ĐIỂM TIN BÁO CHÍ NGÀY 01/7 VÀ SÁNG NGÀY 02/7/2014

02/07/2014
Trong ngày 01/7 và đầu giờ sáng ngày 02/7/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Petrotimes có bài: Bắt khẩn cấp một thẩm phán tòa án vì xâm phạm hoạt động tư pháp. Bài báo phản ánh: Ông Lại Viết Quang -  Phó Cục trưởng Cục điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cho biết: Cơ quan này vừa tiến hành bắt, khám xét khẩn cấp một thẩm phán tòa án vì xâm phạm hoạt động tư pháp.

Người bị bắt giữ là ông Nguyễn Duy Hiệp (sinh năm 1975), quyền Chánh án Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông Hiệp bị bắt giữ vào ngày 30/6/2014 để điều tra về hành vi nhận hối lộ. Việc khám xét nơi ở và nơi làm việc được thực hiện ngay sau đó.

Theo đơn tố giác của công dân, các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Hà Nam và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã phát hiện ra việc ông Nguyễn Duy Hiệp có hành vi xâm phạm nghiêm trọng hoạt động tư pháp.

Ông Hiệp đã cố tình dùng nhiều thủ đoạn làm sai lệch hồ sơ và nhận số tiền hối lộ 235 triệu đồng nhằm mục đích giải nhẹ án phạt cho bị cáo trong một vụ án.

Nghiêm trọng hơn, với quyền hạn là thẩm phán, Chánh án TAND huyện, Nguyễn Duy Hiệp đã gây áp lực lên cả các cơ quan tố tụng khác.

            2. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Sở KHĐT tỉnh Thanh Hóa bị tố làm trái trình tự và thủ tục ĐKKD. Bài báo phản ánh: Bức xúc vì đang đương chức Chủ tịch của Công ty CP Vĩnh Tài nhưng Sở KHĐT tỉnh Thanh Hóa lại để cho “người ngoài” ký thay đổi Đăng ký kinh doanh với chức vụ là Chủ tịch; Do đó, ông Nguyễn Văn Tài đã gửi đơn đề nghị phản ánh đến nhiều Cơ quan chức năng can thiệp, xử lý.   

Báo Pháp luật Việt Nam nhận được đơn đề nghị phản ánh của ông Nguyễn Văn Tài (SN 1956, Khu phố 2, phường Lam Sơn, Thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa) - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Vĩnh Tài về việc: “Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hóa thực hiện việc thay đổi đăng ký kinh doanh của Công ty Cổ phần Vĩnh Tài trái quy định pháp luật về trình tự và thủ tục thay đổi Đăng ký kinh doanh gây thiệt hại cho các Cổ đông. 

Theo Đơn đề nghị phản ánh, ngày 11 tháng 5 năm 2012, các Cổ đông Công ty đã tiến hành Đại hội cổ đông (gọi tắt là ĐHĐCĐ) để tiến hành tăng vốn Điều lệ của Công ty từ 2.000.000.000 VNĐ (hai tỷ đồng) lên dự kiến thành 15.600.000.000 VNĐ (mười lăm tỷ sáu trăm triệu đồng). Việc tăng vốn của Công ty bằng hình thức Công ty phát hành thêm 136.000 Cổ phần để chào bán cho các Cổ đông mới. Các Cổ đông mới dự kiến mua Cổ phần Công ty phát hành theo danh sách và tỉ lệ dự kiến được ghi nhận trong Biên bản họp ĐHĐCĐ của Công ty ngày 11/5/2012. 

Trong nội dung biên bản và Quyết định của ĐHĐCĐ ngày 11/5/2012, chúng tôi quyết định về tăng vốn Điều lệ; Dự kiến thay đổi Cổ đông khi Công ty chuyển nhượng Cổ phần phát hành thêm; Thay đổi địa chỉ trụ sở chính và dự kiến sẽ thay đổi Người đại diện theo pháp luật của Công ty từ ông Nguyễn Văn Tài - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Vĩnh Tài sang ông Nguyễn Tuấn Hiệp (SN 1962, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội) khi ông Hiệp là Cổ đông của Công ty. Sau đó, sẽ tiến hành thực hiện theo đúng quy định pháp luật và Điều lệ Công ty. 

Qua tìm hiểu, theo quy định tại Điều 25 Điều lệ Công ty, Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Vĩnh Tài. Mặt khác, tại khoản 1 Điều 43 Điều lệ Công ty Cổ phần Vĩnh Tài về Chủ tịch HĐQT thì “Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch HĐQT. Chủ tịch được bầu trong số thành viên Hội đồng quản trị. Chủ tịch hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc Công ty nếu không vi phạm điều kiện luật định”. 

Cho rằng sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thanh Hóa làm trái quy định pháp luật về trình tự và thủ tục thay đổi Đăng ký kinh doanh gây thiệt hại cho các Cổ đông. Ông Nguyễn Văn Tài đưa ra các dẫn chứng: “Tại thời điểm ngày 11/5/2012, tôi vẫn là Chủ tịch Hội đồng quản trị vì chưa có bất kỳ biên bản hay Quyết định nào của HĐQT bãi miễn tư cách Chủ tịch HĐQT. Thế mà trong bộ Hồ sơ đề nghị thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Vĩnh Tài ngày 11/5/2012 lại do ông Nguyễn Tuấn Hiệp tự ý ký Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật với chức danh Chủ tịch HĐQT. Đây là hành vi giả mạo của ông Nguyễn Tuấn Hiệp nhằm thực hiện thủ tục thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty”. 

“Tôi đã gửi đơn đề nghị đến Phòng ĐKKD của Sở kế hoạch và Đầu tư đề nghị áp dụng quy định pháp luật tại khoản 1 Điều 60 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ để khôi phục lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp lần đầu ngày 19/10/2009. Thế nhưng đến thời điểm này, tôi vẫn chưa nhận được bất kỳ thông tin phản hồi, giải quyết của Cơ quan Đăng ký kinh doanh” – ông Hiệp thở dài. 

Luật sư Chung, Đoàn luật sư Thành Phố Hà Nội.  cho biết: “Công ty Cổ phần Tấn Tài thực hiện việc Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật vào thời điểm tháng 5/2012. Do đó, áp dụng quy định tại Thông tư 14/2010/TT-BKH ngày 4/6/2010 là “Hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về Đăng ký doanh nghiệp đang có hiệu lực”.

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 14 Thông tư 14/2010/TT-BKH thì người ký thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật là một trong những cá nhân sau: “Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần. Trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì người ký thông báo là Chủ tịch Hội đồng quản trị mới được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu”.

Nếu thời điểm ký thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật gửi Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Thanh Hóa mà ông Nguyễn Tuấn Hiệp chưa được bầu là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Vĩnh Tài thì ông Nguyễn Tuấn Hiệp ký thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật là không đúng quy định.

Hành vi này của ông Nguyễn Tuấn Hiệp là hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 11 Luật doanh nghiệp về các hành vi bị cấm và điểm a khoản 2 Điều 165 Luật doanh nghiệp.

Cũng theo luật sư Chung, Thẩm quyền của Phòng ĐKKD của Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hóa khi phát hiện sự việc được quy định tại khoản 1 Điều 60 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về Đăng ký doanh nghiệp có quy định: “ Nếu Phòng Đăng ký kinh doanh phát hiện nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp là giả mạo thì ra thông báo về hành vi vi phạm của doanh nghiệp và hủy bỏ những thay đổi trong nội dung đăng ký doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở các thông tin giả mạo và khôi phục lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp trên cơ sở hồ sơ hợp lệ gần nhất, đồng thời thông báo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật”.

Vậy Phòng ĐKKD Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hóa cần kiểm tra và xác minh các thông tin tố cáo của ông Nguyễn Văn Tài - Chủ tịch HĐQT có căn cứ và đúng pháp luật hay không. Nếu thông tin ông Nguyễn Văn Tài cung cấp là đúng thì phải áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 60 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP để giải quyết đó là hủy bỏ những thay đổi trong nội dung đăng ký doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sỏ thông tin giả mạo của ông Nguyễn Tuấn Hiệp và khôi phục lại giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được cấp trên cơ sở hồ sơ hợp lệ gần nhất.

            3. BáoTin tức có bài: Còn nhiều Hủ tục trong hôn nhân. Địa phương cần quyết liệt hơn. Bài báo phản ánh: Theo ông Nông Đình Quy - Chủ tịch UBND xã Yên Sơn, tình trạng hôn nhân cận huyết thống và tảo hôn một phần là do dân trí nơi đây quá thấp, một phần do nghèo quá nên không ai chịu về làm dâu, chỉ có anh em họ hàng thông cảm cho nhau nên mới gả bán cho nhau. “Tuy nhiên, theo những gì chúng tôi thấy thì không hẳn là do nghèo và dân trí thấp mới có hôn nhân cận huyết thống.

            Ngay như gia đình chị Nhung và anh Đôn, trước khi lấy nhau gia đình anh Đôn thuộc loại khá giả trong thôn, có nhiều ruộng đất và trâu bò, nhưng do tâm lý sợ phải chia sẻ tài sản và con cái với dòng họ khác nên mới ép gả con cái trong họ lấy nhau. Chỉ khi lấy nhau rồi, chẳng những không giữ được của cải mà họ còn làm cho nòi giống của mình ngày một teo tóp. Thậm chí có trường hợp như gia đình ông Hoàng Văn Dinh và Hồ Văn Ngài, thì đâu phải do dân trí thấp, bản thân ông Ngài là đảng viên, nguyên là thiếu tá công an về nghỉ hưu nhưng vẫn ép con cháu mình phải lấy nhau”, ông Nông Đình Quy cho biết.

            Bà Lục Thị Thắng - Giám đốc Chi cục Dân số tỉnh Cao Bằng, khẳng định: Tổng cục Dân số, Chi cục Dân số tỉnh Cao Bằng đã cùng vào cuộc, lập phòng tuyến, dựng đề án, ra quân ngăn chặn nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết với những hệ lụy đau lòng của nó. Tuy nhiên, việc thay đổi suy nghĩ của đồng bào không thể một sớm, một chiều mà làm được.

Bà Thắng chia sẻ: Năm 2009, tiến hành khảo sát 4 xã của huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) thì có xã như xã Vũ Nông có tới 90% số cặp kết hôn trong năm là tảo hôn, hay xã Phan Thanh tỷ lệ là 80% - số cặp kết hôn trong năm là tảo hôn. Và đến nay, kết quả trong các báo cáo nào của ngành dân số và hầu hết các cấp chính quyền vẫn là các cụm từ: “Đã giảm đáng kể” và “tuy nhiên, một số nơi vẫn còn khá phổ biến”, còn cũng chưa đưa ra được tỷ lệ giảm chính xác là bao nhiêu.

            Còn bà Hoàng Thị Hồng Vân - Phó Giám đốc Trung tâm dân số và kế hoạch hóa gia đình huyện Thông Nông cho biết: “Thực trạng ở địa phương chúng tôi nắm rất rõ, nhưng giải pháp đưa ra thì phải thú thật chưa mấy hiệu quả. Chúng tôi cũng đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đến từng hộ dân, nhưng nhận thức người dân vẫn chưa có nhiều biến chuyển. Thậm chí, đến nay nhiều cộng tác viên dân số còn xin nghỉ vì một phần tuyên truyền không hiệu quả, một phần do thù lao quá thấp”.

Giải quyết những hủ tục nêu trên dĩ nhiên là vô cùng khó khăn, nhưng không phải là bài toán không có lời giải. Ví dụ điển hình là việc tuyên truyền như "mưa dầm thấm lâu" đã mang lại những kết quả khả quan đối với đồng bào Mông Xanh ở xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn (Lào Cai). Trước đây, tập tục hôn nhân của dân tộc này chỉ cho phép lấy người cùng dân tộc, vì vậy các cặp vợ chồng cùng hoặc cận huyết thống rất phổ biến. Hậu quả là giống nòi bị thoái hóa, tỷ lệ dị tật, thiểu năng ở mức rất cao, phần lớn đồng bào Mông Xanh trưởng thành chỉ cao khoảng 1,50 m. Nhờ sự quyết liệt trong công tác tuyên truyền vận động của cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, tập tục này tới nay đã cơ bản được xóa bỏ. Đã có những chàng trai, cô gái người Mông Xanh đi lấy vợ, lấy chồng người dân tộc khác.

4. Báo Dân trí có bài: Bài 56 vụ 194 phố Huế: Hệ thống hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Ngọc Chung. Bài báo phản ánh: Sau 3 năm kể từ khi nhà 194 Phố Huế bị cưỡng chế trái pháp luật và sau 1 năm từ khi VKSND Tối cao ban hành bản cáo trạng truy tố Trịnh Ngọc Chung, hệ thống hành vi phạm tội của bị cáo đã dần lộ rõ với 6 điểm sai phạm nghiêm trọng.

Sau 3 năm kể từ khi nhà 194 Phố Huế bị cưỡng chế trái pháp luật và sau 1 năm kể từ khi VKSND tối cao ban hành bản Cáo trạng số 18/VKSTC-V1A ngày 08/7/2013 truy tố Trịnh Ngọc Chung - nguyên Trưởng Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng - phạm tội “Ra quyết định trái pháp luật” theo Khoản 3 Điều 296 BLHS, ngày 17/6/2014, TAND TP Hà Nội đã chính thức có Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 7 - 8/7/2014.

Căn cứ theo Cáo trạng truy tố bị can Trịnh Ngọc Chung của VKSND Tối cao và hồ sơ vụ án, luật sư Trương Quốc Hòe - Trưởng văn phòng luật sư Interla đã hệ thống lại 6 hành vi phạm tội được kết luận là đặc biệt nghiêm trọng của Trịnh Ngọc Chung trong vụ cưỡng chế nhà 194 phố Huế:

Theo hồ sơ vụ án, Công ty TNHH Bắc Sơn có ký Hợp đồng tín dụng số 01/NHCG với Ngân hàng công thương chi nhánh Cầu Giấy vay 10 tỷ đồng (Mười tỷ đồng chẵn) và Hợp đồng bảo lãnh thế chấp tài sản, theo đó:

                  - Thế chấp nhà - đất 194 Phố Huế để đảm bảo cho số tiền vay là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng chẵn) và toàn bộ lãi phát sinh;

                  - Thế chấp toàn bộ dây chuyền lắp ráp động cơ và toàn bộ giá trị hình thành của dự án “Xây dựng nhà xưởng và các thiết bị” để đảm bảo cho số tiền là vay 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng chẵn) và toàn bộ lãi phát sinh (là nhà xưởng xây dựng trên thửa đất tại xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, TP Hà Nội).

Tại Công văn số 1627/CV-GTBA ngày 06/8/2012 gửi Cục THA dân sự TP Hà Nội về việc giải thích bản án số 82/2012/KDTM-PT ngày 06/5/2012, TANDTC đã khẳng định: “đối chiếu với các thỏa thuận của hai hợp đồng, thì tài sản bảo lãnh thế chấp và cầm cố trên mỗi tài sản được đảm bảo cho số tiền vay là 5.000.000.000 đồng tiền gốc và lãi phát sinh ở từng hợp đồng bảo lãnh, thế chấp và cầm cố”

Thế nhưng trước đó, ngày 07/7/2011, nguyên Chấp hành viên Trịnh Ngọc Chung đã bất chấp các quy định của pháp luật, cố ý làm trái để tiến hành cưỡng chế nhà đất 194 Phố Huế trị giá hàng chục tỷ đồng để thi hành án đối với khoản vay 5 tỷ đồng nói trên, trong khi công ty Bắc Sơn luôn có nguyện vọng được dùng tài sản tại Đông Anh trị giá hơn bốn mươi tỷ đồng để đảm bảo cho nghĩa vụ thanh toán của các khoản nợ của công ty. Những sai phạm của Trịnh Ngọc Chung thể hiện sự cố ý làm trái đến cùng, gây thiệt hại rất lớn về vật chất lẫn tinh thần cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như gây mất niềm tin sâu sắc trong quần chúng nhân dân, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Trịnh Ngọc Chung đã tiến hành cưỡng chế thi hành án khi không còn căn cứ để thi hành án nữa, bởi Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM đã bị VKSNDTC Kháng nghị Giám đốc thẩm và đã bị TANDTC tuyên hủy, nghĩa là đã không còn hiệu lực pháp luật.

Ngày 04/9/2009, Viện trưởng VKSNDTC đã ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 29/QĐ-KNGĐT-V12 đối với Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM, trong đó nêu rõ: “Tạm đình chỉ thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 143/2007/QĐST-KDTM ngày 20/12/2007 của TAND TP Hà Nội chờ kết quả giám đốc thẩm” Do vậy, sau khi có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền, cơ quan Thi hành án đã không ban hành Quyết định tạm đình chỉ THA theo quy định tại Khoản 1 Điều 49 Luật thi hành án dân sự năm 2008. Sau đó, do không có quyết định rút kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền kháng nghị nên cũng không có căn cứ để cơ quan THA ban hành quyết định tiếp tục THA theo Khoản 3 Điều 49 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Ngày 21/12/2010, TANDTC đã có Quyết định giám đốc thẩm số 18/2010/KDTM-GĐT xử hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 143/2007/QĐST-KDTM ngày 20/12/2007 của TAND TP Hà Nội. Vậy theo quy định tại điểm d, Khoản 1 Điều 50 Luật này thì:

“1. Thủ trưng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp sau đây:

d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ”

Và theo quy định tại Điều 136 Luật Thi hành án dân sự Trường hợp quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới”.

Do vậy trong trường hợp này Trịnh Ngọc Chung phải ban hành Quyết định đình chỉ vụ án cho đến khi có một bản án mới hoặc một quyết định mới có hiệu lực pháp luật thì mới được tiếp tục triển khai THA theo nội dung bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sau cùng. Thế nhưng vị Chấp hành viên này đã cố ý thực hiện đến cùng hành vi cưỡng chế THA trái pháp luật đối với nhà 194 Phố Huế, dù các quy định của Luật ngành đã quy định quá rõ ràng, cụ thể.

Thứ hai, Tài sản kê biên trong vụ án này là nhà đất 194 Phố Huế không đủ điều kiện để kê biên theo quy định pháp luật.

- Nhà số 194 Phố Huế do ông Hoàng Đình Mậu mua lại của nhiều hộ xung quanh, sau khi mua đã xảy ra tranh chấp và được TAND TP Hà Nội xét xử tại bản án số 243 ngày 18, 20/10/1999. Sau đó, ngày 20/01/2000, Đội THA quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội (nay là Chi cục THADS quận Hai Bà Trưng) đã có Quyết định phong tỏa tài sản số 02/TB-THA để THA bản án số 243 nói trên và Quyết định này cho đến nay vẫn chưa bị hủy bỏ, vẫn còn nguyên hiệu lực đến tận thời điểm bị nguyên Chấp hành viên Trịnh Ngọc Chung chỉ đạo cưỡng chế THA trái pháp luật. Theo quy định của pháp luật thì tài sản đang bị kê biên sẽ không được thế chấp, cầm cố, chuyển dịch... do vậy đây cũng chính là căn cứ để cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và TANDTC đã tuyên hủy Quyết định số 143/2007 về sau.

- Mặt khác, cho đến thời điểm kê biên thì nhà đất 194 Phố Huế vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy căn cứ vào đâu mà bị cáo Trịnh Ngọc Chung lại kiên quyết chỉ đạo cưỡng chế THA nhà số 194 Phố Huế?

- Suốt cả quá trình THA, bao gồm cả quá trình kiểm tra hiện trạng nhà đến việc lập biên bản kê biên nhà 194 Phố Huế, Trịnh Ngọc Chung đều không tiến hành vẽ sơ đồ thể hiện ranh giới nhà 194 Phố Huế với nhà 192 Phố Huế, để xác định chính xác diện tích nhà 194 Phố Huế trước khi kê biên.

