Điểm tin báo chí sáng ngày 03 tháng 6 năm 2014

03/06/2014
Trong ngày 02/6 và đầu giờ sáng ngày 03/6/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Nhân dân điện tử có bài Cần xét lại việc thi hành một vụ án dân sự ở Tây Ninh. Bài báo phản ánh: Vừa qua, ông Lê Văn Ðiệp có gửi đơn đến các cơ quan chức năng ở Trung ương, cho rằng: Trong quá trình thi hành quyết định số 05/2011/QÐST-KDTM của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã có nhiều vi phạm gây thiệt hại cho gia đình ông.

Do thiếu vốn kinh doanh, năm 2009, Doanh nghiệp tư nhân Kim Nên của gia đình ông Lê Văn Ðiệp đã vay Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương (TMCPCT) Việt Nam, Chi nhánh Khu công nghiệp (KCN) Trảng Bàng, Tây Ninh 3.800.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng. Tài sản thế chấp là chín giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hai giấy chứng nhận nhà xưởng, nhà ở, trạm điện. Trong thời gian vay nợ, do việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro, thua lỗ, bản thân ông Ðiệp bị bệnh nặng đã không thể thanh toán số tiền vay cho Ngân hàng đúng hạn. Vì vậy, Ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Tây Ninh. Ngày 1-3-2011, TAND tỉnh Tây Ninh đã ra quyết định số 05/2011/QÐST-KDTM công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, gia đình ông Ðiệp có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCPCT Việt Nam, Chi nhánh KCN Trảng Bàng, Tây Ninh số tiền là 4.474.246.250 đồng, trong đó nợ gốc còn lại là: 3.686.500.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 21-2-2011 là: 787.746.250 đồng. Gia đình ông Ðiệp phải thanh toán số tiền thực tế đã vay cùng với khoản tiền lãi, kể từ khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.

Trong quá trình thi hành án, ông Ðiệp chọn Công ty cổ phần thẩm định giá Exim có trụ sở tại TP Hồ Chí Minh và có chi nhánh hoạt động tại Tây Ninh để thẩm định giá. Việc lựa chọn này phù hợp quy định tại Khoản 2, Ðiều 98 Luật Thi hành án dân sự, tức là tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên. Tuy nhiên, chấp hành viên (CHV) Nguyễn Văn Hoàng, dưới sự chỉ đạo của Phó Cục trưởng Lý Hoàng Vũ đã không chấp nhận. Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Tây Ninh đã ký hợp đồng thẩm định giá với Công ty TNHH Minh Hồng Hải có trụ sở tại 39/5 Nguyễn Ảnh Thủ, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh. Trong khi đó, công ty này không có chi nhánh hoạt động tại địa bàn tỉnh Tây Ninh như quy định tại Ðiều 98 Luật Thi hành án dân sự và cũng không có thẩm định viên tại thời điểm ký hợp đồng định giá với Cục THADS tỉnh Tây Ninh như Khoản 1, Ðiều 39 Luật Giá quy định. Kết quả là, Công ty cổ phần thẩm định giá Exim định giá: 7.451.000.000 đồng, Công ty TNHH Minh Hồng Hải định giá: 5.107.000.000 đồng, chênh lệch 2.344.000.000 đồng.

Bằng các chứng thư thẩm định giá của Công ty TNHH Minh Hồng Hải, Cục THADS tỉnh Tây Ninh đã đưa tài sản của gia đình ông Ðiệp ra bán đấu giá. CHV Nguyễn Văn Hoàng liên kết với Công ty TNHH Ðấu giá Khải Hưng do bà Tô Thị Thủy Triều (vợ ông Lý Hoàng Vũ, người trực tiếp chỉ đạo việc thi hành án này) làm giám đốc bán tài sản của gia đình ông Ðiệp thấp hơn nhiều so với giá thị trường, gây thiệt hại lớn tài sản của gia đình ông. Vì vậy, ông Ðiệp đã có đơn khiếu nại và tố cáo những việc làm sai trái của CHV Nguyễn Văn Hoàng và Phó Cục trưởng Lý Hoàng Vũ. Ngày 24-12-2013, Cục THADS tỉnh Tây Ninh đã có kết luận số 864KL-CTHA về nội dung đơn tố cáo của ông Ðiệp do Phó Cục trưởng Ngô Tấn Hồng ký. Tuy nhiên, kết luận này hoàn toàn biện minh cho những việc làm sai trái của các cán bộ nêu trên của Cục, như việc khẳng định Công ty TNHH Minh Hồng Hải có chi nhánh tại số 29 đường Phạm Tung, Khu phố I, phường III, thị xã Tây Ninh. Nhưng trên thực tế, nơi đây chính là trụ sở của Công ty TNHH Ðấu giá Tây Ninh.

