Điểm tin báo chí sáng ngày 03 tháng 4 năm 2014

03/04/2014
Trong ngày 02/4 và đầu giờ sáng ngày 03/4/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Đòi quyền làm mẹ của chính con mình. Bài báo phản ánh: Bà Trần Thị Ngọc Đông (SN 1960, trú tại thị trấn Hoà Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh) quê ở Tây Ninh, khi trưởng thành đã lên TP.Hồ Chí Minh bán hàng rong và chung sống như vợ chồng với ông Phan Công Danh (SN 1957, quê ở xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) nhưng không đăng kí kết hôn. 

Khi bà đang mang thai đứa con đầu lòng thì vợ chồng đường ai nấy đi, buộc bà phải sinh con và nuôi con một mình. Khi đứa con cứng cáp, người “chồng” quay về năn nỉ bà Đông nối lại tình cảm. Sau đó, bà mang thai đứa con thứ hai, người “chồng” lại đòi chia tay để bà vượt cạn một mình. 

Thấy hoàn cảnh mẹ con bà Đông quá khó khăn, một người cô ruột của “chồng” là bà Phan Thị Năm (SN 1921, quê ở Tiền Giang) xin đưa hai cháu về quê nuôi dưỡng giúp. Khi tụi nhỏ đến tuổi đi học, bà Năm ra UBND xã làm giấy khai sinh. Con trai tên là Phan Hữu Lợi, cô con gái tên Phan Thị Ri Na. 

Oái oăm là trong giấy tờ khai sinh của cả hai, bà Năm đều khai mình là mẹ, bà Đông hoàn toàn không biết việc mình đã bị mất đi cái quyền thiêng liêng này.

Năm 1997, bà Năm qua đời, bà Đông đón hai con lên Tây Ninh sống cùng. Năm 2011, cô Ri Na may mắn được hàng xóm làm mối lấy chồng ngoại quốc. Rắc rối bắt đầu “lộ diện” khi cô con gái làm thủ tục đăng kí kết hôn, cán bộ tư pháp thắc mắc: “Tại sao mẹ và con chênh nhau nhiều tuổi quá vậy”. 

Giật mình, bà Đông mới kiểm tra lại giấy tờ và phát hiện người đứng tên mẹ trong hai giấy khai sinh của Phan Hữu Lợi và Phan Thị Ri Na không phải là bà Đông mà là bà Năm. 

“Bấy giờ tôi mới té ngửa lo lắng, nghe người ta bảo rằng nếu để nguyên như thế thì khi ra pháp luật sẽ không có quan hệ gì với con ruột nên mới đi “đòi” quyền làm mẹ của chính con mình đẻ ra”, bà Đông nói.

Từ năm 2012, bà Đông đến UBND thị trấn Hoà Thành rồi UBND huyện Hoà Thành là nơi đăng kí hộ khẩu tạm trú hiện nay nhờ hướng dẫn thủ tục chỉnh sửa giấy khai sinh. Cán bộ tư pháp huyện hướng dẫn bà Đông về lại xã An Thái Đông, nơi hai con bà làm giấy khai sinh để xác nhận thông tin.

Bà Đông về Tiền Giang nhờ xác minh. Thế nhưng khi đã có xác nhận của công an và UBND xã An Thái Đông, cán bộ huyện Hoà Thành lại trả lời bà Đông rằng trường hợp của bà không thể giải quyết do người đứng tên mẹ trong giấy khai sinh đã qua đời. Nếu người cô ruột Phan Thị Năm còn sống thì mới chỉnh sửa được. 

Bế tắc, bà Đông đành gấp hồ sơ chấp nhận cảnh không được làm mẹ của chính hai người con đứt ruột đẻ ra: “Tìm về nơi các con đăng kí khai sinh thì người ta bảo thẩm quyền thuộc về địa phương cư trú hiện tại bởi tôi đã cắt hộ khẩu. Nhưng đến UBND huyện Hoà Thành thì người ta lại trả hồ sơ, trả lời không cải chính được”, bà Đông bế tắc trình bày.

Gần ba năm qua, bản thân bà và hai con đã làm đơn đề nghị được thay đổi thông tin bố mẹ trên giấy khai sinh của con nhưng đến nay vẫn bế tắc.

2. Báo Giáo dục Việt Nam có bài Kết luận ban đầu về sai phạm tại Phòng công chứng Mê Linh Hà Nội. Bài báo phản ánh: Ngày 12/3/2014, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đã có Văn bản số 508/STP-BTTP gửi Phòng công chứng số 9 yêu cầu công chứng viên Phạm Hữu Hùng có bản giải trình về việc Báo Giáo dục Việt nam đã nêu; Yêu cầu Phòng công chứng số 9 báo cáo số lượng hợp đồng mua bán, ủy quyền xe ô tô do công chứng viên Hùng đã công chứng từ ngày 01/5/2008 đến ngày 31/12/2011.

Ngày 12/3/2014, Sở Tư pháp đã có Văn bản số 509/STP-BTTP gửi Cơ quan An ninh Điều tra - Công an thành phố Hà Nội đề nghị cung cấp thông tin liên quan đến việc điều tra hợp đồng ủy quyền (xe ô tô) số công chứng 111, quyển số 02/2009/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 15/9/2009 của công chứng viên Phạm Hữu Hùng – Phòng Công chứng số 09 và các hồ sơ công chứng hợp đồng ủy quyền, mua bán xe ô tô từ tháng 5/2008 đến ngày 31/12/2011.

Ngày 13/3/2014, Sở Tư pháp đã ban hành Quyết định số 68/QĐ-STP thành lập Đoàn Kiểm tra Phòng Công chứng số 09 thành phố Hà Nội.

Đối với Hợp đồng ủy quyền  (xe ô tô) số công chứng 111, qua kiểm tra, Sở Tư pháp xác định một số dấu hiệu vi phạm như: Trên trang 01 của hợp đồng không có chữ ký của Bên ủy quyền (bà Phạm Hồng Vân, ông Phùng Đại Hải) và Bên được ủy quyền (ông Lê Tuấn Dũng) là trái với Điều 35, Điều 36 Luật Công chứng; việc đánh số trang không liên tục từ trang 1 đến trang cuối.

Đối với các hồ sơ công chứng hợp đồng ủy quyền, mua bán xe ô tô từ tháng 5/2008 đến ngày 31/12/2011, Sở Tư pháp khẳng định: Công chứng viên Phạm Hữu Hùng công chứng từ ngày 01/5/2008 đến ngày 31/12/2011 tổng số là 1.056 hợp đồng (hợp đồng mua bán xe ô tô là 258; hợp đồng ủy quyền xe ô tô là 798).

Trong đó có những hợp đồng công chứng viên Phạm Hữu Hùng đã vi phạm quy trình, thủ tục  theo quy định của Luật Công chứng như: Công chứng viên không trực tiếp chứng kiến các bên giao kết ký vào hợp đồng; các bên tham gia giao kết không ký vào từng trang của hợp đồng; việc đánh số trang không liên tục từ trang 1 đến trang cuối; một số hợp đồng thiếu bản phô tô chứng minh thư nhân dân của các bên; một số hợp đồng ghi sai địa điểm công chứng; một số hợp đồng thiếu căn cứ để công chứng khi bên ủy quyền, bên bán chỉ do 1 người ký.

Sở Tư pháp cũng cho rằng, tất cả 1.056 hồ sơ công chứng từ ngày 01/5/2008 đến ngày 31/12/2011 đều có biên lai, hóa đơn thu phí và lệ phí công chứng tương ứng. Tổng số tiền là phí và lệ phí công chứng của 1.056 hợp đồng là 245.824.000 đồng.

Trong thời gian tới, Sở Tư pháp tiếp tục phối hợp với các cơ quan có liên quan để tổ chức thanh tra Phòng Công chứng số 9 theo sự chỉ đạo của UBND Thành phố tại Văn bản số 1287/VP-NC ngày 14/3/2014 về việc thanh tra đối với tổ chức hành nghề công chứng có sai phạm như Báo Giáo dục Việt Nam đã phản ánh; tiếp tục làm rõ các vi phạm Luật Công chứng của công chứng viên Phạm Hữu Hùng để xử lý hành chính theo quy định của pháp luật; áp dụng hình thức kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm.

Theo Văn bản số 479/ANĐT (Đ2) ngày 15/5/2012 của Cơ quan An ninh điều tra – Công an TP.Hà Nội: Ghi lời khai một số người có hồ sơ hợp đồng công chứng ủy quyền ô tô tại Phòng Công chứng số 9 – Mê Linh do công chứng viên Phạm Hữu Hùng thực hiện, họ đều khẳng định không lên Phòng công chứng làm thủ tục công chứng, việc ký, công chứng đều diễn ra tại nhà, do công chứng viên thực hiện và khi ký không có đủ mặt 03 bên gồm: Bên ủy quyền, bên được ủy quyền và công chứng viên theo như quy định của Luật Công chứng và Luật Dân sự. Phí Công chứng cho 01 hợp đồng như nêu trên khoảng 800.000 đồng.

Theo Sở Tư pháp Hà Nội, Công chứng viên Phạm Hữu Hùng đã công chứng từ ngày 01/5/2008 đến ngày 31/12/2011 tổng số là 1.056 hợp đồng. Tổng số tiền là phí và lệ phí công chứng của 1.056 hợp đồng là 245.824.000 đồng (có biên lai, hóa đơn).

Như vậy, nếu lệ phí là 800.000 đồng/hợp đồng, với 1.056 hợp đồng số tiền thực thu phải là 844.800.000 đồng. Vậy số tiền còn lại là gần 600 triệu đồng (không biên lai, hóa đơn) hiện nay đang ở đâu?

3. Báo Đại đoàn kết có bài Quảng Nam: Cán bộ xã... gài bẫy bắt bò của dân. Bài báo phản ánh: Tại xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước (Quảng Nam) vừa xảy ra vụ việc xôn xao dư luận. Đó là việc một cán bộ tư pháp xã cùng 3 hộ gia đình đặt bẫy bắt bò của dân rồi đem bán. Việc bán bò này còn được công an xã "bật đèn xanh”. 

Trong đơn gửi báo Đại Đoàn Kết, ông Trương Văn Trợ (SN 1964, trú thôn 2, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam), trình bày: "Vào ngày 6-3-2014, một trong 5 con bò của gia đình tôi nặng khoảng 220kg đi lạc vào địa phận thôn 3, xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước. Đến 15 giờ cùng ngày, tôi nhận được tin con bò của tôi đã bị mắc bẫy kẹp ở rừng keo của ông Nguyễn Khanh, ở khu vực núi Hố Biển -Dương Con, xã Tiên Phong. Bò đã bị chặt 4 chân. Ông Khanh là cán bộ Tư pháp xã Tiên Phong. Sau khi nhận tin, tôi đến hiện trường lúc 17 giờ để nhận lại bò, thì ông Khanh không cho và yêu cầu tôi đền bù thiệt hại rẫy keo trồng của ông với giá 40 triệu đồng, với lý do rằng bò của tôi phá keo. Sau 3 tiếng đồng hồ thương lượng không có kết quả, chính quyền địa phương xã Tiên Phong đã lập biên bản hiện trường. Đến 20 giờ, do trời tối, đường xa nên tôi về thì ngay sau đó số người này, có cả Công an xã Tiên Phong đã xẻ thịt con bò của tôi đem bán và chia nhau” – ông Trợ trình bày. Bức xúc trước việc hành xử trái với pháp luật của cán bộ xã này, ông Trợ đã làm đơn tố cáo đến các cơ quan chức năng. Ông trợ cũng cho biết: "Sau khi sự việc xảy ra, tôi đã làm đơn báo với chính quyền xã Tiên Phong và nhận được trả lời của ông Trưởng Công an xã Tiên Phong: Ông bỏ về thì tôi cho họ làm thịt”.

Tại UBND xã Tiên Phong, sáng ngày 31-3, làm việc với PV báo Đại Đoàn Kết, ông Nguyễn Khanh, giải thích: "Tôi cùng với 3 hộ dân thôn 3, trồng khoảng 175.000 cây keo con trên diện tích 20ha, có tổng giá trị khoảng 400 triệu đồng. Sau Tết đến nay, để bảo vệ rừng keo, nhóm hộ gia đình chúng tôi mua bẫy kẹp về bẫy bò và cắm biển báo trong rừng có kẹp và liên tục cảnh báo, nhưng người dân vẫn để rất nhiều bò vào phá rừng keo. Đến chiều ngày 6-3, tôi nhận được tin có một con bò đực mắc bẫy kẹp, tôi cùng Công an xã Tiên Phong đến hiện trường để lập biên bản sự việc. Tại đây tôi yêu cầu bồi thường thiệt hại số keo do bò phá là 40 triệu đồng. Hai bên thương lượng nhưng không thống nhất được. Ông Trợ nói rằng: Con bò đó các ông làm gì cứ làm và đến 20 giờ ông ta bỏ về không ký vào biên bản sự việc. Lúc này nhóm hộ của tôi được sự thống nhất của Công an xã Tiên Phong, nên bán con bò này với giá 10.500.000 đồng, sau đó người mua mổ bò bán”. Còn ông Nguyễn Ngọc Cảnh - Phó Trưởng Công an xã Tiên Phong, cho rằng: "Chúng tôi có điện thoại xin ý kiến chuyên môn của Công an huyện Tiên Phước về sự việc này, nên mới đồng ý giao lại con bò trên cho chủ rừng tự quyết định”.

Ông Vũ Minh - Trưởng Ban Tư pháp huyện Tiên Phước, cho rằng: "Việc làm của cán bộ tư pháp xã và mấy chủ hộ có rừng bắt bò là sai pháp luật. Bởi vì, nếu bò phá rẫy, anh có thể bắt giữ lại đó rồi thông báo đến chủ bò đến nhận, nếu thấy rừng thiệt hại nặng anh có thể gửi đơn kiện ra tòa yêu cầu bồi thường thiệt hại, chứ anh không được bán bò của người ta.” Ông Nguyễn Văn Cự - Trưởng Công an huyện Tiên Phước, cũng khẳng định: "Công an huyện đã nhận được đơn báo cáo sự việc của ông Trương Văn Trợ, hiện đã giao cho anh em điều tra xác minh làm rõ sự việc. Dứt khoát không có việc Công an huyện cho phép bán bò dân. Chúng tôi sẽ điều tra, ai sai đến đâu sẽ xử lý đến đó!”.

4. Báo Đại đoàn kết có bài Cán bộ làm sai phải bồi thường. Bài báo phản ánh: Công ty Đại Thiện và Công ty Hoàng Hiệp của gia đình và anh em ông Nguyễn Đình Nguyên bị thiệt hại 3,4 tỷ đồng do bị tiêu hủy hàng triệu con gián đất dù việc nuôi gián đất của ông đã được Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bắc Ninh cấp phép. Những thiệt hại đối với công ty của ông Nguyên sẽ phải được cơ quan chức năng bồi thường dù có thể sự bồi thường chưa đủ để đền bù những thiệt hại mà công ty gia đình ông phải chịu. Ai sai trong việc cấp phép "nhầm” này - Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bắc Ninh hay Phòng Đăng ký kinh doanh nằm trong Sở này - vẫn còn đang là vấn đề tranh cãi. Nhưng có một điều chắc chắn rằng kinh phí dùng để bồi thường thiệt hại này cho doanh nghiệp sẽ được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước, tức là tiền của nhân dân. Thời gian qua, tình trạng cơ quan nhà nước hành xử sai dẫn đến những thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần cho người dân, cho doanh nghiệp liên tục xảy ra từ trong lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính đến hoạt động tố tụng hình sự, thi hành án… Đặc biệt, những thiệt hại, tổn thất mà người dân phải gánh chịu trong các vụ án oan sai là vô cùng lớn và không có sự bồi thường nào bù đắp nổi. Nguyên nhân của các sai lầm hầu hết đều do lỗi chủ quan của những người thi hành công vụ. Ông Nguyễn Thanh Chấn ở tỉnh Bắc Giang bị án oan phải tù 10 năm do bị bức cung, nhục hình trong quá trình điều tra xét hỏi chỉ là một vụ điển hình trong nhiều vụ về những sai phạm trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong lĩnh vực quản lý hành chính cũng không ít vụ việc xảy ra do lỗi của những người có trách nhiệm thực thi công vụ từ việc ban hành văn bản pháp quy, văn bản hành chính trái luật gây ra những tổn hại cho doanh nghiệp và người dân không thể cân đong đo đếm được cho đến những vụ việc xử lý, thừa hành công vụ sai sót dẫn đến những tổn thất, thiệt hại cụ thể, phải bồi thường cho người dân. Vụ công an tỉnh Hải Dương phải bồi thường trị giá gần 1 tỷ đồng cho người dân Cần Giờ do giữ hàng sai luật khiến hơn 2 tấn bạch tuộc bị ươn hỏng; vụ cảnh sát giao thông U Minh Thượng, Cà Mau phạt xe chở cá với lý do tài xế không chấp hành mệnh lệnh của cảnh sát giao thông một cách vô lý khiến người dân  vẫn đang khiếu kiện đòi bồi thường là những vụ việc thu hút sự chú ý của công luận thời gian gần đây. Trong một số vụ việc người bị thiệt hại đã phần nào được hài lòng vì cách xử lý, giải quyết đền bù nhanh và thỏa đáng của cơ quan chức năng. Nhưng điều mà công luận quan tâm là trong các vụ việc đó những người thực thi công vụ sai phạm dẫn tới việc bồi thường đã bị xử lý và phải bỏ tiền túi ra hoàn trả kinh phí của Nhà nước như thế nào? Mức độ hoàn trả có đủ để ngăn ngừa, răn đe các trường hợp sai phạm khác tái diễn?... Những thông tin như vậy rất cần được công khai, minh bạch trên các phương tiện thông tin đại chúng cho dân được biết. 

Theo Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước (năm 2009), và Nghị định 16/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật, người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Mức độ hoàn trả phụ thuộc vào mức độ lỗi của người thi hành công vụ, mức độ thiệt hại và điều kiện kinh tế người vi phạm, với mức phạt tối đa không quá 36 tháng lương cho lỗi cố ý và không quá 3 tháng lương cho lỗi vô ý của người vi phạm. Tuy nhiên, cả Luật và Nghị định đều không giải thích rõ ràng thế nào là lỗi vô ý hay cố ý. Theo cách phân chia như vậy, trong hầu hết các trường hợp, lỗi của người vi phạm đều có thể xếp vào lỗi vô ý bởi họ có thể viện dẫn lý do không nắm được quy định này, thông tư kia, nên vô tình phạm lỗi và chỉ phải hoàn trả tối đa 3 tháng lương. Với nhiều vụ vi phạm khiến Nhà nước phải bồi thường tiền tỷ như hiện nay, mức độ phải hoàn trả của người vi phạm như vậy là quá thấp không đủ sức răn đe, gây tổn hại lớn cho ngân sách. Lấy ví dụ như vụ tiêu hủy gián đất của Công ty Đại Thiện và Công ty Hòa Hiệp nói trên do Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bắc Ninh cấp phép sai, Nhà nước có thể phải chi trên 3 tỷ đồng bồi thường cho người thiệt hại, nhưng mức hoàn trả kinh phí bồi thường tối đa mà những người làm sai có thể phải trả sẽ không quá 20 triệu đồng. Một tỷ lệ quá nhỏ so với ngân sách nhà nước phải gánh chịu để khắc phục hậu quả do cán bộ làm sai.

Để tăng cường ý thức trách nhiệm và chất lượng chuyên môn của đội ngũ công chức, tránh để xảy ra những lỗi vi phạm do không nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm kém của những người thực thi công vụ, cần xem xét lại những quy định về hoàn trả tiền bồi thường và xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ. Cần quy định rõ ràng các mức độ lỗi về chuyên môn nghiệp vụ, về ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ, làm cơ sở cho các mức hoàn trả bồi thường cũng như tăng mức hoàn trả tối đa so với quy định hiện hành. Thông tin về việc hoàn trả của người vi phạm cũng cần được thông tin trên báo chí và các phương tiện truyền thông để người dân được biết. Qua các vụ việc cơ quan chức năng làm sai gây thiệt hại, tổn thất cho doanh nghiệp trong thời gian qua người dân có thể thấy sự yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ và về ý thức trách nhiệm của những người thực thi công vụ là nguyên nhân chủ yếu. Những "lỗ hổng” như vậy đang cần phải sớm "lấp đầy” trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 của Chính phủ hiện nay với mục tiêu trọng tâm là xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ "công bộc” phục vụ nhân dân. 

II-THÔNG TIN KHÁC

Báo Phụ nữ Online có bài Năng lực kém hay “trò đùa” của cơ quan quản lý?. Bài báo phản ánh: Chỉ trong một thời gian ngắn, Cục Nghệ thuật biểu diễn liên tục “hố hàng” khi bị yêu cầu thu hồi văn bản “cấm cửa” hoa hậu Diễm Hương tham gia các buổi biểu diễn nghệ thuật, bị thua kiện trong việc dừng cuộc thi Nữ hoàng biển 2013 vì ra các văn bản không đúng luật.

 Vụ hoa hậu Diễm Hương bị cấm diễn đình đám đến độ Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) chiều 31/3 phải có cuộc họp với đại diện Cục Nghệ thuật biểu diễn - NTBD (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Ngày 7/3 Cục này ra văn bản 131 tạm dừng cấp phép cho Diễm Hương tham gia biểu diễn nghệ thuật và trình diễn thời trang. Theo Cục NTBD, hoa hậu Diễm Hương đã “không tuân thủ quy định của pháp luật, vi phạm quy tắc về đạo đức của người hoạt động nghệ thuật”, cố tình gian dối về tình trạng hôn nhân để tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2012. Căn cứ để Cục NTBD ban hành công văn này là Quy chế 87/2008 về tổ chức thi hoa hậu, hoa khôi, người đẹp. Tuy nhiên, đại diện Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật lại cho rằng, việc dựa vào Quy chế 87 là không chính xác vì quy chế trên đã bị Nghị định (NĐ) 79/2012/NĐ-CP (gọi tắt là NĐ 79) năm 2012 bãi bỏ. Trong NĐ 79 không có quy định nào để xử lý hành vi của hoa hậu Diễm Hương, cũng như không có bất cứ cơ sở pháp luật nào để “cấm diễn” đối với hoa hậu này. Trước thực tế đó, ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, khẳng định công văn 131 có sai sót, cần phải thu hồi.

Trước đó không lâu, ngày 18/3, TAND tỉnh Khánh Hòa cũng đã xử Cục NTBD thua kiện trong vụ Công ty TNHH Quảng cáo truyền thông Rồng Việt kiện Cục này do đã thu hồi quyết định cho phép tổ chức cuộc thi Nữ hoàng biển Việt Nam 2013.

