I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong online có bài: Rắc rối thu hồi danh hiệu Hoa hậu của Triệu Thị Hà. Bài báo phản ánh: Theo chuyên gia pháp lý, lãnh đạo Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch TPHCM có văn bản cho phép Công ty Cổ phần Quảng cáo và Hội chợ Thương mại Quốc tế CIAT thu hồi danh hiệu Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam 2011 của Triệu Thị Hà, là “vượt quyền”.
Ngày 23/5/2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) TP Hồ Chí Minh có công văn số 2647/SVHTTDL-VP, do ông Võ Trọng Nam - Phó Giám đốc Sở - ký, gửi Công ty Cổ phần Quảng cáo và Hội chợ Thương mại Quốc tế (CIAT) về việc thu hồi danh hiệu Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam lần thứ 2-2011.
Theo đó, ngày 14/4/2014, Sở này nhận được Văn bản số 30/CV-CIAT của Cty Cổ phần Quảng cáo và Hội chợ Thương mại Quốc tế (CIAT) về việc cho phép Cty CIAT được thu hồi lại danh hiệu Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam 2011 của cô Triệu Thị Hà.
Qua kiểm tra và xem xét hồ sơ xin phép đề xuất hướng xử lý trường hợp cô Triệu Thị Hà của Công ty, lãnh đạo Sở VH,TT&DL TPHCM đồng ý cho Công ty CIAT được thu hồi danh hiệu Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam lần thứ 2 năm 2011 của Triệu Thị Hà.
TPHCM là đơn vị đăng cai tổ chức cuộc thi Hoa hậu các Dân tộc Việt Nam lần thứ 2 năm 2011. Sở VH, TT&DL TPHCM cũng là một thành viên Ban tổ chức của cuộc thi. Thế nhưng, điều đáng nói là, cuộc thi này do Bộ VH,TT&DL cấp phép, chứ không phải do Sở cấp phép. Do đó, việc cho phép hay không cho phép thu hồi vương miện đối với Hoa hậu Triệu Thị Hà là thuộc thẩm quyền của Bộ.
Về công văn Sở đồng ý cho CIAT thu hồi danh hiệu Hoa hậu các dân tộc lần 2 năm 2011 của Triệu Thị Hà, luật sư Trương Anh Tú (Trưởng Văn phòng luật sư Trương Anh Tú, đoàn Luật sư TP Hà Nội), cho biết: “Xét thấy, mặc dù UBND TPHCM phê duyệt, TPHCM là địa phương đăng cai, nhưng Sở không có thẩm quyền trong việc thu hồi hay tước danh hiệu của hoa hậu. Việc Sở ra công văn đồng ý thu hồi danh hiệu của Triệu Thị Hà và đề nghị Công ty CIAT sớm triển khai thực hiện theo ý kiến trên là hành vi vượt quyền”.
Cũng theo luật sư Trương Anh Tú, mặt khác, về vấn đề thu hồi danh hiệu hoa hậu hay tước danh hiệu hoa hậu, pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể, vì vậy cơ chế xem xét việc thu hồi, tước danh hiệu là không có.
Hơn nữa, pháp luật hiện hành cũng không trao cho bất kỳ đơn vị nào thẩm quyền thu hồi, tước danh hiệu hoa hậu. Do đó, Sở VHTT&DL TPHCM ra văn bản đồng ý cho CIAT tước danh hiệu không có căn cứ pháp lý, không phù hợp quy định pháp luật.
“Về nguyên tắc, bất kỳ cá nhân nào khi bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp đều có quyền khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho mình. Trong trường hợp này, nếu xét thấy xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của mình, Hoa hậu Triệu Thị Hà hoàn toàn có thể khởi kiện sở VHTT&DL TPHCM”, luật sư Anh Tú nói.
Hiện nay, vụ việc của Hoa hậu Triệu Thị Hà tràn ngập trên các trang thông tin, báo chí với nhiều phát biểu, nội dung gây nhiễu thông tin.
Về biên bản thỏa thuận giữa Triệu Thị Hà và Công ty CIAT có ràng buộc về khoản tiền bồi thường lên tới 2 tỷ đồng, Triệu Thị Hà cho biết, mọi chuyện bây giờ cô sẽ chờ đợi việc xem xét và xử lý từ Cục Nghệ thuật Biểu diễn, cũng như Bộ VH, TT&DL.