Mặc dù chưa xác định rõ diện tích kê biên nhà 194 Phố Huế, nhưng ngày 24/4/2009, Trịnh Ngọc Chung đã tiến hành kê biên một phần diện tích nhà 194 Phố Huế là 139,68m2 (phần diện tích từ tầng 1 đến tầng 3, cụ thể chiều rộng mặt tiền là 6.58m2 từ ngoài đường nhìn vào phía tay phải cạnh nhà số 192 Phố Huế; chiều dài là 20.62m2; nhà vệ sinh 2.2m2 x 1.82m).

Tuy nhiên theo hồ sơ nhà đất 194 Phố Huế mà ông Hoàng Đình Mậu dùng để thế chấp cho khoản vay của công ty Bắc Sơn thì tờ khai lệ phí trước bạn nhà 194 Phố Huế có diện tích là 133m2, diện tích sử dụng là 365.64m2. Thế nhưng bản vẽ do ông Mậu cung cấp thì lại thể hiện: diện tích tầng 1: 174m2; tầng 2: 170m2; tầng 3: 170m2. Hồ sơ do UBND phường Ngô Thì Nhậm quản lý thì diện tích nhà 194 Phố Huế lại là 122.5m2.

Còn theo Biên bản kiểm tra hiện trạng do Trịnh Ngọc Chung lập ngày 20/4/2009 thì chiều ngang toàn bộ nhà là 12.58m (cửa hàng tầng 1), chiều dài toàn bộ nhà là 20.87m, hoàn toàn khác với diện tích mà hồ sơ nhà đất do UBND phường Ngô Thì Nhậm quản lý cũng như khác với diện tích tại Biên bản kê biên ngày 24/4/2009.

Như vậy, với  việc không tiến hành vẽ sơ đồ xác định ranh giới nhà 194 Phố Huế, cũng như việc có sự sai số hoàn toàn về số liệu diện tích nhà 194 Phố Huế đã khiến cho không thể thi hành được Quyết định số 143/QĐST-KDTM. Thế nhưng Trịnh Ngọc Chung vẫn quyết tâm thực hiện đến cùng hành vi cưỡng chế trái pháp luật này.

- Theo Cáo trạng số 18/VKSTC-V1A thì “nội dung biên bản ngày 30/3/2009 ghi nhận trong thời hạn 1 tháng từ ngày 30/3/2009 ông Minh được quyền bán nhà 194 Phố Huế để trả nợ ngân hàng nhưng đến ngày 24/4/2009 (chưa được 1 tháng) Trịnh Ngọc Chung đã ký Quyết định thành lập Hội đồng kê biên tài sản đồng thời tiến hành lập biên bản kê biên nhà 194 Phố Huế để chuyển bán đấu giá nhà 194 Phố Huế, trong khi chưa có ý kiến của gia đình ông Minh” (Cáo trạng – trang 4)

- Khi ông Hoàng Đình Mậu – nguyên Giám đốc công ty Bắc Sơn qua đời, theo Điều 632, Điều 636, và Điều 637 Bộ luật Dân sự thì các đồng thừa kế của ông Mậu đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với khối di sản mà ông Mậu để lại kể từ thời điểm mở thừa kế, bao gồm cả nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ hợp pháp theo quy định pháp luật. Tuy nhiên có một điều đáng chú ý là cho đến thời điểm bị cưỡng chế THA trái pháp luật, tất cả những người thừa kế này đều chưa thực hiện thủ tục mở thừa kế tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi tiến hành kê biên nhà 194 Phố Huế, Trịnh Ngọc Chung đã không hỏi hết ý kiến của toàn bộ những người thừa kế là một hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến quyền – lợi ích hợp pháp của họ.

Cụ thể tại buổi kê biên tài sản chỉ có bà Nguyễn Thị Thu Hồng là một trong sáu người thừa kế của ông Mậu có mặt còn những người khác vắng mặt và đương nhiên không có chữ ký cũng như ý kiến trong Biên bản kê biên. Có thể thấy, việc làm của Trịnh Ngọc Chung đã vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về kê biên tài sản trong quá trình THA.

