Điểm tin báo chí sáng ngày 05/9/2008

05/09/2008
Trong buổi sáng ngày 05/9/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tiền phong phản ánh: Theo nhận định của Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Nguyễn Lan Châu: từ nay đến cuối năm bão, lũ sẽ dồn vào miền Nam và miền Trung. Tại khu vực miền Bắc vẫn có thể xuất hiện mưa bão, tuy nhiên cường độ mưa bão lớn sẽ giảm, những trận lũ lớn cũng ít có khả năng xuất hiện.
Nhiều chuyên gia nghiên cứu khí tượng thủy văn cũng cho rằng, những số liệu đều cho thấy tình hình thời tiết năm nay diễn ra rất bất thường, không theo một quy luật nhất định so với các năm trước. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cũng như phần còn lại của hiện tượng LaNina. Vì vậy, diễn biến mưa bão trên phạm vi cả nước từ nay đến cuối năm rất phức tạp và khó lường.
2. Báo Dân trí điện tử phản ánh: Hôm nay 5/9, học sinh, sinh viên trên cả nước chính thức bước vào năm học mới 2008-2009. Trước đó, nhiều trường học ở Hà Nội, TPHCM, Hà Giang, Yên Bái... đã tổ chức lễ khai giảng sớm.
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, năm học này cả nước có gần 22 triệu HSSV. Trong đó có trên 3,3 triệu học sinh mầm non, hơn 16 triệu học sinh phổ thông, 710 nghìn học sinh trung cấp chuyên nghiệp và 1,65 triệu sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
Bộ GD-ĐT xác định năm học này, ngành giáo dục tập trung thực hiện ba cuộc vận động lớn là “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, đồng thời triển khai sâu rộng trong các trường mầm non, phổ thông phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Bên cạnh đó, ngành giáo dục cũng thực hiện 3 công khai trong các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập để người học và xã hội giám sát là công khai chất lượng đào tạo như: công khai các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, công khai thu - chi tài chính.
Và, thực hiện 4 kiểm tra là kiểm tra phân bổ và sử dụng ngân sách giáo dục - đào tạo; kiểm tra thu và sử dụng học phí trong các nhà trường; kiểm tra việc sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của người dân và các tổ chức cho nhà trường; kiểm tra thực hiện kiên cố hoá trường học, lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên.
3. Báo Thanh niên phản ánh: Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất đã rút giấy phép 23 dự án đầu tư vào khu kinh tế nhưng không đủ năng lực tài chính, khiến tiến độ bị ngưng trệ kéo dài.
Điều này nhằm kịp thời ngăn chặn tình trạng một số doanh nghiệp lập dự án với mục đích chiếm dụng diện tích đất để hưởng chênh lệch khi chuyển nhượng cho doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, cơ quan công an cùng Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất đã phát hiện và xử lý nhà thầu TPC ký hợp đồng với nhà thầu phụ lắp đặt vật tư cách nhiệt tại 17 trung tâm điều hành tự động hóa (thuộc dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất) không đúng với chủng loại, tiêu chuẩn kỹ thuật như hợp đồng đã ký với Tập đoàn Dầu khí VN.
4. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Có thể nói, thị trường lao động Việt Nam thời đổi mới và hội nhập đang chứng kiến sự xuất hiện và tô đậm dần những động thái mới chưa từng có trong suốt nhiều thập kỷ nay.