Luật sư Trương Anh Tú cho rằng, nội dung biên bản trên không đúng quy định của pháp luật. Vì thế, các điều khoản trong biên bản không được pháp luật bảo vệ.
2. Báo Vietnam.net có bài: Luật mở rồi đóng, người đồng tính lo lắng. Bào báo phản ánh: Chưa kịp mừng vì Hiến pháp 2013 "không đóng cửa" với hôn nhân cùng giới, cộng đồng những người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) lại lo lắng khi quyền của họ có thể bị "lờ đi" trong một đạo luật thiết thân là luật Hôn nhân và Gia đình.
Dự thảo luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi trình ra Quốc hội kỳ trước (10/2013), bên cạnh việc bỏ điều "cấm kết hôn giữa những người đồng tính" và chuyển thành "không thừa nhận" hôn nhân này, còn có quy định về giải quyết hệ quả pháp lý khi hai người cùng giới sống chung với nhau về tài sản, con cái (Điều 16). Nhưng đến bản dự thảo mới nhất sẽ trình để QH thảo luận vào ngày mai (27/5), Điều 16 này hoàn toàn biến mất. Lý do UB Thường vụ QH đưa ra là "để phù hợp với quy định không thừa nhận hôn nhân cùng giới".
Ông Lương Thế Huy, cán bộ về quyền LGBT thuộc Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cho biết bản dự thảo đầu tiên do bộ Tư pháp soạn khiến cộng đồng này rất mừng vì bảo đảm các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử và quyền con người, nhưng về sau luật ngày càng "teo" lại.
Việc chỉ còn vỏn vẹn một câu ""Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính" trong khoản 2 điều 8, theo ông Huy, cho thấy "các nhà làm luật công nhận đây là thực tế đang diễn ra, đưa vào luật nhưng lại không giải quyết nó trong luật".
Cũng theo giải trình của UB Thường vụ QH, để giải quyết các hậu quả pháp lý phát sinh từ việc sống chung, các cặp đôi đồng tính có thể dùng pháp luật dân sự để đảm bảo quyền lợi.
Ông Nguyễn Hồng Hải, Trưởng phòng pháp luật dân sự Bộ Tư pháp, cơ quan chắp bút dự thảo đầu tiên, bình luận: "Đối với luật dân sự, nguyên tắc nền tảng là bình đẳng, tạo ra bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Sự bình đẳng này áp dụng vào quan hệ sống chung giữa hai người cùng giới là bất cập. Một cặp đôi sống chung có thể hy sinh rất nhiều cho nhau để tạo dựng cuộc sống, trong đó có phân công lao động làm nội trợ, chăm sóc con cái hay đảm nhận thu nhập chính cho cuộc sống chung. Sự bình đẳng trong quan hệ gia đình này không phải là 'làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu' mà là có quyền ngang nhau, chỉ giải quyết bằng pháp luật dân sự thì rất khó đảm bảo tính nhân văn".
Còn với cộng đồng LGBT, bỏ Điều 16 thì "cấm" hay "không thừa nhận" cũng không khác gì nhau.
Anh Phạm Khánh Bình, một người đồng tính tại Hà Nội, chia sẻ: "'Cấm' nghĩa là 'không được làm', còn 'không thừa nhận' giống như 'không làm được'. Người đồng tính đã chuyển từ 'không có quyền' sang 'không thực hiện được quyền'".
Một cặp đồng tính nữ đang sống chung tại TP.HCM thì thấy "bỏ Điều 16 đi thì dự thảo không còn quy định gì về người đồng tính nữa, trách nhiệm được đẩy về phía công dân, chúng tôi phải tự bảo vệ mình, tự tôn trọng quyền của mình trong khi không ai bảo vệ, không ai thừa nhận. Chỉ giải quyết bằng pháp luật dân sự thì khác gì hai người xa lạ?"
Theo ông Lê Quang Bình, Viện trưởng iSEE, nguyên nhân có thể do các ĐBQH chưa có đủ thông tin: "Có những đại biểu bảo rằng 'tôi đã gặp người đồng tính bao giờ đâu', trên thực tế họ đã gặp rồi nhưng vì bị định kiến nên người đồng tính chưa công khai cho họ biết. Cũng có ý kiến từ địa phương là không thấy cặp đôi cùng giới nào đến yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của việc sống chung, cũng một phần do người đồng tính đang nghĩ không được thừa nhận nên đang tự giải quyết vấn đề của mình".