Bức xúc trước bản kết luận 864 của Cục THADS tỉnh Tây Ninh, ông Ðiệp đã có đơn khiếu nại, tố cáo gửi Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp. Cơ quan này đã cử đoàn công tác đến tỉnh Tây Ninh xác minh vụ việc, và sau đó đã có công văn gửi Cục THADS tỉnh Tây Ninh, trong đó nêu rõ: "Theo quy định của pháp luật, các nội dung khiếu nại của ông Ðiệp là thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục trưởng Cục THADS tỉnh Tây Ninh". Tưởng vụ việc của mình sẽ được quan tâm giải quyết, ông Ðiệp viết đơn gửi ông Cục trưởng Cục THADS tỉnh Tây Ninh theo công văn của Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp, trong đó đề nghị làm rõ những hành vi vi phạm của CHV Nguyễn Văn Hoàng và Phó Cục trưởng Lý Hoàng Vũ. Nhưng đến nay vẫn không được thụ lý giải quyết và ngày 15-5-2014 vừa qua, Cục THADS tỉnh Tây Ninh đã ban hành Quyết định số 16/QÐ-THA cưỡng chế giao nhà và quyền sử dụng đất đối với gia đình ông Ðiệp vào ngày 27-5-2014.

Trước việc khiếu nại, tố cáo của mình không được xem xét giải quyết ở địa phương, ông Ðiệp buộc phải đưa đơn đến các cơ quan chức năng ở Trung ương. Trong đơn, ông Ðiệp nêu rõ nhiều việc làm mà ông cho là trái pháp luật của CHV Nguyễn Văn Hoàng và Phó Cục trưởng Lý Hoàng Vũ cùng những thiệt hại về tài sản đã gây ra cho gia đình ông.

Từ những trình bày nêu trên và những khiếu nại, tố cáo của ông Lê Văn Ðiệp chưa được xem xét giải quyết ở địa phương, chúng tôi kiến nghị, với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao cần vào cuộc, xem xét lại toàn bộ quá trình tổ chức thi hành vụ án này để bảo đảm sự đúng đắn của pháp luật và quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân. Trước hết, cần cho tạm dừng thực hiện Quyết định số 16/QÐ-THA cưỡng chế giao nhà và quyền sử dụng đất ngày 15-5-2014 của Cục THADS tỉnh Tây Ninh. Ðồng thời, đình chỉ việc thực hiện thi hành án theo Chứng thư Thẩm định giá của Công ty TNHH Minh Hồng Hải (vì thẩm định không đúng thẩm quyền) để yêu cầu thẩm định giá lại bởi công ty thẩm định giá có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật. Làm rõ và xử lý nghiêm những vi phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại cho gia đình ông Ðiệp. Yêu cầu Ngân hàng TMCPCT Việt Nam - chi nhánh KCN Trảng Bàng áp dụng việc tính lãi suất theo Quyết định số 05/2011/QÐST-KDTM ngày 1-3-2012 của Tòa án Nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Kiến nghị Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo của ông Ðiệp theo quy định của pháp luật.

2. Báo Lao động có bài Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ (Hà Nội): Đẩy dân vào thế tan cửa, nát nhà!. Bài báo phản ánh: Để thi hành án (THA) một món nợ 2,76 tỉ đồng, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận Tây Hồ (Hà Nội) đã cho bán đấu giá toàn bộ căn nhà có giá trị hàng chục tỉ đồng. Hàng loạt sai phạm trong quá trình THA của Chi cục THADS quận Tây Hồ đã đẩy người dân vào thế có nguy cơ tan cửa, nát nhà.