Đó là xu hướng tăng nhanh những lao động “có bằng cấp và nhiều bằng cấp”, được đào tạo khá bài bản từ các nguồn khác nhau; sự chuyển dịch linh hoạt và năng động, kiểu “chuyển việc” liên tục, hoặc làm việc và nhận lương đồng thời từ nhiều “nơi” khác nhau của các lao động trẻ có tài và có chí tiến thủ; sự gia tăng đồng thời cả dòng lao động xuất khẩu, và lao động nhập khẩu... Trong đó, đặc biệt lưu tâm đến hiện tượng “chảy máu chất xám” từ trong nước ra nước ngoài, từ miền Bắc vào miền Nam, và từ khu vực nhà nước sang khu vực ngoài nhà nước…
Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 7-2003 đến 31-12-2007 đã có 6.422 (tức mỗi năm có khoảng 1.500) cán bộ, công chức, viên chức của các đơn vị hành chính và sự nghiệp nhà nước chủ động rời bỏ nhiệm sở để chuyển sang làm việc ở khu vực ngoài nhà nước, dẫn đầu là cán bộ khối sự nghiệp giáo dục với hơn 3.000 người.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở nhiều địa phương khác trên cả nước. Đặc biệt, tài chính - ngân hàng được cho là khối ngành có thu nhập cao (cán bộ ngân hàng nhà nước có hệ số lương gần gấp 3 lần hệ số thông thường), cũng đang "lao đao" bởi "làn sóng" cán bộ công chức rời bỏ nhiệm sở, trong đó có cả cán bộ cấp vụ.
Mừng vì, dường như đã nhạt nhòa rất nhiều rồi tư tưởng, nếp nghĩ thời bao cấp về việc làm, với sự thống trị của quan niệm “học phải ở trường công lập, có bằng chính quy và một suất biên chế nhà nước”, vừa nhàn hạ, lại vừa sang, bằng lòng suốt đời cảnh “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”, với “đồng lương 3 cọc 3 đồng”, khiến biên chế nhà nước không ngừng phình ra...
Điều mừng nữa còn ở chỗ, dường như đã bớt đi sự “phân biệt đối xử” và gia tăng sự cạnh tranh lành mạnh về môi trường lao động. Sức hấp dẫn của các việc làm thuộc khu vực “tư sở” (ngoài nhà nước) đang có sự cải thiện rõ rệt so với các “công sở” truyền thống (của Nhà nước).
Điều mừng hơn nữa là lực lượng lao động xã hội đang và sẽ ngày càng được sử dụng đúng nơi, đúng lúc, đúng năng lực và nguyện vọng, do đó, có hiệu quả hơn, vì xét đến cùng, dù lao động ở đâu cũng là làm giàu cho bản thân, cho tập thể và cho đất nước, góp phần vào công cuộc đổi mới chung, tất cả vì một Tổ quốc Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”…
Còn điều đáng lo là ở chỗ, xét cho cùng, nhân tài sẽ cống hiến cho xã hội tốt nhất khi họ làm việc hết mình trong bộ máy công quyền. Vì vậy, hiện tượng các lao động (nhất là các nhà quản lý và nhà khoa học) có trình độ cao, chất lượng cao và tâm huyết với sự nghiệp quốc kế dân sinh và lĩnh vực khoa học mà họ dự định cống hiến hết đời, buộc phải rời bỏ công sở, rẽ ngang, trái với tâm nguyện riêng, có xu hướng gia tăng, là dấu hiệu không thể coi nhẹ. Bởi nó chứng tỏ sự bất cập của môi trường lao động, cũng như nguy cơ “xuống cấp” của đội ngũ cán bộ, và theo đó, là sự suy giảm năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước các cấp, với những hệ quả khôn lường trong tương lai không xa ở nước ta.
Nếu loại trừ những nguyên nhân đời thường, bất khả kháng, như hoàn cảnh riêng bắt buộc phải chuyển việc làm mà không thể xin “chuyển dọc” trong khu vực nhà nước do sự eo hẹp biên chế và công việc đặc thù của cơ quan, sự hạn chế về sức khỏe, cũng như về năng lực chuyên môn cá nhân và các lý do tương tự khác, thì sự gia tăng làn sóng các lao động có chuyên môn cao và tâm huyết chia tay với các công sở nhà nước có thể được giải thích bởi một hoặc cả 3 nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, chế độ lương và các đãi ngộ vật chất còn thấp, chưa khuyến khích lao động có trình độ và hiệu quả cao. Mặc dù chế độ tiền lương của nước ta đã được cải tiến, mức lương tối thiểu đã được nhiều lần nâng lên, song có thể nói, cho đến nay, không một ai trong tổng số khoảng 6 triệu người hưởng lương và thu nhập chính từ ngân sách nhà nước của nước ta đủ sống và chỉ sống bằng lương chính nhận từ cơ quan hàng tháng.