Theo ông Lương Thế Huy, tuy chưa có thống kê chính xác nhưng có thể ước đoán có hàng chục nghìn cặp đôi cùng giới đang sống chung. "Nhưng kể cả có ít thì luật, theo nguyên tắc là cho tất cả mọi người, cũng phải điều chỉnh", ông Huy nói.
Bà Phạm Kim Ngọc thuộc Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và môi trường, cũng nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử của luật chính là không loại từ bất cứ nhóm xã hội nào, dù nhỏ đến đâu.
Nguyên tắc này, được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, cũng là điều Liên Hợp Quốc khuyến nghị việc sửa luật Hôn nhân và Gia đình cần đảm bảo. Theo đó, LHQ khuyến nghị bỏ việc "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính", đồng thời công nhận và bảo hộ pháp lý với các cặp cùng giới sống chung như với các cặp khác giới.
Còn nếu nguyên nhân là do lo ngại tác động xã hội, thì như chuyên gia luật Trần Ngọc Bích chỉ ra: Hiến pháp 2013 đã quy định rõ "quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".
"Không có bằng chứng nào cho thấy việc chung sống của người đồng giới có ảnh hưởng gì đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng", bà Bích nói.
Và nhận thức của xã hội cũng đã đi trước luật này: Trong một nghiên cứu của iSEE tháng 4/2014, trong số 5.300 người dân được khảo sát tại 8 tỉnh thành, có 41,2% ủng hộ quyền sống chung của người cùng giới, 56% cho rằng các cặp đôi cùng giới nên có quyền nhận con nuôi và nuôi con, 51% ủng hộ quyền sở hữu tài sản chung, 47% ủng hộ quyền thừa kế tài sản.
Ngoài ra, theo TS. Nguyễn Thị Thu Nam, chuyên gia về xã hội và y tế, hầu hết ý kiến phản đối viện dẫn Điều 5 trong dự thảo luật về nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình: Truyền thống văn hoá, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình được kế thừa, phát huy.
Ông Hoàng Cầm, Viện nhiên cứu Văn hóa, bình luận: Những truyền thống được cho là tốt đẹp hay những phong tục tập quán được cho là lạc hậu là phụ thuộc vào quan điểm và thời kỳ. Ví dụ, việc làm mẹ đơn thân một thời bị xã hội lên án giờ đang dần được chấp nhận. Đưa truyền thống và đạo đức vào luật là một việc mang tính chủ quan, áp đặt.
Dù lý do là gì, theo ông Lê Quang Bình, "việc bỏ Điều 16 sẽ gây hoang mang cho người đồng tính, gây hụt hẫng cho gia đình họ, vốn đang rất mong chờ pháp luật có sự thừa nhận pháp lý đối với quan hệ chung sống đồng giới. Hơn nữa, Việt Nam đang được thế giới kỳ vọng là một nước đi đầu trong việc bảo vệ quyền con người của người đồng tính, song tính và chuyển giới. Nếu bỏ điều 16 ra, e rằng Việt Nam sẽ mất cơ hội được thế giới nhắc đến như nước đi tiên phong ở châu Á về việc bảo vệ quyền LGBT".
3. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Thông đồng dìm giá tài sản: “Cần có Quy chế phối hợp với ngành Công an”. Bài báo phản ánh: Trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) Đỗ Hoàng Yến cho rằng, mặc dù được điều chỉnh bởi Nghị định số 17/2010/NĐ-CP nhưng hoạt động bán đấu giá tài sản thời gian qua đã có hiện tượng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng dìm giá. Vì vậy, một trong những giải pháp hữu hiệu có thể tính đến là sớm nghiên cứu, xây dựng Quy chế phối hợp với ngành Công an trong lĩnh vực này.
Nghị định số 17/2010 được đánh giá là đã thúc đẩy hoạt động bán đấu giá tài sản phát triển đúng “quỹ đạo”. Xin bà chia sẻ đôi nét về đánh giá này?
- Có thể nói, trong 4 năm triển khai thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ - CP về bán đấu giá tài sản, hoạt động này đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Về mặt thể chế, trước thời điểm năm 2010, chúng ta còn có Nghị định 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Đến năm 2013, Nghị định 60 được thay thế bằng Nghị định số 110, trong đó quy định nhiều hành vi phát sinh từ thực tiễn như thông đồng dìm giá, vi phạm trình tự thủ tục, giả mạo giấy tờ… với mức phạt tăng lên cao hơn, góp phần tăng cường xử lý vi phạm.