Mặt khác, những người thừa kế của ông Mậu hiện đều đang sinh sống tại nhà 194 Phố Huế và đây là nhà ở duy nhất của họ nên họ là đối tượng được ưu tiên mua tài sản đấu giá nếu như ngôi nhà này bị buộc phải phát mại. Thế nhưng khi tiến hành bán đấu giá tài sản, cơ quan THA cũng như đơn vị bán đấu giá đã không hề thông báo cho những người thừa kế của ông Mậu được biết và tham gia phiên đấu giá. Điều này không chỉ vi phạm nguyên tắc công khai, minh bạch của quá trình bán đấu giá tài sản mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của những người có quyền – nghĩa vụ liên quan nói trên.

Thứ ba, Trịnh Ngọc Chung đã kiên quyết chỉ đạo cưỡng chế THA trái pháp luật dù đã gặp phải sự phản đối - không đồng thuận của đại diện Viện kiểm sát trong quá trình kê biên tài sản.

Trong cuộc họp Hội đồng cưỡng chế THA (tại trụ sở UBND phường Phố Huế) trước khi triển khai công tác cưỡng chế, đại diện VKSND quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội qua kiểm sát đã có ý kiến, yêu cầu Chi cục THA dân sự quận Hai Bà Trưng làm rõ một số nội dung liên quan trước khi tiến hành cưỡng chế THA. Sau đó, Chi cục THA dân sự quận Hai Bà Trưng không tiến hành làm rõ theo yêu cầu nên VKSND quận Hai Bà Trưng đã thông báo sẽ không tham gia kiểm sát việc cưỡng chế, giao nhà 194 Phố Huế và không đến địa điểm cưỡng chế THA. Thế nhưng, trong tất cả các biên bản do Chi cục THA dân sự quận Hai Bà Trưng lập như: Biên bản phá khóa, Biên bản cưỡng chế giao nhà, Biên bản liệt kê tài sản... đều ghi có sự tham gia kiểm sát của đại diện VKSND quận Hai Bà Trưng. Đây rõ ràng là một hành vi làm giả hồ sơ, vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật.

Bị cáo Trịnh Ngọc Chung - Nguyên Trưởng Chi cục THADS quận Hai Bà Trưng đã phớt lờ ý kiến chỉ đạo của đại diện Viện kiểm sát, bất chấp các quy định pháp luật quyết tâm thực hiện đến cùng hành vi cưỡng chế THA trái pháp luật, xâm hại nghiêm trọng đến hoạt động kiểm sát của VKSND trong quá trình kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan THA dân s, được pháp luật quy định cụ thể như sau:

“Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật” (Khoản 2 Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).

“Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của Cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án”(khoản 2 Điều 24 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002) .

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Đời sống và Pháp luật online có bài: Dương Chí Dũng ngồi tù vẫn nhận lương: Bộ GTVT "lờ" Nghị định 34? Bài báo phản ánh: Bộ GTVT khẳng định việc trả lương cũng như quyết định buộc thôi việc gần đây đối với Dương Chí Dũng là đúng pháp luật, trong khi các luật sư cho rằng Bộ này dường như "quên" quy định tại Nghị định 34.

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Công xác nhận việc Cục Hàng hải Việt Nam thực hiện việc cho trả 50% lương cho cựu Cục trưởng Hàng hải Dương Chí Dũng từ khi bị bắt đến khi có bản án phúc thẩm.

Trong nội dung trả lời khẳng định, khoảng thời gian bốn tháng Dương Chí Dũng bỏ trốn (từ ngày bị khởi tố 17/5/2012 đến ngày bị bắt 5/9/2012), Cục Hàng hải không thực hiện việc trả lương cho cựu Cục trưởng. Việc Cục Hàng hải Việt Nam chi trả lương đối với ông Dương Chí Dũng và Bộ GTVT ra quyết định buộc thôi việc với ông là đúng với các quy định hiện hành của pháp luật. Tuy nhiên, dư luận không đồng tình với cách trả lời của Bộ GTVT.