Thứ hai, do môi trường công tác tạo nhiều sức ép tiêu cực về chuyên môn và tinh thần cho người lao động có tri thức và lòng tự trọng cao. Môi trường làm việc ở các cơ quan, đơn vị nhà nước chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người có năng lực thanh thản lao động, cống hiến và thăng tiến.
Thứ ba, nguyên nhân mấu chốt là công tác bố trí cán bộ còn nhiều bất cập. Việc hàng loạt công chức, viên chức, trong đó có cả một số cán bộ lãnh đạo các sở, tổ chức và đơn vị, cũng như các chuyên gia hàng đầu xin nghỉ việc thì không thể coi là chỉ do lương thấp…
Rõ ràng là, điều làm nên sức hấp dẫn của khu vực nhà nước hiện nay hiển nhiên không chỉ ở cải thiện mức lương, mà còn là đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm công chức, viên chức, tạo môi trường thuận lợi và lành mạnh cho người có tài và có tâm làm việc thanh thản, sáng tạo và hiệu quả cao, thực hiện hoài bão, khẳng định mình.
Trước mắt, Chính phủ cần đẩy mạnh tiến độ thực hiện đề án cải cách tiền lương và mở rộng hơn nữa khoảng cách mức lương tối đa và tối thiểu; đồng thời thực hiện một chính phủ tinh, gọn và mạnh hơn trên cơ sở xác định rõ cái gì xã hội làm được, cái gì chính quyền phải làm, tăng cường phân cấp và đẩy mạnh hơn nữa dân chủ hóa xã hội, phát huy vai trò điều tiết của thị trường, khuyến khích sự đóng góp của các tổ chức phi chính phủ…
Cần sớm ban hành Luật về công chức, viên chức sự nghiệp và có lộ trình phù hợp cho việc đưa những viên chức nhà nước ra khỏi diện cán bộ, công chức, tránh gây “sốc”, hoặc làm gia tăng bất bình đẳng về xã hội và làm mất người tài trong khu vực sự nghiệp nhà nước hiện nay.
Cần phải xây dựng chính sách nhà ở đối với người có thu nhập thấp nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội về nhà ở, trong đó có nhà cho công chức, viên chức nhà nước.
Cần đổi mới công tác cán bộ, thực hiện chặt chẽ việc tuyển dụng theo đúng tiêu chuẩn, ưu tiên cho những cán bộ đào tạo theo địa chỉ đã tốt nghiệp và thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại địa phương. Kiên quyết chống tham nhũng nói chung, đặc biệt trong công tác cán bộ nói riêng.
Đồng thời, việc phát triển thị trường lao động có tổ chức, cho phép “mềm hóa”, linh hoạt hóa biên chế, tiền lương và thời gian làm việc của lao động trong các khu vực, kể cả trong khu vực nhà nước, sẽ là sự hỗ trợ cần thiết, hữu ích để lành mạnh hóa môi trường lao động, giảm sự cách biệt, chênh lệch quá lớn giữa các lao động trong các khu vực khác nhau của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và chất lượng phát triển theo hướng bền vững chung của đất nước.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Bị can tâm thần: Thiếu luật sư cũng không sao?". Bài báo phản ánh: Tháng 4-2008, bị cáo Phạm Văn Thắng (ngụ thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) nguyên giám đốc Công ty Xây dựng công trình giao thông Lâm Đồng bị Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Sẽ không có gì phải bàn nếu trong phiên tòa phúc thẩm này, viện và tòa thống nhất được với nhau về hướng xử lý vụ án.