Đứng về mặt thanh tra, kiểm tra, hàng năm Bộ Tư pháp đều có kế hoạch thanh tra, trọng tâm là hai lĩnh vực bổ trợ tư pháp gồm hoạt động đấu giá và công chứng. Riêng công chứng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp từng có công văn gửi các địa phương yêu cầu có kế hoạch thanh tra toàn diện các tổ chức hành nghề công chứng hoạt động trên địa bàn. Trong lĩnh vực đấu giá, tuy chưa ban hành công văn như thế nhưng chủ trương chung là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bởi chúng tôi cho rằng, trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật mới thì cũng sẽ có nhiều vấn đề phát sinh, qua đó phát hiện, xử lý những vi phạm hoặc đôi khi thanh tra, kiểm tra chỉ là để phòng ngừa vi phạm mà thôi. Chẳng hạn, ngay từ đầu năm 2014, Thanh tra Bộ Tư pháp đã có kế hoạch thanh tra các doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản trên địa bàn TP.Hà Nội. Kết quả thanh tra cơ bản là tốt, dù vẫn tồn tại một số sai phạm nhỏ, có thể khắc phục được.
Vậy theo bà, vấn đề nằm ở đâu khi vẫn còn những vụ việc vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản gây bức xúc dư luận như vụ ở Bình Phước, Thừa Thiên Huế…?
- Theo chúng tôi, vấn đề là đội ngũ thanh tra ở các địa phương rất mỏng, có những tỉnh chỉ có một thanh tra viên, riêng hoạt động thanh tra hành chính đã hết thời gian, còn đâu thời gian mà thanh tra chuyên ngành từ hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đến công chứng, luật sư, đấu giá... Nguồn nhân lực như vậy đòi hỏi các địa phương sắp tới phải có chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiện toàn bộ máy thì mới thực hiện nghiêm minh được; đặc biệt, phải phối hợp giữa các ngành với nhau mới làm tốt được. Đơn cử như thực tế cho thấy đã phát sinh hiện tượng thông đồng dìm giá, “quân xanh, quân đỏ”, song phải có chứng cứ mới xử lý được, muốn có chứng cứ thì phải điều tra, phải có sự phối hợp của cơ quan Công an để ngăn chặn tiêu cực. Đã có nhiều phiên đấu giá các trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản phải mời lực lượng Công an đến bảo vệ vì tài sản có giá trị lớn, nhiều người muốn mua dẫn đến hiện tượng cò mồi, thông đồng.
Hiện tượng thông đồng dìm giá nói trên thường xảy ra nhiều ở địa phương nào, thưa bà?
- Hiện tượng này không xác định được ở địa phương nào nhiều hay ít mà tùy theo từng cuộc đấu giá, tùy theo tài sản đấu giá. Cũng phải thẳng thắn là chưa có biện pháp thực sự hữu hiệu để xử lý dù chúng ta đã có nhiều cố gắng, kể cả thể chế đã điều chỉnh, đã “luật” hóa hiện tượng thông đồng dìm giá. Qua thanh tra, kiểm tra, chúng tôi không phát hiện được hiện tượng đấu giá viên thông đồng, chủ yếu là các khách hàng với nhau nên rất khó kiểm soát. Ở một số địa phương, chỉ khi người tham gia đấu giá phản ánh, cung cấp chứng cứ cho Công an, Công an vào cuộc thì đã xử lý được.
Liệu có nên đề xuất mạnh dạn là xây dựng Quy chế phối hợp giữa hai ngành Tư pháp – Công an trong lĩnh vực này, chứ không chỉ đơn thuần là đề nghị phối hợp không ạ?
- Hiện nay, việc phát hiện, xử lý vi phạm phần lớn mới dựa vào Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở. Tuy nhiên, những hiện tượng thực tiễn đã nảy sinh như cò mồi, thông đồng dìm giá thì Thanh tra Bộ phát hiện rất khó, do đó trong thời gian tới, việc đề nghị phối hợp với Công an là rất quan trọng. Đề nghị phối hợp với Công an để phát hiện, ngăn chặn các hành vi tiêu cực cũng đã tốt rồi, song nếu phối hợp bằng Quy chế ở Trung ương và địa phương thì chúng tôi thiết nghĩ sẽ thực sự hiệu quả. Chúng ta có thể biết, có thể nghe nói về hiện tượng này, hiện tượng kia chứ không có chứng cứ, nếu có chứng cứ thì hoàn toàn có thể xử lý nghiêm. Đơn cử, qua thông tin báo chí, Công an đã vào cuộc trong vụ đấu giá liên quan đến 236ha cao su ở Bình Phước và mọi thứ trở nên rất minh bạch, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản đã bị bắt do hành vi vi phạm pháp luật của mình.
4. Báo Công thương có bài: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang: Kê biên sai còn đòi cưỡng chế. Bài báo phản ánh: Đơn thư của Công ty CP xây lắp thủy lợi Bắc Giang (TLBG) tới tấp gửi đi; văn bản của các cơ quan nhà nước liên tục chuyển về, vấn đề mấu chốt là Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang (THADS BG) kê biên cả những tài sản không thuộc danh mục tài sản đảm bảo thi hành án. Doanh nghiệp (DN) đang đứng trước bờ vực phá sản.
Là DN nhà nước, sau hơn 40 năm hoạt động, tháng 1/2006, TLBG chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty CP với vốn điều lệ 4 tỷ đồng, trong đó phần vốn nhà nước là 1,150 tỷ đồng, chiếm 28,75%.
Trước đó, công ty đã có quan hệ tín dụng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Bắc Giang (BIDV BG) với tổng số tiền gốc là hơn 12,655 tỷ đồng (tính đến ngày 23/12/2011). Số vốn vay này được đảm bảo bằng một số hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản và các hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành của công ty.
Theo ông Lưu Minh Hải - Giám đốc TLBG - sau khi cổ phần hóa (CPH), hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chính do việc thực hiện CPH quá vội vàng, đặc biệt là về vấn đề xử lý tài chính. Do đó, công ty không thanh toán được các khoản nợ cho ngân hàng đúng thời hạn, vì vậy, ngân hàng đã khởi kiện ra tòa để đòi nợ.
Sau khi tổ chức hòa giải, ngày 3/1/2012, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định số 01/2012/QĐST-KDTM công nhận sự thỏa thuận giữa TLBG và BIDV BG về việc công ty có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng tổng số tiền gốc, lãi, phí phạt là trên 15,607 tỷ đồng.
Trong quyết định này, tòa án đã chỉ rõ và liệt kê chi tiết, chính xác từng hợp đồng thế chấp, cầm cố đã được ký kết giữa TLBG và ngân hàng. Quyết định này là cơ sở pháp lý cuối cùng và duy nhất để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án trong trường hợp TLBG không thực hiện phán quyết nói trên.
Đồng ý với phán quyết của TAND, song do gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên TLBG không thể thi hành được. Vì vậy, đầu năm 2013, Cục THADS BG đã kê biên tài sản đảm bảo của TLBG và tiến hành các bước (thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá…) để thi hành quyết định của tòa án.
Việc làm này là cần thiết, đúng luật và TLBG sẽ hoàn toàn đồng ý và chấp hành nếu trong quá trình kê biên, chấp hành viên của Cục THADS không “nhầm lẫn” khi kê biên luôn một số tài sản không thuộc diện thế chấp ngân hàng theo quyết định của tòa án trước đó.
Ông Lưu Minh Hải cho biết, đối chiếu giữa quyết định của tòa án với danh mục tài sản mà Cục THADS đã kê biên thì có tới 19 danh mục nằm ngoài phán quyết của tòa án và không thuộc diện thế chấp ngân hàng. Trong đó có cây cối, các công trình kiến trúc và nhiều hạng mục phụ trợ khác với số tiền được thẩm định giá lên đến trên 500 triệu đồng.
Với danh mục tài sản kê biên “chưa chuẩn” này, Cục THADS đã tổ chức thẩm định giá và bán đấu giá thành công toàn bộ tài sản đã kê biên.
Ngày 19/2/2014, Cục THADS BG ban hành Quyết định số 06/QĐ-CTHA và Thông báo số 114/TB-CTHA về việc cưỡng chế giao tài sản. Đây chính là nguyên nhân khiến Ban lãnh đạo TLBG cùng toàn thể cổ đông, cán bộ, công nhân viên hết sức bức xúc, vì trước đó, nhiều đơn thư đề nghị xem xét lại việc kê biên, định giá và bán đấu giá tài sản của DN được gửi đi nhưng không được xem xét, xử lý một cách thấu đáo.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Vnexpress có bài: Trung Quốc đưa tàu quét mìn ra giàn khoan trái phép. Bài báo phản ánh: Ngày 26/5, lực lượng Kiểm ngư Việt Nam phát hiện Trung Quốc đưa tàu quét mìn hoạt động trong khu vực hạ đặt giàn khoan trái phép ngoài tàu tên lửa tấn công nhanh.
Cục Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết, hiện có 113 tàu của Trung Quốc bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981. Các tàu này có xu hướng ngăn chặn tàu chấp pháp của Việt Nam ngay từ khoảng cách giàn khoan 9,5 hải lý.
Theo ông Hà Lê, Cục phó Cục Kiểm ngư, hôm nay lực lượng kiểm ngư đã phát hiện tàu tên lửa tấn công nhanh hoạt động thường xuyên quanh khu vực giàn khoan 25-30 hải lý; tàu khu trục tên lửa cách giàn khoan 15-20 hải lý. "Lực lượng kiểm ngư còn phát hiện tàu quét mìn hoạt động xung quanh giàn khoan trái phép", ông Hà Lê nói.
Tàu hải cảnh, tàu kéo, tàu vận tải của Trung Quốc vẫn tổ chức thành nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm từ 8 đến 10 tàu áp sát các tàu Việt Nam nhằm vây ép, đâm va, phun nước.
"Các tàu cá Trung Quốc dàn thành hàng từ 25 đến 30 chiếc nhằm cản trở, ép, đe dọa đâm va, húc khi tàu cá của Việt Nam tiến vào khu vực giàn khoan", ông Hà Lê cho hay.
Dù bị tàu Trung Quốc tấn công gây hư hỏng, nhưng Việt Nam vẫn duy trì các lực lượng khoảng 60 tàu, đấu tranh với cường độ cao, khoảng cách giàn khoan 5 - 6 hải lý.
Trong ngày, tàu kiểm ngư Việt Nam đã bị khoảng 10 tàu Trung Quốc vây ép, tấn công gây hư hỏng. Các tàu kiểm ngư đã chủ động, kịp thời vòng tránh để giảm thiệt hại.
Trả lời câu hỏi về việc Trung Quốc đang dịch chuyển giàn khoan Hải Dương, ông Hà Lê nói, rất có thể Trung Quốc đang dịch chuyển giàn khoan khoảng 100-150 m về hướng bắc. Nhưng vì ở khoảng cách quan sát xa nên rất khó để khẳng định điều này là đúng. "Chúng ta cần có thêm quan sát và kiểm chứng. Nhiều khả năng Trung Quốc dịch chuyển giàn khoan là để phục vụ vấn đề kỹ thuật", ông Lê nhận định.
2. Báo Pháp luật online có bài: Biến động giá vàng: Dập lửa ngay khi nhen nhóm. Bài báo phản ánh: Thêm một lần nữa Ngân hàng Nhà nước đưa ra thông tin vào chiều muộn của ngày nghỉ (25/5), gián tiếp cho thấy trạng thái canh chừng và bám sát diễn biến thị trường của nhà điều hành.
Khi phải canh chừng và giám sát sát sao như vậy, dĩ nhiên là thị trường đang có biểu hiện không bình thường.
Sau những quyết liệt trong năm 2013, thị trường vàng trong nước đã bình ổn kéo dài. Thậm chí có những thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước so với thế giới co hẹp chỉ còn khoảng 1 triệu đồng/lượng. Biến động giá cũng “ru ngủ” nhu cầu giao dịch trong một thời gian dài.
Thế nhưng, từ ngày 13/5 đến nay, đặc biệt sau 20/5, giá vàng trong nước tăng vọt lên cao nhất 37,4 triệu đồng/lượng. Sau khi lãnh đạo vụ chức năng Ngân hàng Nhà nước lên tiếng cảnh báo rủi ro, giá hạ nhiệt nhanh. Nhưng cuối tuần qua xu hướng tăng khá mạnh đã trở lại. Biểu hiện không bình thường là: chỉ trong khoảng chục ngày, giá vàng trong nước đã tăng khoảng 2 triệu đồng/lượng, trong bối cảnh giá vàng thế giới không mấy thay đổi, một bước tăng hiếm thấy trong hơn nửa năm qua.