Theo quyết định (QĐ) công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của TAND quận Tây Hồ (ngày 29.12.2009, số 06/2009/QĐST-DS), ông Đinh Quý Bảo và bà Đào Thị Tuyết Vân (cùng ở địa chỉ số 17A ngách 29, ngõ 218 Lạc Long Quân) phải có trách nhiệm thanh toán trả cho ông Phạm Thanh Phong (tổ 19 phường Hoàng Văn Thụ, TP.Thái Nguyên) số tiền nợ gốc và lãi là 2.763.640.000 đồng.

Do TAND quận Tây Hồ không xác định cụ thể trách nhiệm cụ thể của ông Đinh Quý Bảo và bà Đào Thị Tuyết Vân trong nghĩa vụ thanh toán, cơ quan THA phải kiến nghị với toà án làm rõ và chỉ khi làm rõ được nghĩa vụ của từng người thì mới có thể THA. (Điều 1, thông tư liên tịch hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, ngày 26.7.2010 của Bộ Tư pháp – TAND Tối cao – Viện KSND Tối cao).

Thế nhưng, ngày 30.12.2009, ông Trần Quốc Thái – Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Tây Hồ - vẫn ký quyết định THA theo đơn yêu cầu của ông Phong: “Cho thi hành khoản: Anh Đinh Quý Bảo và chị Đào Thị Tuyết Vân phải có trách nhiệm thanh toán...”.

Theo đơn của ông Đinh Quý Bảo gửi đến Báo Lao Động, trong quá trình THA, vợ ông là bà Đào Thị Tuyết Vân đã trả được số tiền là 1,23 tỉ đồng. Còn ông thì được Chi cục THADS quận Tây Hồ có làm việc trực tiếp một lần. Ông Bảo cho biết: “Chi cục THADS quận Tây Hồ có yêu cầu tôi thanh toán, tôi có đề nghị thông báo cho tôi số tiền còn phải thi hành, và cho phép tôi trả dần hằng tháng. Nhưng sau đó tôi không được thông báo. Trong quá trình THA, tôi không được cơ quan THA tống đạt quyết định, thông báo THA...”.

Nghiêm trọng hơn, ngày 26.12.2013 Chi cục THADS quận Tây Hồ đã cử bà Phạm Thị Thu Bắc mang giấy giới thiệu với chức danh Phó Chi cục trưởng, chấp hành viên, đến Ngân hàng Nhà nước VN – cơ quan ông Bảo làm việc - để “phối hợp giải quyết THA”. Ông Đinh Quý Bảo cho rằng: “Việc vay mượn, nợ nần dẫn đến phải THA là quan hệ dân sự, nằm ngoài quan hệ hành chính nhà nước, do đó bà Phạm Thị Thu Bắc làm việc với Ngân hàng Nhà nước về việc THA đối với tôi là không phù hợp với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của tôi”.

Tuy nhiên, cũng nhờ có việc chấp hành viên Phạm Thị Thu Bắc cung cấp một số tài liệu THA cho Vụ Tổ chức cán bộ - NHNN mà ông Bảo mới biết, ngày 8.10.2010 chấp hành viên đã kê biên một phần nhà, đất của gia đình ông là 51m2 nhà, đất (38m2 là xây nhà ở và 13m2 làm sân cổng) và ngày 6.9.2013, cơ quan THA đã tổ chức bán đấu giá toàn bộ ngôi nhà của gia đình ông với số tiền là 2.055.289.860 đồng.

Theo tìm hiểu của PV Báo Lao Động, trong khi chấp hành viên Phạm Thị Thu Bắc tiến hành thu tiền THA của bà Đào Thị Tuyết Vân, Chi cục THADS quận Tây Hồ vẫn tiến hành hàng loạt biện pháp THA trên giấy như: Thông báo cưỡng chế, quyết định kê biên tài sản... và thực hiện bán đấu giá tài sản của gia đình ông Đinh Quý Bảo.

Theo biên bản bán đấu giá tài sản ngày 6.9.2013, “Tài sản bán đấu giá: Quyền sử dụng 51m2 đất (38m2 là xây nhà ở và 13m2 làm sân cổng) và công trình xây dựng trên đất tại địa chỉ số 17A ngách 29,...”. Căn cứ vào đâu mà Chi cục THADS quận Tây Hồ lại đem ra bán đấu giá toàn bộ ngôi nhà với diện tích khoảng 200m2 của gia đình ông Đinh Quý Bảo?!.

“Như vậy, đối tượng mua bán đấu giá không phải là diện tích nhà đất bị cưỡng chế kê biên để THA. Theo quy định của Điều 131, Bộ luật Dân sự thì giao dịch bán đấu giá tài sản có sự nhầm lẫn về nội dung, do đó bị vô hiệu” - LS Nguyễn Anh Tuấn (Đoàn LS TP.Hà Nội) khẳng định khi đánh giá việc THA của Chi cục THADS quận Tây Hồ.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thi hành án can thiệp trái luật. Bài báo phản ánh: Trước đây vợ chồng ông Nguyễn Văn Nghĩa (ngụ thị xã Gò Công, Tiền Giang) vay của bà Ngô Thị Lương hơn 600 triệu đồng. Không thỏa thuận được việc trả nợ, bà Lương kiện vợ chồng ông Nghĩa ra tòa. Ngày 15-1-2013, TAND thị xã Gò Công đã xử sơ thẩm, tuyên buộc vợ chồng ông Nghĩa phải liên đới trả số tiền trên cho bà Lương (trả một lần).

Khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật (vợ chồng ông Nghĩa kháng cáo), tám ngày sau, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) thị xã Gò Công ra Công văn số 29 gửi Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (ĐKQSDĐ) thị xã yêu cầu ngăn chặn việc chuyển dịch các loại tài sản của vợ chồng ông Nghĩa.

Công văn số 29 này không hề viện dẫn điều khoản hay quy định nào của pháp luật để làm căn cứ mà có nội dung khá ngắn gọn. Theo đó, vợ chồng ông Nghĩa đang thực hiện việc chuyển nhượng các phần đất tọa lạc tại xã Bình Xuân (thị xã Gò Công) nhằm tẩu tán tài sản. Do đó Chi cục THA đề nghị Văn phòng ĐKQSDĐ ngưng làm các thủ tục để không cho vợ chồng ông Nghĩa chuyển nhượng các thửa đất nói trên nhằm đảm bảo cho việc THA.

Sau khi nhận được công văn này, Văn phòng ĐKQSDĐ thị xã Gò Công dù không chính thức ra quyết định ngăn chặn nhưng đã làm theo yêu cầu của Chi cục THA. Do vậy việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông Nghĩa với người khác bị chựng lại ở giai đoạn nộp thuế dù trước đó hai bên đã ký hợp đồng công chứng.

Theo TS Nguyễn Văn Tiến (giảng viên khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), theo quy định hiện hành, trong giai đoạn xét xử, chỉ có tòa án mới có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn chuyển dịch tài sản nếu đương sự có yêu cầu và yêu cầu đó phù hợp. Nếu bản án đã có hiệu lực pháp luật và cơ quan THADS đã ra quyết định THA thì cơ quan này cũng được quyền đề nghị hoặc ra quyết định ngăn chặn.

Ở vụ việc trên, tại thời điểm tòa sơ thẩm vừa xử xong, bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật thì cơ quan THA không có thẩm quyền can thiệp. Thẩm quyền xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời lúc này (nếu một bên đương sự có yêu cầu) thuộc về tòa cấp phúc thẩm sau khi tòa này đã thụ lý. Việc cơ quan THADS ra công văn yêu cầu Văn phòng ĐKQSDĐ ngăn chặn giao dịch của đương sự là hoàn toàn sai thẩm quyền, không có cơ sở pháp lý. Từ đó việc Văn phòng ĐKQSDĐ làm theo yêu cầu của công văn này là không đúng.

Đồng tình, ông Võ Thành Danh (Chi cục trưởng Chi cục THADS quận 8, TP.HCM) cũng cho rằng theo Luật THADS, cơ quan THA chỉ tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Luật THADS chỉ quy định một số ít trường hợp án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay như việc cấp dưỡng nuôi con, bồi thường về lao động… Các tranh chấp về đất đai, đòi nợ… đều không thuộc nhóm trường hợp ngoại lệ này. Như vậy trong vụ tranh chấp đòi nợ nói trên, không có cơ sở để cơ quan THA ra công văn yêu cầu ngăn chặn. Khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật và đương sự chưa có đơn yêu cầu THA thì cơ quan THA chưa được can thiệp vào bất cứ nội dung nào của bản án, cũng như không có quyền kê biên, ngăn chặn hoặc đề nghị kê biên, ngăn chặn.

4. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Cán bộ Sở Tư pháp nhận 100 triệu để chạy án. Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Nghệ An vừa bắt giữ ông Nguyễn Ngọc Lan (SN 1959), cán bộ Trung tâm trợ giúp pháp lý, thuộc Sở Tư pháp Nghệ An, về hành vi lừa đảo.

Ngày 19-12-2013, ông Lan tự nhận là Phó giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Nghệ An hứa sẽ chạy cho bị can Vi Thị Hoa (bị can trong vụ mua bán người xảy ra ở huyện Kỳ Sơn) được giảm xuống án treo hoặc tại ngoại, nên người nhà bị can Hoa đã đưa cho ông Lan 100 triệu đồng. Nhận tiền, ông Lan đã dùng để trả nợ và tiêu xài. Nghi ngờ bị ông Lan lừa đảo, người nhà bị can Hoa đã gửi đơn tố cáo. Sáng 29-5-2014 ông Lan bị bắt giữ tại phòng làm việc. Công an đã thu giữ nhiều bộ hồ sơ xin việc vào các cơ quan Nhà nước. Ông Lan đã nhận tội.

5. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Giãy nảy với quy định “Công chứng không vì mục đích lợi nhuận”. Bài báo phản ánh: Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) trình ra Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 này đưa vào nguyên tắc hành nghề công chứng (Điều 4) một quy định hoàn toàn mới, đó là “không vì mục đích lợi nhuận”. Quy định này lập tức trở thành tâm điểm của nhiều ý kiến tranh luận. 

Theo quy định tại Điều 3 Luật Công chứng hiện hành, nguyên tắc hành nghề công chứng bao gồm: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;  Khách quan, trung thực;  Chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; Tuân theo Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

Tại lần trình Quốc hội cho ý kiến Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) hồi tháng 11/2013, nguyên tắc hành nghề “Không vì mục đích lợi nhuận” cũng chưa được quy định tại điều khoản nào trong Dự Luật. 

Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật Công chứng (sửa đổi) trình ra Kỳ họp thứ 7 lần này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết: Về nguyên tắc hành nghề công chứng (Điều 4),  có 2 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị bổ sung nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận” vì hoạt động công chứng trước hết là nhằm giúp Nhà nước bảo đảm cung cấp dịch vụ công cho xã hội, phải đặt tính chất phục vụ lên hàng đầu. 

Đồng thời, đây là loại hình dịch vụ do Nhà nước ủy quyền, Nhà nước cũng đặt ra giới hạn về số lượng tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn nhất định, do đó tính cạnh tranh trong hoạt động này đã bị hạn chế rất nhiều. Vì vậy, công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng không thể sử dụng các lợi thế này để phục vụ mục đích kiếm lợi nhuận như các hình thức kinh doanh, dịch vụ thông thường. 

Loại ý kiến thứ hai còn băn khoăn vì Văn phòng công chứng hoạt động tương tự như một doanh nghiệp, không có sự bao cấp của Nhà nước nên dù cung cấp dịch vụ công thì hoạt động của tổ chức này cũng không thể không tính đến yếu tố lợi nhuận. 

Mặt khác, quy định nguyên tắc hành nghề công chứng là không vì mục đích lợi nhuận sẽ mâu thuẫn trực tiếp với quy định cho phép chuyển đổi Phòng công chứng hay chuyển nhượng Văn phòng công chứng. Bởi nếu không có lợi nhuận thì bên nhận chuyển nhượng hoặc chuyển đổi tổ chức hành nghề công chứng sẽ bù đắp lại khoản tiền đã bỏ ra cho việc nhận chuyển đổi, chuyển nhượng Văn phòng công chứng bằng cách nào?

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng chính là người được Nhà nước ủy nhiệm thực hiện quyền lực công, thay mặt Nhà nước xác nhận tính hợp pháp trong các hợp đồng, giao dịch dân sự mà trong nhiều trường hợp đây là nghĩa vụ bắt buộc do pháp luật quy định. Vì vậy, hoạt động công chứng chủ yếu phải nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của người dân. 

Trên cơ sở đó, Luật mới có thể quy định tổ chức hành nghề công chứng phải chịu sự kiểm soát, hạn chế nhất định từ phía cơ quan nhà nước như giới hạn về địa bàn hoạt động, về hình thức tổ chức hoạt động và chỉ được thu phí công chứng theo quy định của Nhà nước. Tiếp thu ý kiến của Đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho phép bổ sung nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận” trong hoạt động công chứng như thể hiện tại Điều 4 của Dự Luật. 

Mặc dù Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải thích rõ lý do đưa nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận” vào Dự thảo Luật lần này nhưng nhiều Đại biểu Quốc hội vẫn chưa cảm thấy yên tâm. 

Đại biểu Huỳnh Nghĩa (TP.Đà Nẵng) cho biết: “Nguyên tắc không vì mục đích lợi nhuận chỉ phù hợp với mô hình phòng công chứng do Nhà nước bao cấp. Nhưng theo luật,  mô hình này sẽ bị hạn chế dần, thay vào đó là các Văn phòng công chứng tư nhân hoạt động mang tính chất kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp”. 

Cũng theo Đại biểu Huỳnh Nghĩa: “Hiện nay các Văn phòng công chứng đều tập trung nguồn vốn khá lớn để đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị hiện đại bằng nguồn tiền của họ chứ không phải dùng ngân sách nhà nước. Thậm chí, họ phải chịu trách nhiệm việc bồi thường thiệt hại cho khách hàng nếu có lỗi, nên dù hoạt động ở lĩnh vực cung cấp dịch vụ hay công ích thì Văn phòng công chứng cũng không thể không tính đến yếu tố lợi nhuận”. 

Thậm chí, Đại biểu Huỳnh Nghĩa còn cho rằng, nếu chúng ta có đưa hay không đưa nguyên tắc “không vì mục đích lợi nhuận” vào Luật thì các Văn phòng công chứng vẫn phải tìm mọi cách để hoạt động, sử dụng nhiều biện pháp để thu hút khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh như một doanh nghiệp kinh doanh bình thường với mục đích cuối cùng là tìm lợi nhuận ở mức độ cao nhất có thể.  Và như vậy, việc đưa nguyên tắc này vào Luật cũng chỉ mang tính  hình thức, không phù hợp với thực tế. 

Đại biểu Nguyễn Tuyết Liên (tỉnh Sóc Trăng) thì cho rằng, quy định nguyên tắc hành nghề công chứng không vì mục đích lợi nhuận là không phù hợp. Bởi lẽ Văn phòng công chứng hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp, việc cung cấp dịch vụ vẫn có yếu tố lợi nhuận để duy trì hoạt động. Mặt khác, hành nghề công chứng hoạt động không vì mục đích lợi nhuận sẽ mâu thuẫn với quy định cho phép chuyển nhượng Văn phòng công chứng, nếu không có lợi nhuận thì sẽ không có việc chuyển nhượng hay chuyển đổi để đảm bảo phù hợp với chức năng xã hội của công chứng viên. Từ phân tích này, Đại biểu Nguyễn Tuyết Liên đề nghị Khoản 3 Điều 4 được viết lại thành: “Không chỉ vì mục đích lợi nhuận”. 

Cùng quan điểm, Đại biểu Điểu Huỳnh Sang (tỉnh Bình Phước) khẳng định: “Văn phòng công chứng hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp, không có sự bao cấp của Nhà nước nên dù cung cấp dịch vụ công ích thì hoạt động của tổ chức này cũng không thể không tính đến yếu tố lợi nhuận… Nếu Luật Công chứng coi công chứng là một loại hình dịch vụ phi lợi nhuận thì chắc chắn rằng không ai bỏ vốn ra để thành lập các Văn phòng công chứng”. 

Trước các ý kiến khác nhau về một số quy định tại Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi), Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo Ủy ban Pháp luật - cơ quan chủ trì thẩm tra, Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu giải trình, tiếp thu để trình Quốc hội xem xét.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Shangri-La 2014: Trung Quốc “Gieo bất trung, gặt nghi kỵ”. Bài báo phản ánh: Hôm 1/6, Trưởng đoàn Trung Quốc, ông Vương Quán Trung, Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc, khiến không ít các lãnh đạo và học giả uy tín tham gia Đối thoại Shangri-La ở Singapore bất ngờ khi ông ta to tiếng tuyên bố rằng phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel là “không thể chấp nhận được”.

“Hai ông Chuck Hagel và Shinzo Abe có những lời tuyên bố không thể chấp nhận được, là một hành động khiêu khích có phối hợp để thách thức Trung Quốc”, ông Vương Quán Trung nói.

Theo giới phân tích, dường như những phát biểu trên của Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc không nằm trong nội dung bài diễn văn đã được chuẩn bị sẵn. Điều này cho thấy cá nhân ông Vương nói riêng, giới quân đội và lãnh đạo Trung Quốc nói chung đang thực sự lúng túng trước những phản ứng nhất quán của cộng đồng quốc tế phản đối những hành động gây hấn ngang ngược của Trung Quốc ở các vùng biển trong khu vực.

Trước đó, phát biểu tại Đối thoại Shangri-La hôm 31/5, ông Hagel đã cáo buộc Trung Quốc đe dọa đến quá trình phát triển dài hạn của khu vực bằng cách thực hiện những hành động “gây bất ổn, đơn phương” trên Biển Đông. “Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã khẳng định chủ quyền trên Biển Đông bằng nhiều hành động đơn phương gây bất ổn. Chúng tôi kiên quyết chống lại bất cứ hành động khiêu khích, gây hấn hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để khẳng định chủ quyền từ bất cứ quốc gia nào” – ông Hagel tuyên bố. Ông Hagel cũng tuyên bố Mỹ sẽ “không làm ngơ” khi các nước khác phớt lờ luật pháp quốc tế.

Còn trong bài phát biểu tại phiên khai mạc Đối thoại Shangri-La hôm 30/5, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã vạch ra tầm nhìn của mình trong việc đưa Nhật Bản đóng một vai trò tích cực hơn trong giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực. Ông Abe cũng đã tuyên bố “ủng hộ tối đa” các nước Đông Nam Á, trong đó có các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Thủ tướng Nhật Bản kêu gọi “mọi quốc gia phải tôn trọng luật pháp” khi nói về tình hình căng thẳng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.

Ngày 2/6, Chính phủ Nhật đã lên án việc Tướng Trung Quốc Vương Quán Trung chỉ trích phát biểu của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe tại Đối thoại Shangri-La là “khiêu khích”.

Chánh Văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga nói: “Chúng tôi tin rằng quan chức Trung Quốc đưa ra tuyên bố dựa trên những điều sai trái. Ông ta đã bôi nhọ đất nước chúng tôi”. Ông Suga tiết lộ phái đoàn Nhật dự Đối thoại Shangri-La đã phản đối mạnh mẽ những phát biểu của Tướng Vương Quán Trung.

Tại phiên thảo luận chung thứ 4 diễn ra sáng 1/6, nhiều học giả đã chất vấn Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc về ý nghĩa của “đường chín đoạn” mà nước này vẽ ra trên Biển Đông. Họ không chấp nhận về tính pháp lý của đường này khi nó đi ngược lại với tinh thần Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc đã thông qua. “Đường chín đoạn” hay “Đường lưỡi bò” đã xâm phạm chủ quyền lãnh hải của rất nhiều nước trong khu vực, bao gồm Việt Nam.

Ông Vương cho biết, bản đồ phản ánh 2.000 năm lịch sử Trung Quốc và do đó nó có trước Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Do đó, theo ông Vương, khu vực này không phù hợp để áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

Những lập luận này của ông Vương đã vấp phải sự phản đối của các học giả và giới truyền thông thế giới. Ông Fredy Gsteiger - Phó Tổng biên tập Đài phát thanh SRF, Thụy Sỹ - cho rằng, đó là sự giải thích đáng lo ngại: "Người ta đã thiết lập Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển là để tìm ra giải pháp cho những xung đột kiểu như thế này. Giờ thì Trung Quốc nói rằng họ không muốn chấp nhận giải quyết thông qua tòa án. Câu hỏi đặt ra là công ước này ra đời để làm gì? Đó là điều khó hiểu".

Còn Giáo sư Carl Thayer - Đại học New South Wales, Australia - nói rằng, Trung Quốc đơn phương giải thích luật quốc tế theo cách của họ: "Trung Quốc luôn nói là có luật lệ quốc tế khác. Tôi vẫn luôn hỏi Trung Quốc là luật khác đó là gì. Sau đó, họ vận dụng đến lịch sử, nhưng đó lại là lịch sử được nhào nặn".