Theo hồ sơ vụ án, từ năm 1999 đến năm 2003, khi đang đương chức, Thắng đã chỉ đạo cấp dưới xuất quỹ hơn một tỷ đồng nhưng không có chứng từ. Sau đó, các khoản chi này đã được hợp thức hóa bằng cách lập phiếu chi khống... VKSND tỉnh Lâm Đồng đã lập cáo trạng truy tố Thắng ra tòa về tội danh trên theo Điều 165 Bộ luật Hình sự. Tháng 8-2007, TAND tỉnh Lâm Đồng đã xử phạt Thắng chín năm tù. Ngay sau đó, Thắng kháng cáo kêu oan.
Tháng 4-2008, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án. Tại tòa, đại diện VKS và luật sư của bị cáo đều cho rằng các cơ quan pháp luật của tỉnh Lâm Đồng đã vi phạm thủ tục tố tụng. Theo bản giám định pháp y tâm thần tháng 5-2007 của Bệnh viện Tâm thần trung ương thì “trước, trong và sau khi gây án, Thắng bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực các giai đoạn hưng phấn cảm tái phát. Khi gây án, Thắng vẫn nhận thức và điều khiển được hành vi nhưng bị hạn chế do bị bệnh”. Nhưng trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra lại không cử luật sư hoặc yêu cầu đại diện hợp pháp của bị can mời người bào chữa cho bị can. Cách xử lý này không đúng với quy định nêu tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự. Lại nữa, vụ án còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ... Luật sư của bị cáo đã đề nghị tòa phúc thẩm hủy án và tuyên xử bị cáo Thắng không phạm tội. VKS thì đề nghị hủy một phần bản án sơ thẩm vì cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Sau khi xem xét toàn bộ chứng cứ, tòa cấp phúc thẩm cho rằng ý kiến của VKS và luật sư không có căn cứ. Bởi lẽ khi các cơ quan chức năng khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì Thắng đã khai báo vụ việc rất rõ ràng và sau đó còn kêu oan. Tự bản thân bị cáo không hề khiếu nại gì về việc bị bệnh tâm thần. Mãi đến tháng 5-2007 (sau khi có bản kết luận điều tra của công an tỉnh), gia đình bị can mới có đơn khiếu nại và cơ quan điều tra đã cho bị can đi giám định. Kết quả là bị can vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Sau đó, tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo được một luật sư bào chữa. Như vậy, cơ quan điều tra không vi phạm thủ tục tố tụng như nhận xét của VKS và luật sư. Do đó, tòa cấp phúc thẩm không chấp nhận việc Thắng kháng cáo kêu oan.
Theo tìm hiểu của PV Báo Pháp Luật TP.HCM, bị cáo Thắng đã có biểu hiện bị bệnh tâm thần từ năm 2003. Chính vì thế mà vào tháng 8-2003, chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng đã ký quyết định cho phép ông Thắng nghỉ việc để đi chữa bệnh. Sau một thời gian điều trị tại Bệnh viện tỉnh Lâm Đồng, bị cáo được chuyển đến Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa. Tại đây, ông được chẩn đoán mắc bệnh “bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực”.
Tháng 9-2006, ông Thắng lại được gia đình đưa đi điều trị tại Biên Hòa lần nữa và bệnh viện này kết luận ông “bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn hưng cảm”. Cuối tháng 9-2006, Công an tỉnh Lâm Đồng đã khởi tố Thắng. Khi Thắng bị bắt, vợ ông đã nộp đơn đến Công an tỉnh Lâm Đồng xin bảo lãnh cho chồng được tại ngoại để khám và điều trị bệnh. Tuy nhiên, yêu cầu này đã không được chấp thuận với lý do vụ án đang trong quá trình điều tra và Thắng không có dấu hiệu bị tâm thần.
Liệu cơ quan điều tra có chủ quan vì không thể nói cơ quan này không biết Thắng có tiền sử bệnh tâm thần? Ngay trong giai đoạn điều tra, phải chi Công an tỉnh chặt chẽ hơn với việc yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị can có nhược điểm về tâm thần, quá trình giải quyết vụ án đã không vấp phải những thiếu sót không đáng có.