2. Báo Dân trí có bài: “Tình huống xấu nhất là có thể chấm dứt quan hệ giữa hai nước”. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên cho biết, tình huống xấu có thể xảy ra sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 là có sự hạn chế giao thương giữa biên giới Việt - Trung, đóng cửa biên giới và cao nhất là chấm dứt quan hệ giữa 2 nước…

Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên tới cuộc họp báo Chính phủ chiều 1/7 ngay khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa kết luận phiên họp thường kỳ tháng 6.

Phát biểu về tình hình Biển Đông tại cuộc họp báo, Bộ trưởng Nên nói: qua 2 tháng sau thời điểm Trung Quốc hạ đặt giàn khoan, Chính phủ đưa ra kết luận về việc thống nhất, đồng thuận thực hiện các mục tiêu xác định. Việt Nam khẳng định hành động ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam là trái với đạo lý, trái pháp lý và quan hệ hữu nghị giữa 2 nước Việt Nam – Trung Quốc. Việc này tạo nên hệ quả không tốt không chỉ đối với Việt Nam mà đe doạ cả tình hình an ninh trong khu vực và thế giới.

Việt Nam khẳng định sự kiên trì có mặt trên vùng biển của mình để khẳng định chủ quyền đối với 2 quẩn đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam cũng tiếp tục đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, kiên trì giải pháp hoà bình, luật pháp quốc tế, nhất là Công ước quốc tế về Luật Biển. Dư luận quốc tế đến nay cơ bản ủng hộ và đánh giá rất cao sự kiên trì của Việt Nam, kiên nhẫn chấp nhận đấu tranh bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hoà bình. Bạn bè cũng nhắc nhở Việt Nam cố gắng không để dẫn đến xung đột vì bất cứ xung đột nào cũng là lọt vào “bẫy”, âm mưu của Trung Quốc. Chưa có gì xảy ra mà Trung Quốc đã vu cáo trắng trợn rằng Việt Nam có hành vi quấy phá trên biển.

“Việt Nam đã hành động trên tinh thần rất thiện chí với bạn. Đến nay Việt Nam đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc lần thứ 3 đồng thời có những đề nghị hoà bình với Trung Quốc nhưng bạn vẫn không đáp lại” – Bộ trưởng Nên khái quát.

Trả lời câu hỏi về những tình huống xấu mà Chính phủ dự kiến xảy ra trên Biển Đông, Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên cho biết: “Thực ra các “kịch bản” này đã được đề ra từ lâu. Với đường lối độc lập tự chủ của Việt Nam, các cấp lãnh đạo nhà nước đã nêu yêu cầu làm sao để nền kinh tế Việt Nam không quá phụ thuộc vào thị trường nào”.

Tình huống xấu đề ra, theo Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, là có thể có sự hạn chế giao thương giữa biên giới 2 nước Việt – Trung, tình huống khác là đóng cửa biên giới và cao nhất có thể là chấm dứt quan hệ giữa 2 nước. 

            Bộ trưởng Nên xác nhận, tình huống nào thì cũng gây khó khăn nhất định cho Việt Nam nhưng không phải quá khó đến mức Việt Nam không thể vượt qua được. Mức độ ảnh hưởng được xác định là không quá lớn.

Có một số tỉnh có nêu sự khó khăn trong giao thương là do tăng cường kiểm soát hoạt động qua đường tiểu ngạch của Trung Quốc, còn lại các hoạt động đều diễn ra bình thường. Việc này, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên có lợi cho nền sản xuất, hoạt động thương mại chính ngạch của Việt Nam.

Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thông tin thêm việc Chính phủ giao cơ quan chức năng củng cố hồ sơ pháp lý để khi cân nhắc để khi thấy thực sự cần thiết, ở thời điểm có lợi nhất thì tiến hành khởi kiện Trung Quốc. Theo đó, Chính phủ đang tiếp tục tập hợp ý kiến nhân dân làm cơ sở bổ sung cho suy nghĩ, hành động của mình một cách chín chắn hơn.