I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đang phải trả nợ không được thế chấp nhà?. Bài báo phản ánh: Lại thêm một vụ tranh chấp rắc rối liên quan đến Thông tư 14/2010. Cấp sơ thẩm dựa vào thông tư này tuyên hợp đồng thế chấp khi chủ tài sản đang có nghĩa vụ trả nợ là vô hiệu, cấp phúc thẩm lại dựa vào tính hợp pháp của hợp đồng để công nhận.
Tháng 5-2012, TAND thị xã Dĩ An (Bình Dương) đã ra ba quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, vợ chồng ông TQT có nghĩa vụ trả cho ba chủ nợ tổng cộng hơn 25,6 tỉ đồng. Nếu vợ chồng ông T. không có khả năng trả nợ thì Công ty Cổ phần TT có trách nhiệm trả nợ thay. Sau đó vì vợ chồng ông T. không trả nợ, Công ty TT cũng không trả nợ thay nên ba chủ nợ đã yêu cầu Chi cục Thi hành án (THA) dân sự thị xã Dĩ An tổ chức THA.
Tháng 7-2013, Chi cục THA thị xã Dĩ An ra quyết định kê biên ba căn nhà tại quận Tân Phú, quận 6, quận 8 (TP.HCM) của vợ chồng ông T. Trong quá trình kê biên, định giá để phát mại, chi cục phát hiện vợ chồng ông T. đã thế chấp nhà đất cho một ngân hàng để bảo lãnh cho hai công ty vay tổng cộng 37,5 tỉ đồng.
Cho rằng các hợp đồng thế chấp mà vợ chồng ông T. đã ký với ngân hàng là giả tạo nhằm né tránh nghĩa vụ trả nợ, ba chủ nợ của vợ chồng ông T. đã đồng khởi kiện yêu cầu TAND quận 6 (TP.HCM, nơi vợ chồng ông T. đang sống) tuyên các hợp đồng thế chấp này vô hiệu.
Trình bày với tòa, vợ chồng ông T. cho rằng tại thời điểm công chứng các hợp đồng thế chấp, văn phòng công chứng đã kiểm tra trên mạng ngăn chặn của Sở Tư pháp TP.HCM và không phát hiện biện pháp ngăn chặn nào. Các hợp đồng thế chấp đều được công chứng hợp pháp, được thực hiện trước khi có quyết định cưỡng chế kê biên của Chi cục THA thị xã Dĩ An...
Xử sơ thẩm hồi đầu năm nay, TAND quận 6 nhận định ba quyết định công nhận thỏa thuận trả nợ của vợ chồng ông T. của TAND thị xã Dĩ An đã có hiệu lực pháp luật. Chi cục THA thị xã Dĩ An đã kê biên một số tài sản của vợ chồng ông T., đã thông báo bán đấu giá đến lần thứ sáu nhưng vẫn không có người mua. Trong khi đó, vợ chồng ông T. vẫn còn ba căn nhà có giá trị lớn. Vợ chồng ông T. biết ba căn nhà sẽ bị kê biên để THA nhưng vẫn cố tình thế chấp cho ngân hàng để bảo lãnh cho hai công ty vay tín dụng mà không có một điều kiện quyền lợi nào là không chính đáng, không hợp lý.
Theo TAND quận 6, tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010 của Bộ Tư pháp - TAND Tối cao - VKSND Tối cao quy định: “Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải THA chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để THA thì tài sản đó vẫn bị kê biên để THA”. Do vậy việc Chi cục THA thị xã Dĩ An kê biên tiếp ba căn nhà này là có căn cứ. Từ đó, tòa đã tuyên các hợp đồng thế chấp đều vô hiệu theo Điều 129 BLDS năm 2005 (giao dịch vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba).
Vợ chồng ông T. và các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm phía ngân hàng, hai công ty được bảo lãnh vay tiền đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên phúc thẩm ngày 30-6 vừa qua của TAND TP.HCM, đại diện VKS TP đã đồng tình với quan điểm của cấp sơ thẩm và đề nghị tòa giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, TAND TP lại có nhận định khác khi cho rằng các hợp đồng thế chấp đều hợp pháp. Theo tòa, vợ chồng ông T. đã lần lượt thế chấp cả ba căn nhà này cho ngân hàng từ các năm 2009, 2010. Từ tháng 3 đến tháng 5-2013, ba căn nhà lần lượt được giải chấp, sau đó lần lượt được vợ chồng ông T. đem thế chấp bảo lãnh cho hai công ty vay tín dụng. Việc công chứng, đăng ký thế chấp tài sản đều được thực hiện đúng quy định. Việc cưỡng chế kê biên để THA ba căn nhà này là không có căn cứ nên TAND TP đã sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu của phía nguyên đơn.
Trước đây, Pháp Luật TP.HCM từng có nhiều bài phản ánh sự bất hợp lý trong quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch 14/2010. Rất nhiều trường hợp người mua tài sản (chủ yếu là nhà đất) hợp pháp, ngay tình (có công chứng, đúng thủ tục) bỗng dưng một ngày bị cơ quan THA kê biên để đảm bảo nghĩa vụ THA của chủ cũ. Điều đáng nói là nếu có khiếu nại thì người mua tài sản hợp pháp, ngay tình thường bị cơ quan chức năng liên quan viện dẫn Thông tư 14 để bác bỏ.
Trong vụ kiện trên, tòa sơ thẩm đã viện dẫn Thông tư 14, kết luận các hợp đồng thế chấp vô hiệu vì giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người khác. Cơ quan THA có căn cứ khi kê biên ba căn nhà được giải chấp, thế chấp lại sau khi có quyết định công nhận thỏa thuận của tòa.
Tuy nhiên, tòa phúc thẩm lại không hề dựa vào Thông tư 14 mà chỉ căn cứ vào tính hợp pháp của các hợp đồng thế chấp để công nhận chúng. Dù cách giải quyết này không phổ biến nhưng đảm bảo được quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người thứ ba ngay tình.
Trao đổi với chúng tôi, một số thẩm phán cho biết vẫn có những trường hợp nếu họ có cơ sở xác định người thứ ba mua tài sản là thật, không phải bắt tay với chủ tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì họ cũng linh động xét xử như tòa phúc thẩm trong vụ kiện trên.
Thiết nghĩ thực tiễn đã xuất hiện hai quan điểm xét xử khác nhau nên TAND Tối cao cần có tổng kết, hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, đảm bảo sự công bằng.
2. Báo Công an thành phố Đà Nẵng có bài Ký kết quy chế liên ngành trong công tác thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Để tăng cường phối hợp trong công tác thi hành án dân sự (THADS) trên địa bàn TP và những vấn đề liên quan, ngày 4-7, Cục THADS, CATP, TAND TP, VKSND TP tổ chức lễ ký kết "Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác THADS". Quy chế phối hợp liên ngành gồm các nội dung như: Phối hợp trong việc hướng dẫn quyền yêu cầu THADS, cấp và chuyển giao bản án, quyết định. Phối hợp giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định; trả lời kiến nghị; giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong THADS.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật tuần 30/6 - 4/7/2014:
- Quy định đấu giá, chuyển nhượng quyền sử dụng kho số viễn thông, tên miền Internet
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 38/2014/QĐ-TTg quy định về đấu giá, chuyển nhượng quyền sử dụng kho số viễn thông, tên miền Internet.
Về đấu giá quyền sử dụng kho số viễn thông, Quyết định quy định mã, số viễn thông được đấu giá quyền sử dụng là mã, số có trong Quy hoạch kho số viễn thông đã được Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt kế hoạch đấu giá. Giá khởi điểm của mã, số, khối số viễn thông được đấu giá xác định theo nguyên tắc căn cứ vào giá trị sử dụng của mã, số, khối số viễn thông ở thời điểm đấu giá, phí sử dụng kho số viễn thông phải nộp theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí...