2. Báo Tuổi trẻ có bài "Giải bài toán “bảo vệ môi trường”: Sửa luật và tôn trọng luật". Bài báo phản ánh: Sự tắc trách kéo dài trong việc xử lý chất thải độc hại của nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được coi là thủ phạm chính gây ra nạn xuống cấp môi trường tự nhiên ở nhiều nơi.
Có hai cách lý giải về sự hình thành thái độ sống này ở các nhà đầu tư và xu hướng phổ biến của nó hiện nay: hoặc hệ thống pháp luật còn quá sơ hở, thiếu sót, không đủ quy tắc cần thiết để ngăn chặn và xử lý nghiêm các vụ vi phạm, hoặc pháp luật không thiếu nhưng không được thực thi nghiêm chỉnh.
Thực tế cho thấy việc hoàn thiện các chế độ pháp lý về môi trường chưa đáp ứng được sự trông đợi của xã hội. Đặc biệt, kiểu làm luật chắp vá, thiếu đồng bộ và thiếu sự phối hợp khiến nhiều giải pháp pháp lý chỉ mang ý nghĩa lý thuyết suông, do điều kiện áp dụng tỏ ra phi thực tế. Chẳng hạn, theo pháp luật hình sự, trong hầu hết trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, người vi phạm chỉ bị xử lý hình sự sau khi đã bị xử lý hành chính mà còn tái phạm.
Trên thực tế, “người” có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường là các doanh nghiệp, chính xác hơn là những công ty có tư cách pháp nhân. Ở góc độ chế tài hành chính, điều này không quan trọng bởi pháp nhân hay cá nhân đều là chủ thể của trách nhiệm mỗi khi có hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng ở góc độ chế tài hình sự, khác với luật của nhiều nước, luật VN hiện hành không thừa nhận năng lực chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Vì vậy, chỉ những con người cụ thể mới có thể nhận hình phạt theo luật hình sự do vi phạm pháp luật môi trường, còn pháp nhân, dù vi phạm lần đầu hay tái phạm, thậm chí tái phạm nhiều lần và gây hậu quả nghiêm trọng, cũng chỉ bị xử phạt hành chính.
Nhưng có ý kiến từ các cơ quan chức năng rằng hiện nay không thể xử lý hình sự người đứng đầu đơn vị gây ô nhiễm được vì họ chưa từng bị xử lý hành chính về hành vi này (do cơ quan chức năng chỉ xử lý hành vi này đối với pháp nhân). Thật ra, với quy định pháp luật hiện hành, cá nhân những người đại diện doanh nghiệp cũng có thể phải trực tiếp chịu trách nhiệm hành chính, sau đó tự mình chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường thực hiện trong quá trình quản lý, điều hành doanh nghiệp. Đó là những trường hợp cá nhân có hành vi lạm quyền, không xử lý công việc theo quy trình.
Thí dụ, nếu một công ty TNHH có trang bị hệ thống xử lý nước thải, nhưng giám đốc công ty này ra lệnh nhân viên cứ thải nước thải công nghiệp trực tiếp ra môi trường công cộng, thì vị giám đốc này phải chịu trách nhiệm hành chính (hình sự). Còn nếu công ty này không trang bị hệ thống xử lý nước thải dẫn đến giám đốc điều hành phải cho xả nước thải trực tiếp ra nơi công cộng thì người đại diện pháp nhân trong trường hợp này thường là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty phải chịu trách nhiệm hành chính (hình sự).
Tuy nhiên, trong những trường hợp người đại diện bị xử phạt hành chính, hình sự với tư cách cá nhân thì không thể truy cứu trách nhiệm của doanh nghiệp được nữa. Đơn giản, mỗi hành vi pháp lý chỉ có thể do một chủ thể thực hiện và nếu đó là hành vi phạm pháp thì chỉ chịu một lần chế tài.
Vì vậy, muốn không tiếp tục bỏ lọt tội phạm trong lĩnh vực môi trường phải chấm dứt tình trạng vênh nhau giữa pháp luật hành chính và pháp luật hình sự. Cụ thể, phải thay đổi quan niệm về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự và bổ sung các quy định cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Ở nước ngoài, nếu pháp nhân bị xử lý hình sự thì phải đối mặt với chế tài vật chất rất lớn, có thể dẫn đến phá sản.