Trong phát biểu cuối chiều qua, ông Đào Minh Tú, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định: “Những biến động của giá vàng trên thị trường trong nước thời gian qua chủ yếu do yếu tố tâm lý và lợi dụng yếu tố tâm lý bị tác động bởi sự kiện bất ổn tại biển Đông, có thể đã có các yếu tố đầu cơ làm giá hoặc kích động tâm lý đẩy giá lên cao”.
Đáng chú ý, ông Tú cũng nói rằng, qua theo dõi, phân tích các thông tin thị trường, không thấy có các nguyên nhân về biến động giá vàng trên thế giới, về cung cầu vàng trên thị trường…
Thế nhưng, cung - cầu trên thị trường hẳn đang có những thay đổi có thể gây áp lực lên giá.
Đã nửa năm qua, kể từ sau phiên đấu thầu gần nhất 28/12/2013, Ngân hàng Nhà nước đã ngừng đấu thầu vàng miếng. Cũng chừng đó thời gian thị trường không có nguồn cung mới. Cũng gần nửa năm cung cầu trên thị trường tự dưỡng, và tự dưỡng được trong bối cảnh bình thường, ít có các yếu tố tác động đủ lớn.
Nhưng trong tháng 5 này, với biến động mạnh và tách biệt trên, cung - cầu có thể đã thay đổi. Trong khi nguồn cung vàng miếng mới không có sau khi ngừng đấu thầu, nhu cầu lại có thể bị thức tỉnh khi có quan ngại, có tác động tâm lý và “lợi dụng yếu tố tâm lý”; thêm nữa, bước tăng lớn khoảng 2 triệu đồng/lượng rõ ràng là hấp dẫn và kích thích hoạt động đầu tư, đầu cơ.
Tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa trực tiếp can thiệp, ngoài việc đưa thông tin định hướng và khuyến cáo người dân cẩn trọng để tránh thiệt hại trong giao dịch. Trường hợp cần thiết, ông Tú khẳng định “Ngân hàng Nhà nước luôn sẵn sàng và có đủ lượng vàng bán can thiệp mạnh, trên quy mô lớn khi cần thiết để đảm bảo ổn định thị trường vàng trong nước”.
Rõ ràng, với những biến động không bình thường của giá vàng vừa qua, những “mồi lửa” đã có biểu hiện nhen nhóm. Nên chăng cần dập tắt nó ngay từ khi còn nhen nhóm, tránh khả năng phải dồn lực can thiệp nếu đám cháy xẩy ra vì khi đó nguồn lực sẽ tốn kém hơn.
Dĩ nhiên, liên tiếp các thông tin định hướng từ Ngân hàng Nhà nước đưa ra cũng là một biện pháp can thiệp. Một khi cơ quan này thực sự vào cuộc để dập tắt những mồi lửa nhen nhóm, rủi ro đối với hoạt động đầu tư, đầu cơ có thể hiện hữu chứ không dừng lại ở mức độ cảnh báo như hiện nay.
3. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Doanh nghiệp “mắc bẫy” vì luật lập lờ. Bài báo phản ánh: Diễn biến đại án bầu Kiên những ngày qua làm phát lộ nhiều khoảng trống pháp lý cho thấy một môi trường kinh doanh nhiều rủi ro từ chính các quy định pháp luật khiến doanh nghiệp, doanh nhân quan ngại.
Cũng tại phiên tòa, đại diện các Bộ, ngành đã trả lời, có ý kiến về những vấn đề trong vụ án như: góp vốn, mua cổ phần có phải đăng ký kinh doanh hay không, quy định về kinh doanh vàng trạng thái , quy định về thuế, quy định về ủy thác gửi tiền… một cách “nước đôi”, không thuyết phục khiến dư luận càng băn khoăn về lời kêu oan của bầu Kiên.
Diễn biến vụ án cho thấy, "bầu" Kiên bác bỏ cáo buộc “Kinh doanh trái phép” về hành vi kinh doanh tài chính và kinh doanh vàng trạng thái trái phép, góp vốn, mua cổ phần không đăng ký kinh doanh. Thực tế, việc kinh doanh vàng trạng thái trên tài khoản nước ngoài thời điểm đó không bị cấm do pháp luật chưa điều chỉnh. Còn việc góp vốn, mua cổ phần là thực hiện theo đúng Luật Doanh nghiệp, đây là quyền của doanh nghiệp mà không cần đăng ký kinh doanh nên cũng không thể coi là kinh doanh trái phép.