Còn việc xác định tên miền Internet mang ra đấu giá được thực hiện thông qua quá trình khảo sát nhu cầu sử dụng tên miền Internet. Các tên miền Internet có nhiều nhu cầu đăng ký sử dụng sẽ được xem xét mang ra đấu giá. Giá khởi điểm tên miền Internet được đấu giá xác định căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia trả giá, lệ phí đăng ký tên miền Internet theo quy định của Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó, Quyết định cũng quy định về việc chuyển nhượng quyền sử dụng kho số viễn thông, tên miền Internet. Theo đó, các tổ chức, cá nhân không được phép chuyển nhượng tên miền Internet đối với tên miền được ưu tiên bảo vệ, bao gồm tên miền là tên gọi của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và tên miền khác liên quan đến lợi ích, an ninh chủ quyền quốc gia do Bộ Thông tin và Truyền thông quy định; tên miền Internet đang xử lý vi phạm, đang trong quá trình giải quyết tranh chấp hoặc tên miền Internet đang bị tạm ngừng sử dụng...
- Quy hoạch hệ thống thông tin duyên hải
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thông tin duyên hải Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Mục tiêu của Quy hoạch là phát triển hệ thống thông tin duyên hải nhằm bảo đảm cung cấp dịch vụ thông tin và truyền thông cho người và phương tiện hoạt động trên các vùng biển, đảo; phục vụ công tác quản lý điều hành, phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn; an toàn, an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường biển; phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế biển, đảo.
- Quy định lựa chọn nhà thầu qua mạng
Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, trong đó quy định lựa chọn nhà thầu qua mạng.
Theo đó, lựa chọn nhà thầu qua mạng được thực hiện đối với các gói thầu dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp và hỗn hợp có hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp và chỉ định thầu.
Nguyên tắc áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng là khi thực hiện lựa chọn nhà thầu qua mạng, bên mời thầu, nhà thầu phải thực hiện đăng ký một lần trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Theo Nghị định, chi phí trong lựa chọn nhà thầu qua mạng bao gồm: Chi phí tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia; chi phí nộp hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; chi phí nhà trúng thầu; chi phí sử dụng hợp đồng điện tử và chi phí sử dụng hệ thống mua sắm điện tử. Các chi phí nêu trên thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính...
- Quyết liệt triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin
Tại Thông báo 249/TB-VPCP, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương cần thực hiện quyết liệt, triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển CNTT, coi đây là phương thức phát triển mới để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công việc, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của quốc gia.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần trực tiếp chỉ đạo việc tin học hóa xử lý hồ sơ công việc, xây dựng Cổng thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công trực tuyến đến người dân và doanh nghiệp.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Phạt mũ bảo hiểm: Rốt cuộc các bộ muốn gì?. Bài báo phản ánh: Các bộ ở đây gồm có Công an, GTVT, Công Thương, Khoa học và Công nghệ - tức là bốn bộ đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 06/2013 hướng dẫn thế nào là mũ bảo hiểm (MBH) cho người đi xe máy.
Ngoài ra, tham gia vào câu chuyện “rắc rối MBH” còn có Ủy ban ATGT Quốc gia với việc ban hành Kế hoạch số 69/2014 lưu ý: “Từ 1-7-2014 xử lý người đi xe máy vi phạm việc đội MBH bao gồm phạt tiền và yêu cầu giao nộp để tiêu hủy những chiếc mũ không phải MBH” (!)
Theo Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì “người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe máy phải đội MBH có cài quai đúng quy cách”. Sau đó Nghị định 34/2010 và 71/2012 của Chính phủ đưa ra quy định xử phạt “người điều khiển, người ngồi trên xe không đội MBH hoặc đội MBH không cài quai đúng quy cách”. Nay Nghị định 171/2013 diễn giải thêm với quy định phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe không đội “MBH cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “MBH cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách.
Đáng lưu ý là trước khi có Nghị định 171 thì bốn bộ nêu trên đã họp bàn và thống nhất ký kết Thông tư 06 để siết chặt việc sử dụng MBH. Với mục đích loại bỏ những trường hợp đối phó, tiếng là đội MBH nhưng như là không đội (do đội mũ dỏm, mũ “nhái” chất lượng kém hoặc mũ bảo hộ lao động, nón cối…), Thông tư 06 chỉ rõ thế nào là MBH “xịn”. Mũ phải đủ ba bộ phận là vỏ mũ, lớp hấp thụ xung động, quai mũ, đồng thời phải có tem hợp quy CR và nhãn “MBH dành cho người đi mô tô, xe máy”. Nói ngắn gọn, MBH dành cho người đi xe máy là mũ đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo vệ được cái đầu của họ.
Tưởng rõ ràng hơn, ai ngờ từ các yêu cầu này và những nội dung đã nêu của Nghị định 171, Kế hoạch 69 mà đang có nhiều cách hiểu khác nhau về cái gọi là vi phạm không đội “MBH cho người đi mô tô, xe máy”:
1. Đội mũ có hình dáng MBH nhưng chất lượng kém.
2. Đội mũ bảo hộ lao động, mũ hơi, mũ dành cho người đi xe đạp, mũ cối quân đội...
3. Không đội gì (hoặc chỉ đội nón vải, nón lá…).
Cả ba đều đúng hay chỉ có 2, 3? Chỉ biết là hiện mỗi nơi làm mỗi kiểu khiến mọi người rất hoang mang, lo lắng về thông tin “phạt MBH dỏm”. Nếu Đà Nẵng, TP.HCM, Hà Nội… chỉ nhắc nhở chứ chưa xử phạt người đội MBH dỏm vì “không thể lật mũ của dân ra kiểm tra từng chi tiết để phân tích xem có phải là MBH thật hay không” thì chiều 2-7, tại Bình Thuận, một người dân đội MBH dỏm đã bị CSGT huyện Hàm Thuận Bắc lập biên bản vi phạm với mức phạt đưa ra là 150.000 đồng (Pháp Luật TP.HCM ngày 5-7). Ai nấy đều thấy huyện này làm không giống các địa phương khác. Song nếu hỏi huyện này có làm sai hay không, nhất là khi đối chiếu với các văn bản kể trên, câu trả lời chưa hẳn đã đồng nhất.
Tại buổi họp báo Chính phủ tối 1-7, thông qua trả lời của Bộ trưởng-Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng có gửi gắm quan điểm “lúc này chỉ xử phạt hai hành vi là không đội MBH và đội MBH không cài quai đúng quy cách, còn việc xử lý mũ giả, kém chất lượng là vấn đề khác”. Trao đổi với VNExpress, một vụ phó Vụ Pháp chế Bộ Công an cho biết: “Đã kiểm tra các quy định của pháp luật và của ngành thì không thấy văn bản nào phạt người đội MBH không đạt chuẩn”, “đó chỉ là sự hiểu nhầm của dư luận”… Cả ba vị nói rất hợp lòng dân nhưng có đúng với các quy định đã nêu, trong đó có Thông tư 06 mà chính hai bộ Công an và GTVT đã tham gia ký kết để từ đó Nghị định 171 minh định “MBH cho người đi mô tô, xe máy” chứ không còn nói chung chung là MBH? Lý giải thế nào khi lúc ban hành quy định thì hai bộ này muốn phạt, đến lúc triển khai và bị dư luận phản ứng thì lại bảo không?
Mục đích quản lý là đúng nhưng chỉ có mỗi chiếc MBH mà lại quá rối rắm về chính sách lẫn việc thực thi. Giờ phải tính sao để các văn bản không còn mập mờ gây khó cho cả người thi hành lẫn người không thi hành?