Nhưng sửa luật chỉ mới là điều kiện cần. Luật phải được tôn trọng và thực thi nghiêm chỉnh thì môi trường tự nhiên mới được bảo vệ tốt. Điều đáng quan ngại lâu nay trong lĩnh vực đầu tư là dưới sự hoành hành của căn bệnh thành tích kinh niên, người ta có xu hướng coi trọng các kết quả tăng trưởng nhận thấy được trước mắt hơn là tính bền vững của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Báo cũng có bài "Công chứng tư: còn nhiều băn khoăn". Bài báo phản ánh: Sự ra đời của các phòng công chứng tư được nhiều người dân chờ đợi. Dù vậy, vẫn còn nhiều quy định liên quan đến hoạt động của các văn phòng công chứng tư chưa rõ ràng, thậm chí đang bị bỏ ngỏ mà nếu không giải quyết sẽ khiến nhiều người ngần ngại với mô hình này...
Tại TP.HCM hiện đã có tám phòng công chứng tư được UBND TP cấp phép thành lập. Dự kiến chỉ trong vòng một tháng nữa sẽ có văn phòng công chứng tư đầu tiên đi vào hoạt động. Còn tại các địa phương khác, văn phòng công chứng tư đi vào hoạt động khá lâu.
Không được công chứng quyền sử dụng đất
Theo quy định của Luật công chứng, chức năng, thẩm quyền của phòng công chứng nhà nước và văn phòng công chứng (công chứng tư) đều như nhau. Công chứng nhà nước được chứng thực hợp đồng, giao dịch nào thì văn phòng công chứng tư cũng có thẩm quyền chứng những loại hợp đồng đó. Thế nhưng theo Luật đất đai, chỉ có công chứng nhà nước mới được xác nhận hợp đồng, giao dịch liên quan quyền sử dụng đất bởi luật này giao trách nhiệm cụ thể cho công chứng nhà nước. Sở dĩ có quy định này vì thời điểm ban hành Luật đất đai chỉ có phòng công chứng nhà nước mới có thẩm quyền công chứng, chưa có các phòng công chứng tư.
Theo các phòng công chứng, nếu căn cứ theo quy định trên thì các phòng công chứng tư chỉ được công chứng nhà, không được công chứng đất, nhưng thực tế nhà thường gắn với đất. Lãnh đạo một phòng công chứng cho biết hiện có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này: một số ý kiến cho rằng hoạt động của các phòng công chứng tư điều chỉnh theo Luật công chứng nên luật không cấm thì các phòng công chứng tư được làm.
Nhưng có ý kiến đề nghị các cơ quan chức năng cần hướng dẫn cụ thể để các phòng công chứng tư thực hiện. Nếu tự ý xác nhận các hợp đồng có liên quan đến quyền sử dụng đất sau này sẽ bị “bắt giò” vì làm không đúng với Luật đất đai.
Xác nhận sai, bồi thường ra sao?
Theo quy định của Luật công chứng, dù đến phòng công chứng nhà nước hay phòng công chứng tư thì hợp đồng, giao dịch của khách hàng đều do các công chứng viên đủ tiêu chuẩn được Bộ Tư pháp bổ nhiệm thực hiện. Khi chứng, các công chứng viên đều phải có trách nhiệm kiểm tra đầy đủ hồ sơ và tính pháp lý của tài sản giao dịch, chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch. Vấn đề đặt ra là nếu phòng công chứng tư xác nhận hợp đồng sai, dẫn đến thiệt hại cho khách hàng thì sẽ phải bồi thường như thế nào.
Về vấn đề này, ông Trần Thất - vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp - cho biết: Luật công chứng đã quy định trách nhiệm của phòng công chứng tư là phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng do lỗi của công chứng viên văn phòng mình gây ra. Mà phòng công chứng tư hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh cho nên chủ văn phòng phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với thiệt hại do văn phòng gây ra.
Trường hợp cần thiết có thể phải dùng cả tài sản riêng của chủ văn phòng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Một cán bộ có trách nhiệm của Bộ Tư pháp cho rằng khách hàng có quyền kiện ra tòa án yêu cầu phòng công chứng tư bồi thường thiệt hại. Thậm chí theo ông, việc kiện phòng công chứng tư có khi dễ hơn so với công chứng nhà nước trong thời gian qua.
Kiện ai?
Trong quá trình hoạt động, việc một vài phòng công chứng tư hoạt động không hiệu quả, không thu hút được khách hàng dẫn đến chuyện phải giải thể là hoàn toàn có thể xảy ra. Một luật sư tỏ ý ngần ngại: phòng công chứng tư giải thể mà không thực hiện đúng quy định về quy trình giải thể, bàn giao hồ sơ lưu trữ cho phòng công chứng, văn phòng công chứng khác thì quyền lợi của khách hàng các phòng công chứng này sẽ giải quyết thế nào khi họ muốn sao lục hồ sơ, giấy tờ? Đại diện một ngân hàng thương mại cũng băn khoăn: lúc phòng công chứng tư hoạt động thì còn kiện cáo được, nhưng sau vài năm khách hàng mới bị thiệt hại do hợp đồng bị công chứng sai và lúc đó phòng công chứng tư đã chấm dứt hoạt động thì biết kiện ai?
Hiện luật có quy định về nghĩa vụ mua bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên (đối với phòng công chứng tư), nhưng hiện nay các công chứng viên đã được cấp phép thành lập phòng công chứng vẫn chưa mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp do còn chờ hướng dẫn. Chính vì chưa có bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng, Sở Tư pháp TP đã có quy định điều kiện mở văn phòng công chứng là phải ký quỹ 100 triệu đồng.
Nhưng nhiều tài sản nhà đất giao dịch tại TP.HCM hiện nay thường có giá trị lên đến hàng tỉ đồng, thậm chí vài chục tỉ đồng, khi xảy ra sai sót, gây thiệt hại cho khách hàng nếu có buộc phải bồi thường, khoản tiền ký quỹ của các phòng công chứng tư cũng chưa thấm vào đâu so với giá trị các hợp đồng ký kết.
Cần phải có thời gian để các phòng công chứng tư khẳng định mình, tạo niềm tin với người dân, khách hàng đến ký hợp đồng. Nhưng bên cạnh đó, rất cần sự quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền trong việc “hậu kiểm” đối với doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công chứng này để quyền lợi của khách hàng được đảm bảo.
3. Báo Thanh niên có bài "Đề nghị cấm xuất cảnh người chưa thi hành án dân sự". Bài báo phản ánh: Hôm qua 4.9, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM tổ chức góp ý dự thảo Luật Thi hành án dân sự và dự thảo Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi). Quy định về xã hội hóa hoạt động thi hành án là vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm góp ý.
Đa số ý kiến cho rằng việc làm này cần có bước đi phù hợp và phải thực hiện thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm trước khi đưa vào luật. Từ thực tế công tác, ông Vũ Quốc Doanh - Phó trưởng cơ quan thi hành án dân sự TP.HCM đề nghị luật cần quy định cụ thể biện pháp bảo đảm thi hành án, trong đó yêu cầu cơ quan công an kịp thời ngăn chặn xuất cảnh đối với những người (kể cả người nước ngoài) trốn tránh thi hành án; đồng thời giữ lại quy định "yêu cầu cơ quan công an dẫn giải người phải thi hành án", nhằm khắc phục tình trạng một số người cố tình chây ỳ, tìm mọi cách trốn tránh thi hành. Ý kiến của ông Doanh được nhiều đại biểu đồng tình.
Trong phần góp ý dự thảo Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi), các đại biểu đề nghị luật cần quy định cấm triệt để người điều khiển xe sử dụng rượu, bia...
Trên đây là điểm báo sáng ngày 05/9/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ.


File đính kèm