Theo LS Hoàng Đôn Hùng bào chữa cho bầu Kiên, hàng ngàn doanh nghiệp đã và đang công khai góp vốn, mua cổ phần mà không có đăng ký kinh doanh ngành này, và được cấp đăng ký bởi các cơ quan đăng ký kinh doanh, không lẽ "bầu" Kiên có tội?
Bên cạnh đó, "bầu" Kiên bị bắt về hành vi “Kinh doanh trái phép” với những cáo buộc thiếu cơ sở pháp lý, không thuyết phục và đến nay ngay chính các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành vẫn lúng túng không tìm ra câu trả lời.
"Bầu" Kiên cũng kêu oan trước cáo buộc về tội “Trốn thuế” liên quan đến hợp đồng ủy thác của bà Hương với Công ty B&B. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã hỏi và Tổng cục Thuế có văn bản trả lời Hợp đồng này không hợp pháp.
Tuy nhiên, trả lời câu hỏi của HĐXX việc có giữ quan điểm đã trả lời Cơ quan điều tra không, đại diện Tổng cục Thuế không khẳng định mà nêu đây là lĩnh vực mới, đề nghị Tòa hỏi các cơ quan chuyên môn, hỏi Ngân hàng Nhà nước. Đại diện Ngân hàng Nhà nước thì hoàn toàn lúng túng.
Điều khó hiểu nữa là "bầu" Kiên bị khép tội “Trốn thuế” nhưng đến nay cơ quan thuế chưa hề xác định Công ty B&B trốn thuế bao nhiêu tiền, cơ quan giám định của Bộ Tài chính cũng không xác định được số tiền này.
"Bầu" Kiên cùng các cá nhân nguyên Thường trực HĐQT ACB bị kết luận “Cố ý làm trái” vì ủy thác cho nhân viên gửi tiền khi “chưa có hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước”. Căn cứ này cũng lại được xác định bởi một công văn của Ngân hàng Nhà nước trả lời Cơ quan điều tra.
Trong bản kiến nghị gửi đến Quốc hội đề nghị giám sát vụ án này, các LS cho rằng công văn của Ngân hàng Nhà nước có nội dung giải thích luật, đây là vấn đề thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nội dung giải thích của Ngân hàng Nhà nước cũng không hợp lý. Nếu áp dụng và hiểu luật như Ngân hàng Nhà nước, khi hàng loạt luật chậm hướng dẫn thì mọi hoạt động phục vụ đời sống, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp sẽ phải dừng lại?
Từ hàng loạt những bất cập trên, LS Bùi Quang Nghiêm bào chữa cho "bầu" Kiên bày tỏ quan ngại rằng, khi hoạt động kinh doanh rất sôi động và diễn biến từng ngày, từng giờ, luật không rõ ràng, khi chính các cơ quan pháp luật còn phải hỏi cơ quan quản lý nhà nước về việc áp dụng pháp luật, khi các cơ quan quản lý còn không nhất quán thì các rủi ro với doanh nhân còn quá nhiều, sẽ tác động xấu đến môi trường đầu tư kinh doanh là điều khó tránh khỏi.
Nhìn nhận trên cơ sở các quy định của pháp luật, Thạc sỹ Trần Sơn (ĐLS Hà Nội) cho rằng có cơ sở để khẳng định một số hành vi cụ thể của "bầu" Kiên trong vụ án này hoàn toàn không phạm pháp. Ông Trần Sơn viện dẫn Điều 7 Luật Doanh nghiệp quy định: Doanh nghiệp có quyền kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm; tại Điều 8 Luật này cho phép chủ động lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh.
Tương tự, Điều 26 Luật Đầu tư cho phép nhà đầu tư thực hiện mua cổ phần, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác... Như vậy, hành vi thực hiện mua cổ phần, cổ phiếu, ủy thác kinh doanh là điều pháp luật không cấm, và như vậy nó không cấu thành tội phạm.
Thạc sỹ Phạm Thanh Bình (Cty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội) thì phân tích: Có hai nhóm đối tượng pháp luật điều chỉnh: cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép; công dân, doanh nghiệp, doanh nhân được phép làm những gì pháp luật không cấm.
Tại Điều 2 Bộ luật Hình sự về Cơ sở của trách nhiệm hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Hành vi các bị cáo thực hiện mà pháp luật không cấm, Bộ luật Hình sự không quy định thì việc khép họ vào một tội danh nào đó, theo LS Bình là khiên cưỡng, cần phải xem xét lại./.