Christian Le Mìere, thành viên cao cấp của Viện Quốc tế Nghiên cứu Chiến lược Mỹ chuyên về lực lượng hải quân và an ninh hàng hải, cho rằng lời biện minh của ông Vương đã sai hoàn toàn. "Bạn không thể tuyên bố chủ quyền rộng lớn của biển, chỉ vì bạn tin rằng bạn có quyền trong lịch sử với nó. Cách nghĩ của ông Vương là một mớ bòng bong và làm đảo lộn hệ thống quốc tế. Nó sẽ là một ý tưởng khủng khiếp”.

2. Báo PetroTimes có bài Lại một quy định bất khả thi. Bài báo phản ánh: Mấy năm gần đây, số người sử dụng xe máy điện ở nước ta tăng lên rất nhanh. Từ thành thị đến nông thôn, chỗ nào cũng có xe máy điện tham gia giao thông. Nhưng việc quản lý loại xe này chưa có những quy định chặt chẽ và bắt buộc nên vấn đề xe máy điện đang trở thành nỗi lo ngại cho các cơ quan chức năng.. Vì vậy Bộ Công an vừa có Thông tư 15 quy định: Từ ngày 1-6-2014, xe máy điện phải lắp biển kiểm soát.

Thông tư ban hành chỉ cách thời điểm thực hiện hơn 1 tháng nên đã gây bất ngờ cho cả người dân và các cửa hàng kinh doanh xe máy điện. Người dân khi mua xe thì chỉ có hóa đơn thông thường ghi giá mua và bảo hành chứ không có hóa đơn đỏ. Trong khi đó, muốn đăng ký biển số xe máy điện yêu cầu chủ xe phải có chứng từ nguồn gốc xe, chất lượng, hóa đơn đỏ. Những loại chứng từ ấy thì chủ xe không thể có được bởi cửa hàng bán xe nói rằng, hóa đơn xuất theo lô nên không thể xuất lẻ cho khách hàng được…

Nhiều khách hàng mua xe từ mấy năm nay, hạn bảo hành đã hết sau 1 năm; hóa đơn đỏ cũng thất lạc. Nhiều cửa hàng kinh doanh xe máy điện ngạc nhiên bởi họ cũng mới chỉ nghe nói làm thủ tục đăng ký xe máy điện như xe máy, mấy năm nay họ đã bán hàng ngàn xe máy điện nhưng chưa thấy ai yêu cầu làm thủ tục đăng ký biển số. Đây thực sự là một bế tắc trong việc triển khai Thông tư 15 về lắp biển kiểm soát cho xe máy điện.

Nhìn lại các quy định nêu trên và thời điểm bắt buộc thi hành lại có những điều chưa phù hợp, thiếu thực tiễn và khó khả thi. Thứ nhất là việc quy định xe máy điện phải có biển kiểm soát đã ban hành từ năm 2009, tức là cách đây 5 năm. Nhưng quy định ban hành xong không được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi nên rơi vào tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, chẳng ai còn để ý tới. Thứ hai là lần này tiếp tục triển khai bằng Thông tư 15 nhưng thời hạn quy định thực hiện lại quá gấp. Hồ sơ, giấy tờ không có thì chủ xe làm sao xoay xở kịp để đăng ký và lấy biển số được. Vì vậy, từ ngày 1-6, chắc chắn hầu hết xe máy điện lưu thông trên đường vẫn không có biển kiểm soát.

Cách đây vài năm, thấy nguy cơ từ xe máy điện dễ gây tai nạn bởi tốc độ của nó chẳng kém xe máy bao nhiêu, cơ quan chức năng cũng có quy định: Người tham gia giao thông bằng xe máy điện phải đội mũ bảo hiểm. Thế nhưng bây giờ, số người đi xe máy điện đội mũ bảo hiểm chỉ được khoảng 10%.

Mặc dù có quy định về chế tài xử phạt nhưng yếu tố quan trọng bậc nhất này lại đến 1-1-2017 mới thực hiện thì còn 2 năm rưỡi nữa, tình hình xe máy điện hoạt động tự do và phức tạp hơn, càng khó quản lý. Rất đơn giản là lực lượng CSGT không thể xử phạt hoặc cấm xe tham gia giao thông được. Đối với các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh vào giờ cao điểm, làm sao mà chặn hết được hàng vạn xe máy điện trên đường để xử phạt những xe không có biển kiểm soát và người không đội mũ bảo hiểm?



File đính kèm