Rõ ràng, với hành vi cố tình gian dối, giả mạo hồ sơ, việc Diễm Hương bị xử phạt là hợp lý. Hành vi gian dối của cô đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của quốc gia với các tổ chức sắc đẹp thế giới. Chỉ tiếc là cơ quan quản lý áp dụng một quy chế đã hết hiệu lực để xử lý. Việc một cơ quan quản lý không “cập nhật” được thông tin về những quy định do chính mình ban hành để rồi đưa ra lệnh cấm xong rồi lại phải thu hồi, chẳng khác gì một trò đùa. Điều này cho thấy năng lực xử lý công việc cũng như kỹ thuật xây dựng văn bản của Cục NTBD là rất yếu kém. Quay trở lại với lệnh cấm của Diễm Hương, chưa kể nội dung, một văn bản với hình thức là "công văn" thì làm sao là lệnh cấm được? Ông Lê Thanh Liêm, Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ VH-TT-DL) phải “chữa cháy” bằng cách cho rằng công văn 131 chỉ mang tính hướng dẫn về chuyên môn nhưng chưa đạt chuẩn về mặt câu chữ nên gây ra sự hiểu nhầm.

Trao đổi với phóng viên Báo Phụ Nữ ngày 1/4, chính ông Nguyễn Thành Nhân, người trực tiếp soạn thảo văn bản “cấm diễn” đối với Diễm Hương cũng như ông Nguyễn Đăng Chương, Cục trưởng Cục NTBD, cùng thừa nhận còn nhiều kẽ hở trong NĐ 79 về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu cũng như thông tư hướng dẫn NĐ này. Ít có NĐ nào vừa ban hành hơn một năm đã phải sửa đổi như NĐ 79, dù Cục NTBD, đơn vị trực tiếp soạn thảo văn bản cho biết đã xin ý kiến các tỉnh thành cũng như Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp. Mới đây, tại hội nghị tổng kết một năm thực hiện NĐ 79, Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL Hồ Anh Tuấn khẳng định, quan điểm của Bộ này là nếu Cục NTBD sai thì Cục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước bộ.

Theo luật sư Lê Văn Tuấn (Văn phòng Luật sư Lê Văn Tuấn và cộng sự), người đại diện cho Rồng Việt, việc Cục NTBD ban hành Quyết định số 215/QĐ/NTBD ngày 1/6/2013 về việc thu hồi quyết định cho phép tổ chức cuộc thi Nữ hoàng biển Việt Nam 2013 thể hiện sự lạm quyền, tùy tiện trong việc cấp phép và thu hồi giấy phép, vì không thông qua quy trình giải quyết vi phạm theo các thủ tục xử phạt hành chính. Chính vì điều này, TAND tỉnh Khánh Hòa đã phán quyết Cục NTBD sai. Với quyết định sai này, Cục đã gây thiệt hại cho Rồng Việt một số tiền không nhỏ, ước tính ban đầu trên hai tỷ đồng.

Thiệt hại dễ thấy nhất từ những văn bản sai luật của Cục là trường hợp của Diễm Hương. Tư cách giám khảo của Diễm Hương tại một cuộc thi bị hủy bỏ vì lệnh “dừng cấp phép”, kéo theo những hợp đồng đã ký cũng không còn… Người quản lý của Diễm Hương cho biết, con số thiệt hại oan đó là trên một tỷ đồng, chưa kể tiền cát-sê của Diễm Hương tại phim Mỹ nhân Sài thành. Cũng với phim này, đơn vị sản xuất đã bị đặt trong tình thế phải thay Diễm Hương bằng diễn viên khác, dù phim phải quay lại 20 tập Diễm Hương đã đóng. “Đúng là chưa có văn bản nào chính thức cấm Diễm Hương đóng phim, nhưng chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Thà bỏ đi 20 tập còn hơn quay hết phim rồi... bỏ tất cả”, ông Nguyễn Quang Minh - Giám đốc Cát Tiên Sa, đơn vị sản xuất Mỹ nhân Sài thành cho biết. Với 20 tập phim, kinh phí sản xuất bị mất khoảng 10 tỷ đồng. Vấn đề đặt ra: ai sẽ bồi thường cho người bị thiệt hại?



File đính kèm