trực Chính phủ đã họp dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để bàn việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đối với Vedan VN.
Sau khi nghe báo cáo của Bộ TNMT, UBND tỉnh Đồng Nai, Bộ Tư pháp, ý kiến phát biểu của các Phó Thủ tướng và của các đại biểu dự họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận: Vedan VN vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có tổ chức, cố ý, kéo dài, tái phạm nhiều lần, có những hành vi được che đậy tinh vi, gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng đối với lưu vực sông Thị Vải, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, đời sống của nhân dân trong khu vực.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đối với Vedan VN phải tiến hành kiên quyết, triệt để, nghiêm minh và có bước đi thích hợp; bảo đảm đạt được mục tiêu là Vedan VN chấm dứt việc xả chất thải không đạt tiêu chuẩn quy định vào nguồn nước, đồng thời phải tiến hành xử lý, khắc phục được hậu quả ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do Cty gây ra và duy trì được sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Thủ tướng Chính phủ giao các bộ: TNMT, Tư pháp, CA, Thanh tra Chính phủ tổ chức rà soát, nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ xem xét để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Luật Thanh tra và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
5. Báo Sài Gòn giải phóng có bài "Khai trương hai văn phòng công chứng Sài Gòn và Gia Định. Bài báo phản ánh: Ngày 8-11, Văn phòng công chứng (VPCC, còn được gọi là công chứng “tư”) Sài Gòn đã khai trương, chính thức đi vào hoạt động tại địa chỉ 61 Lê Thị Hồng Gấm quận 1. Đây là VPCC thứ tư trong số 8 VPCC được cấp giấy phép thành lập trên địa bàn TPHCM tổ chức hoạt động.
Tại buổi khai trương, công chứng viên (CCV) Lê Hồng Sơn – Trưởng VPCC Sài Gòn vui mừng cho biết: CCV Phan Văn Cheo (nguyên Trưởng Phòng công chứng số 1 TPHCM) đã đồng ý về cộng tác với văn phòng trong thời gian tới, giúp hoạt động của văn phòng thêm ổn định. Ngoài ra, việc VPCC được kết nối vào mạng thông tin ngăn chặn của Sở Tư pháp TPHCM sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc công chứng các hồ sơ có liên quan đến tài sản là bất động sản.
Trước đó, vào ngày 1-11, VPCC Gia Định do CCV Trần Quốc Phòng làm trưởng văn phòng cũng đã khai trương tại địa chỉ 214/B11 Nguyễn Trãi quận 1.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 10/11/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm