Điểm tin báo chí sáng ngày 20/8/2008

20/08/2008
Trong buổi sáng ngày 20/8/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Bà Nguyễn Thị Vinh, PGĐ Sở Nội vụ Hà Nội cho biết, năm nay, Hà Nội sẽ dành khoảng 47 chỉ tiêu tuyển thẳng vào làm việc các cơ quan, đơn vị tại TP cho các thủ khoa tốt nghiệp xuất sắc tại các trường đại học, học viện năm học 2007-2008.
Đặc biệt, trong đó có nhóm ngành mới phục vụ cho chủ trương mở rộng địa giới hành chính Thủ đô là Thủy sản và thủy lợi. Ngoài ra, còn có 5 nhóm ngành cần tuyển nhân lực là Quy hoạch quản lý đô thị, xây dựng và môi trường; Khoa học kỹ thuật và công nghệ; Quản lý hành chính nhà nước; Y dược và Giáo dục, sư phạm.
Báo cũng phản ánh: Chiều 17-8, sau khi kéo rất đông giáo dân (chủ yếu là thiếu nhi) sang hành lễ tại phần đất vừa lấn chiếm được trong khuôn viên Công ty may Chiến Thắng, được sự chỉ đạo của Nhà thờ Thái Hà, một linh mục đã đem theo nhiều con chiên, đi vẩy nước Thánh lên khắp các khu nhà xưởng, đất của Công ty may; thậm chí họ còn vẩy nước đánh dấu phần đất mà họ cho là của Nhà thờ vào tường rào của một số hộ dân liền kề.
Ngay lập tức người dân ở đây đã phản đối quyết liệt, cực lực lên án hành vi coi thường kỷ cương phép nước của Nhà thờ Thái Hà, yêu cầu chính quyền các cấp phải có biện pháp kiên quyết để giữ gìn an ninh trật tự tại khu vực...
Mặc dù UBND thành phố đã có công văn trả lời khiếu nại của Nhà thờ Thái Hà về việc đòi quyền sử dụng đất tại khu vực 178 Nguyễn Lương Bằng, nhưng linh mục Vũ Khởi Phụng, Chánh xứ Thái Hà, Ban hành giáo và giáo dân xứ Thái Hà đã không tôn trọng kết luận của Đoàn Thanh tra liên ngành cũng như các kết luận của UBND thành phố.
Đến tối ngày 18-8, cả khuôn viên khu đất 178 Nguyễn Lương Bằng do Công ty may Chiến Thắng quản lý đã được Nhà thờ Thái Hà cho các giáo dân (hầu hết là phụ nữ) cắt cỏ, dọn dẹp khá sạch sẽ, để trong ngày tới sẽ tiếp tục chuyển tượng, thánh giá, ban thờ vào đó, và tất nhiên, chỗ nào đã có các tượng, ảnh, ban thờ để hành lễ, đó sẽ được coi là đất của Nhà thờ.
PV báo Hà Nội mới đã tìm cách tiếp xúc với một số giáo dân từ tỉnh ngoài về tham gia “chiến dịch” lấn chiếm đất của Nhà thờ, được họ cho biết là được bề trên yêu cầu thay phiên nhau đến để làm nhiệm vụ mà Nhà thờ phân công. Còn nhân dân sống quanh khu vực tỏ ra hết sức bất bình với những hành vi vi phạm pháp luật ngày càng nghiêm trọng của Nhà thờ Thái Hà. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao Nhà thờ đã có các cơ sở thờ tự, hành lễ khang trang thế, tại sao phải đưa giáo dân ra những nơi tối tăm, nhếch nhác, ẩm thấp, mất vệ sinh để hành lễ?
2. Báo Lao động có bài: “Trả nợ bằng tiền dự trữ quốc gia”. Bài báo viết: Năm nào cũng vậy, TCty Muối (Visalco) được Chính phủ giao trách nhiệm mua muối dự trữ quốc gia, nhằm điều tiết thị trường muối trong nước. Vậy mà các vị lãnh đạo Visalco đã bất chấp Pháp lệnh về dự trữ quốc gia, đem tiền nhà nước giao mua hàng dự trữ để trả nợ.
Năm 2000, Visalco được giao làm chủ đầu tư dự án Khu kinh tế muối công nghiệp và XK Quán Thẻ ở xã Phước Minh, tỉnh Ninh Thuận. Để triển khai dự án, Visalco vay NH Đầu tư và Phát triển Ninh Thuận 1,4 tỉ đồng để đầu tư. Tiền đã chi hết, nhưng đến nay dự án vẫn... nằm trên giấy nên Visalco bị Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) thu hồi dự án muối Quán Thẻ giao cho đơn vị khác thực hiện.
Trước tình trạng vừa nêu, phía NH đã liên tục đòi nợ Visalco, nhưng không được. Tính đến năm 2007, cả tiền gốc và lãi Visalco nợ NH gần 1,973 tỉ đồng khiến NH phải kiện Visalco ra tòa. Ngày 25.5.2007, Tòa dân sự TAND tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định số 01/2007/QĐST-KDTM buộc Visalco phải trả ngay toàn bộ số tiền gốc và lãi cho NH. Ngày 25.6.2007, Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận ra Quyết định 92/QĐYC-THA đòi tiền Visalco cho NH, nhưng Visalco không chấp hành. Liên tiếp trong 2 năm 2007-2008, TAND và Cơ quan Thi hành án tỉnh Ninh Thuận nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Visalco phải trả nợ, nhưng Visalco vẫn không thực hiện.
Nhằm dứt điểm thực hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật, ngày 10.7.2008 Cơ quan Thi hành án Ninh Thuận ra Quyết định 15-QĐ/THA phong tỏa toàn bộ tài khoản của Visalco tại NH Công thương VN. Nhưng số tiền 788 triệu đồng mà Visalco bị phong tỏa lại là tiền của Cty Miền núi ứng trước cho Visalco để mua muối iốt, nên việc cưỡng chế chưa thực hiện được.
Được biết, cùng với việc phong tỏa tài khoản của Visalco, Cơ quan Thi hành án Ninh Thuận còn buộc Visalco trong vòng 15 ngày phải trả số tiền hơn 1,973 tỉ đồng cho NH, nếu không sẽ tiến hành kiểm tra hệ thống sổ sách quản lý vốn, tài sản tại Visalco và thông qua một số cơ quan khác xác minh điều kiện thi hành án để cưỡng chế bắt buộc thi hành. Việc bị phong tỏa tài khoản đã làm cho Visalco không thể mua muối iốt trả cho Cty Miền núi, làm ảnh hưởng đến việc cung ứng muối iốt cho đồng bào khu vực miền núi trong tình hình thiếu muối hiện nay.
Để đối phó với các khoản nợ phải thanh toán, ngày 18.7.2008, HĐQT Visalco đã họp đột xuất và Chủ tịch HĐQT - ông Phạm Xuân Hoàn đã nhất trí "tạm vay" hơn 1,973 tỉ đồng tiền mua muối dự trữ quốc gia để thanh toán nợ cho NH.
Theo ông Nguyễn Đình Hòa - Phó Cục trưởng Cục Dự trữ quốc gia (Bộ Tài chính), việc tự ý rút vốn dành mua muối dự trữ quốc gia để trả nợ như vừa nêu là vi phạm nghiêm trọng Pháp lệnh dự trữ quốc gia của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ông Hòa cho biết: "Chúng tôi đã tổ chức thanh tra tại Visalco và phát hiện ra sai phạm của đơn vị này trong việc dùng vốn mua muối dự trữ quốc gia vào mục đích khác. Chúng tôi cũng đã làm báo cáo gửi Bộ Tài chính xin ý kiến giải quyết, trong vài ngày tới, Bộ Tài chính sẽ có văn chính thức gửi Bộ NNPTNT về hướng giải quyết vụ việc này...".
Được biết, quy trình xuất tiền vốn dự trữ quốc gia được quy định rất chặt chẽ. Các đơn vị được cấp vốn sau khi mua, nhập hàng vào kho phải xuất trình hóa đơn chứng từ hợp lệ, sau khi Cục Dự trữ quốc gia ra thông tri thì lúc đó Bộ Tài chính mới ra quyết định cấp tiền. Trong trường hợp này, Thủ tướng Chính phủ có quyết định riêng về số tiền bán 30.000 tấn muối là cho phép Visalco nhập vào kho bạc để đến vụ muối năm 2008 thì xuất ra mua muối dự trữ. Vậy mà Visalco đã lấy số tiền này đem trả nợ cho NH là sai phạm không nhỏ.

Về vấn đề này, cũng theo ông Nguyễn Đình
Hòa giải thích thì: "Số tiền bán 30.000 tấn muối do kho bạc quản lý, nên quy trình rút vốn ra như thế nào chúng tôi không nắm được...". Hơn nữa, đây không phải là trường hợp cá biệt xảy ra ở Visalco, bởi theo vị Phó Cục trưởng Cục Dự trữ quốc gia cho biết: "Năm 2007, các anh ấy có 2 lần rút tiền, một lần là 1,5 tỉ và một lần hơn 800 triệu đồng nhưng sau đó đã trả lại ngay số tiền 1,5 tỉ chỉ còn nợ hơn 800 triệu đồng cộng với khoản vay gần 2 tỉ mới đây.
Tuy nhiên, dù rút ra rồi trả lại ngay vẫn là sai phạm...". Và hơn nữa, trong 3 lần rút vốn dự trữ quốc gia trái quy định, chỉ có lần mới đây họ họp bàn, còn lại 2 lần trước đó lãnh đạo Visalco rút tiền ra mà không cần có ý kiến tập thể. Đến bao giờ khoản tiền mua muối dự trữ quốc gia mới được thu hồi? Dư luận đang chờ câu trả lời từ Bộ NNPTNT.
3. Báo Tuổi trẻ có bài: “Xoay sở giảm lãi suất". bài báo viết: Để chống lạm phát, chính sách vĩ mô nhắm tới mục tiêu phải giảm cầu, trong đó giải pháp tăng lãi suất (LS) là quan trọng nhất. LS vay tiền tăng cao, người ta sẽ giảm bớt vay tiền NH để đầu tư, tiêu dùng. Nay mục tiêu này đã đạt được, cầu đã giảm, đồng thời cũng xuất hiện những dấu hiệu thiếu hụt nguồn cung, doanh nghiệp giảm bớt đầu tư có thể dẫn đến thất nghiệp, ít nhiều ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Mức LS cho vay hiện nay đã từng có ở những năm thập niên 1980. Vì vậy cần phải có giải pháp xử lý để tránh nền kinh tế vừa chịu lạm phát cao lại suy giảm tăng trưởng.
Nhiều nước trên thế giới cũng đang chịu lạm phát cao nhưng không nơi nào LS cao như ở VN. Có điểm khác biệt giữa VN với các nước, đó là họ điều hành LS theo chỉ số lạm phát cơ bản (LPCB) thay vì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) như ở VN. LPCB đã loại trừ những yếu tố biến động bất thường của giá xăng dầu, lương thực - thực phẩm, trong khi CPI bao gồm tất cả biến động này. Phải loại trừ bởi có thể tháng này giá lương thực - thực phẩm tăng bất thường vì một nguyên nhân nào đó nhưng tháng sau mức giá này đã giảm lại. Sự tăng giá này không phải xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ.
Nếu LS huy động cao hơn CPI, để đảm bảo cho người gửi tiền có lãi thì không người vay nào chịu nổi mức LS này. Vì vậy, cần phải xác lập lại, tiến tới điều hành LS theo LPCB để có cơ sở giảm LS huy động và LS cho vay. Trước đây đã có ý kiến đề xuất bỏ CPI và chỉ ban hành chỉ số LPCB. Tuy nhiên không nên bỏ CPI, vẫn duy trì công bố cả hai chỉ số: CPI để làm cơ sở tính toán việc trả lương, thu nhập, còn LPCB để điều hành chính sách tiền tệ. Nhiều nước như Mỹ, Nhật, Trung Quốc… đều có LS cơ bản thấp hơn nhiều so với mức lạm phát. Thái Lan hiện CPI là 9,2%, LPCB là 3,5% và các NH đang huy động với LS dưới 3,5%.
Theo PGS. TS Trần Hoàng Ngân: chỉ số lạm phát cơ bản tại VN ước tính chỉ 11-12%, như vậy mức LS mà các NH huy động khoảng 14% đảm bảo cho người gửi tiền có lãi. Mức LS phù hợp, với huy động là khoảng 14% và cho vay là 18%. Hiện LS cho vay đang áp dụng từ 19-21%, phổ biến là 21%, còn LS huy động khoảng 18%/năm là quá cao. Các giải pháp kiềm chế lạm phát cần phải có thời gian để phát huy tác dụng. Nếu làm kiên quyết thì có thể trong quý 2-2009 NH Nhà nước điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc và tạo lộ trình để đưa LS trở về mức của năm 2007.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn giải phóng có bài "Thanh tra việc bán căn nhà 28/2-28/4 Bùi Viện (quận 1)". Bài báo phản ánh: Ngày 18-8, Thanh tra TPHCM công bố quyết định thanh tra việc bán căn nhà 28/2-28/4 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão (quận 1). Theo đó, Đoàn thanh tra sẽ tiến hành thanh tra theo đơn tố cáo các cá nhân, đơn vị liên quan gồm: Sở Tài chính, Sở Xây dựng, Hội đồng định giá và bán đấu giá tài sản tịch thu sung công quỹ Nhà nước và tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà nước-trong việc bán căn nhà trên.
Nội dung thanh tra tập trung vào làm rõ việc thực hiện quy trình, cách thức tổ chức định và bán đấu giá; việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở căn nhà 28/2-28/4 đường Bùi Viện.
2. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam có bài "Cần mức bồi thường hợp lý cho người bị oan sai". Bài báo phản ánh: “Bất đồng lớn nhất giữa dân và Nhà nước là mức bồi thường” – ông Dương Đăng Huệ - Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế (Bộ Tư pháp) khẳng định.
Thực tế những năm qua giữa yêu cầu bồi thường của dân và sự đáp ứng của Nhà nước có sự chênh lệch rất lớn. “Chúng tôi đã tính toán có trường hợp chỉ đạt 1%, nghĩa là người bị thiệt hại đòi bồi thường cả trăm triệu nhưng chỉ được bồi thường 1 triệu đồng. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng quan trọng nhất là luật pháp qui định không rõ, cho nên dân cứ đòi còn Nhà nước thì bảo đòi như vậy là không có cơ sở pháp lý” - ông Huệ nói. Chính vì vậy, theo ông Huệ, phải qui định mức bồi thường hợp lý. Nhà nước phải “sòng phẳng” với dân, bồi thường dân sự thế nào thì Nhà nước bồi thường cho người bị thiệt hại như thế đó.
Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Khanh (Viện Khoa học Thanh tra) cho rằng từ thực tiễn giải quyết bồi thường cho người bị oan theo Nghị quyết 388 cho thấy, việc khôi phục danh dự thường được thực hiện khá nhanh và mức bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần cũng dễ dàng được bên bị thiệt hại và cơ quan có trách nhiệm bồi thường thống nhất. Vấn đề hiện đang vướng mắc là bồi thường về thiệt hại tài sản. Dự thảo Luật Bồi thường Nhà nước qui định “tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu phải được trả lại ngay” và giải thích khá kỹ về việc xác định mức độ thiệt hại. Tuy nhiên, trong trường hợp thiệt hại về tài sản liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, để cá nhân, tổ chức bị thiệt hại có thể đòi lại tài sản của mình, dự thảo Luật cần qui định rõ về trình tự, thủ tục trả lại tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu để tránh trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường đổ lỗi cho cơ quan đã ra lệnh kê biên, tịch thu, phát mại để từ chối nghĩa vụ bồi thường.
Theo ông Khanh, nên chăng Luật Bồi thường Nhà nước cần qui định theo hướng cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành thương lượng và giải quyết bồi thường nói chung. Riêng đối với thiệt hại về tài sản, cơ quan nào đã thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu thì cơ quan đó chịu trách nhiệm trả lại cho người bị thiệt hại. Nếu có tranh chấp thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện cơ quan đã thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu tài sản ra tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Chia sẻ ý kiến này, ông Hoàng Minh Tiến cũng kiến nghị: Luật Bồi thường Nhà nước cần qui định cụ thể hơn việc xác định cũng như trách nhiệm bồi thường về vật chất, tài sản, qui định định rõ việc bồi thường thiệt hại về vật chất, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất, đặc biệt là trình tự, thủ tục trả lại tài sản đã bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu. Ngoài ra, Luật cũng cần xây dựng tiêu chí cụ thể để tính các thiệt hại về uy tín, cơ hội kinh doanh, thương hiệu… của doanh nghiệp.
Theo ông Nguyễn Thanh Tịnh- Vụ phó Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, cơ chế bồi thường thiệt hại của cơ quan Nhà nước trong hoạt động hành chính qui định thiếu thống nhất, chưa cụ thể, không rõ ràng gây khó khăn cho người dân. Nhiều qui định còn chồng chéo, mâu thuẫn, không hợp lý, không thực tế, do đó người dân khó có khả năng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đã bị gây ra.
Ông Nguyễn Thanh Tịnh đưa ra ví dụ: Pháp luật qui định không rõ, thiếu thống nhất về cơ quan bồi thường Nhà nước dẫn tới khó khăn cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện yêu cầu bồi thường; về phía cơ quan Nhà nước còn có tình trạng né tránh trách nhiệm giải quyết bồi thường; chưa có cơ chế hỗ trợ người bị thiệt hại trong trường hợp họ không xác định được cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết bồi thường.
Ông Tiến đưa ra dẫn chứng về vụ việc của chính mình: “Khi đã tìm được cơ quan có trách nhiệm thì việc thương lượng giữa tôi và cơ quan có trách nhiệm bồi thường không đạt được kết quả và rất tốn thời gian, thậm chí còn xảy ra căng thẳng giữa tôi và cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Mặt khác, người trực tiếp thương lượng với người được bồi thường phải là người có đủ thẩm quyền đại diện Nhà nước. Việc cơ quan có trách nhiệm bồi thường ủy quyền cho một cán bộ chuyên môn sẽ làm hạn chế việc thương lượng về mức bồi thường”.
Còn ông Trần Hữu Huỳnh- Trưởng ban Pháp chế (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) cho rằng, hiện nay chúng ta nên lựa chọn một số lĩnh vực phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội nước ta để giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, lâu dài chúng ta phải hướng đến một Nhà nước pháp quyền là phải chuyển hóa được tất cả các hành vi do công chức gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì phải có trách nhiệm bồi thường. 
Hai chức năng, mục tiêu lớn của Luật Bồi thường Nhà nước là khôi phục lợi ích cho người dân, tổ chức, cá nhân và nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho công chức Nhà nước. Thực tế, trình độ của công chức đã được kiểm định qua các cuộc thi tuyển. Nhiều người lo ngại, trong quá trình giải quyết bồi thường sẽ có hiện tượng “mua bán” ở bên trong.
Đề cập đến vấn đề này ông Dương Đăng Huệ cũng phải “lắc đầu” và giải thích pháp luật của Nhà nước không thể kiểm soát được động cơ của con người mà chỉ kiểm soát được hành vi. Nhưng trong Luật có cơ chế rõ ràng, rằng nếu chứng minh được cán bộ làm việc này là cố ý thì phải bồi thường.
Một điểm quan trọng nữa được ông Huệ đề cập khi nói đến dự thảo Luật Bồi thường Nhà nước là xác định rõ Nhà nước bồi thường cái gì cho dân. Khi tính toán mức bồi thường phải tính hợp lý.
3. Báo điện tử VnEconomy có bài "Đầu cơ có tội hay không?". Bài báo phản ánh: Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính (Bộ Tư pháp) đang đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hình sự năm 1999. Đáng chú ý là phương án đưa ra của tổ biên tập có nhiều điểm mới liên quan đến tội phạm kinh tế như tham ô, hối lộ, tội đầu cơ...
Ông Nguyễn Quốc Việt, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính cho biết, dự án luật sửa đổi sẽ có 42 điều luật được sửa đổi và 16 điều bổ sung mới. Như vậy Luật Hình sự sửa đổi bổ sung sẽ có 360 điều, tuy nhiên những vấn đề đưa ra hiện nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau.
Một trong những sửa đổi có nhiều ý kiến tham gia nhất là quy định về tội đầu cơ (Điều 160). Đầu cơ là việc nắm giữ các loại hàng hóa, tài sản rồi bán nhằm thu lợi khi có sự biến động giá mạnh của chúng. Có nhiều ý kiến nên bỏ tội đầu cơ, vì đây chỉ là hình thức kinh doanh đơn thuần, mà trong kinh doanh phải biết nắm bắt cơ hội để sinh lời. Luật Hình sự năm 1999 quy định hành vi đầu cơ chỉ hình thành tội danh khi lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh mua vét hàng hóa có số lượng lớn nhằm bán lại thu lợi bất chính gây hậu quả nghiêm trọng...
Như vậy, nếu một cá nhân, tổ chức mua hàng hóa rồi “găm” hàng, giữ hàng đợi những biến động mạnh về giá của hàng hóa mới bán để kiếm lãi cao chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong những thời điểm, hoàn cảnh nhất định như khi đất nước đang xảy ra chiến tranh, có thiên tai, dịch bệnh. Ngoài những thời điểm trên việc găm hàng hóa, vơ vét hàng hóa để làm giá không cấu thành tội hình sự.
Theo tổ biên tập, hành vi đầu cơ trong mọi hoàn cảnh có chịu sự điều chỉnh của một số văn bản dưới luật. Tuy nhiên, những văn bản dưới luật chỉ đơn thuần chỉ xử lí hành chính những hành vi đầu cơ nên sức răn đe không lớn. Tổ biên tập đã không bỏ tội đầu cơ, mà đưa thêm hành vi đầu cơ “trong tình hình có khó khăn về kinh tế”, vì đây là hành vi lợi dụng sự khó khăn của xã hội để trục lợi, là cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, khi đưa thêm điều kiện hoàn cảnh để cấu thành hành vi đầu cơ này vào thì phải quy định rõ thế nào là “trong tình hình có khó khăn về kinh tế”. Việc có nên bỏ tội đầu cơ hay không chưa có được ý kiến thống nhất, nhưng số người đầu cơ bị xử lí theo Điều 160 từ khi Luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực đến nay hầu như hiếm xảy ra.
Theo dự thảo thì sẽ bỏ 14/29 tội danh áp dụng mức hình phạt này hiện nay, trong đó có tội tham ô, nhận hối lộ. Đây là điểm có nhiều ý kiến khác nhau, trong thời điểm cả nước đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng liệu việc bỏ án tử hình có làm giảm sức răn đe?
Có ý kiến cho rằng mục đích của việc xử lí hành vi tham nhũng, nhận hối lộ là truy thu lại tài sản. Khi xử lí hành vi này chỉ cần người vi phạm không còn giữ vị trí nào trong bộ máy Nhà nước thì sẽ không thể tái phạm được vì đối tượng của tội danh này có sự khác biệt. Mặt khác, nếu áp dụng hình phạt tử hình lại càng khó thu hồi được tài sản thì Nhà nước vẫn là bên chịu thiệt.
Theo dự thảo, giá trị tài sản và giá trị thiệt hại phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội liên quan đến tài sản sẽ được xác định lại mức định lượng tối thiểu. Như tội chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cố tình huỷ hoại tài sản... trong Luật Hình sự năm 1999 quy định mức định lượng tối thiểu là 500 nghìn đồng thì nay dự thảo nâng lên 2 triệu đồng. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nâng mức tối thiểu từ 1 triệu lên 4 triệu đồng. Tội trốn thuế, gian lận thuế hiện đang quy định mức định lượng tối thiểu là 50 triệu sẽ nâng lên 150 triệu đồng... Những quy định này bắt nguồn từ những biến động của nền kinh tế hiện nay và do có những thay đổi về các mức thuế với sự ra đời của các luật thuế.
4. Báo Thanh niên có bài: “Thủ tướng kết luận về vụ 11 hộ khiếu kiện kéo dài tại Đà Nẵng”. Bài báo viết: Ngày 19.8, lãnh đạo Thành ủy, UBND TP Đà Nẵng và các sở ban ngành liên quan đã tổ chức cuộc gặp 11 hộ dân khiếu kiện kéo dài nhiều năm qua để thông báo kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trên cơ sở kết quả thanh tra, Chính phủ rà soát các vụ việc khiếu nại, Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị và 11 hộ dân thực hiện nghiêm quyết định của UBND TP Đà Nẵng và Bộ Tài nguyên - Môi trường, chấm dứt việc xem xét, giải quyết khiếu kiện.
Theo ông Mai Quốc Bình - Phó tổng Thanh tra Chính phủ, khiếu nại của 11 hộ dân liên quan đến việc thu hồi, đền bù, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư khi UBND TP Đà Nẵng thực hiện các dự án đã được UBND thành phố xem xét, giải quyết kịp thời và có chính sách hỗ trợ thêm nhưng các hộ vẫn tiếp tục khiếu nại. Bộ Tài nguyên - Môi trường đã kiểm tra xem xét và khẳng định các quyết định của UBND TP Đà Nẵng là phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngay trong buổi gặp, đối thoại, ông Nguyễn Bá Thanh - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng mong muốn 11 hộ dân khiếu kiện có sự hợp tác để giải quyết rốt ráo sự việc đã kéo dài nhiều năm qua. Ông Trần Văn Minh - Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng yêu cầu 11 hộ khiếu kiện phải nhận tiền đền bù và nhận đất tái định cư. "Trên tinh thần thiện chí, UBND TP Đà Nẵng đề nghị các hộ có khó khăn, vướng mắc gì cần giải quyết thì kiến nghị thành phố xem xét, hỗ trợ"- ông Minh nói.

          Trên đây là điểm báo sáng ngày 20/8/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.

           Phòng Tổng hợp.



File đính kèm