I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Đề nghị cách chức Chi cục trưởng thi hành án thích chung chi. Bài báo phản ánh: Ngày 25-10-2013, Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Sóc Trăng cùng lãnh đạo huyện Mỹ Xuyên họp xem xét kỷ luật ông Hứa Xuân Hương - Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên - có dấu hiệu vòi vĩnh người được THA (Báo CATP ngày 29-9-2013 thông tin). Kết quả bỏ phiếu kỷ luật, 1 phiếu giáng chức, 3 phiếu khiển trách, 4 phiếu cách chức. Dự kiến trong tuần, Cục THADS tỉnh Sóc Trăng sẽ họp hội đồng xét kỷ luật ông Hương.
Như Báo CATP thông tin, ngày 8-2-2012, TAND tỉnh Sóc Trăng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp kinh doanh thương mại về “Hợp đồng mua bán hàng hóa”. Tòa buộc DNTN Mai Anh hoàn trả cho Nguyễn Văn Tài (SN 1946, ngụ thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp) 734 triệu đồng. Bản án có hiệu lực, ông Tài đến Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên đề nghị xác minh tài sản của bên thua kiện. Ông Hương với tư cách là Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên, là chấp hành viên thi hành án (THA) bản án nói trên nhưng thiếu hợp tác với người thắng kiện. Ông Hương nhiều lần gọi điện hối thúc ông Tài chuyển tiền vào tài khoản cá nhân. Trước sức ép của ông Hương, ông Tài chuyển vào tài khoản của ông Hương năm triệu đồng. Từ đó về sau, bản án không thi hành được. Ông Hương có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ THA.
Khi Báo CATP phản ánh, ông Tài nhận ba thửa đất của ông Ngự mà trước đó Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên kê biên giao cho ông Tài nhưng có hai thửa thế chấp ngân hàng. Ông Hương không thành thật với đoàn kiểm tra và có dấu hiệu sửa hồ sơ đổ lỗi cho cấp dưới.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Hành chính hóa hội công chứng?. Bài báo phản ánh: Trình bày tờ trình về dự án Luật Công chứng sửa đổi trước QH vào sáng 29-10, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho hay, dự thảo đã bổ sung một quy định về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên.
Theo đó, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, việc tập sự hành nghề công chứng và thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành nghề công chứng theo quy định của luật này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Nêu quan điểm của cơ quan thẩm tra về quy định trên, Ủy ban Pháp luật của QH cho rằng quy định tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành nghề công chứng và nghĩa vụ của công chứng viên phải tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp là không phù hợp, dễ tạo ra cách hiểu là Nhà nước đang áp đặt việc thành lập các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Bên cạnh đó dễ dẫn đến việc hành chính hóa tổ chức và hoạt động của các tổ chức này không bảo đảm nguyên tắc tự nguyện trong việc hình thành hội.
Hơn nữa, nếu luật chuyên ngành nào cũng quy định về việc thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp sẽ gây ra sự thiếu thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước về hội nói chung. Do đó, thay vì quy định quá chi tiết về thủ tục cho phép thành lập hay tổ chức của hội, luật này chỉ nên xác định vai trò và điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên.
3. Báo Dân trí có bài Vụ án 194 phố Huế: “Thế lực ngầm” chống lưng, điều khiển". Bài báo phản ánh: Sau rất nhiều nỗ lực của Cơ quan Điều tra, sau cả một quá trình đấu tranh đầy cam go của các phương tiện truyền thông, hành vi phạm tội của nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án Dân sự quận Hai Bà Trưng - Trịnh Ngọc Chung đã bị vạch trần và đưa ra ánh sáng.
Ngày 08/7/2013, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã ban hành cáo trạng số 18/VKSNDTC-V1A truy tố bị can Trịnh Ngọc Chung theo khoản 3, Điều 296 Bộ luật Hình sự, về tội “Ra Quyết định trái pháp luật”. Quyết định truy tố này của VKSNDTC ngay lập tức nhận được sự tán thưởng, đồng tình của đông đảo nhân dân thủ đô và hàng triệu bạn đọc trên cả nước.
Bị can Trịnh Ngọc Chung bị VKSNDTC truy tố bằng bản cáo trạng ngày 08/7/2013 theo khoản 3, Điều 296 Bộ luật Hình sự, về tội “Ra Quyết định trái pháp luật” với khung hình phạt đến 10 năm tù, tức là loại tội phạm rất nghiêm trọng. Dẫn chiếu theo quy định trên đây thì thời hạn đưa vụ án này ra xét xử tối đa không quá 04tháng (kể cả trong trường hợp phức tạp) kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án.
Tuy nhiên, tính đến ngày hôm nay (30/10/2013) thời hạn đưa vụ án ra xét xử của vụ án này đã gần hết nhưng phía gia đình bị hại 194 phố Huế phản ánh: Vẫn chưa nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử của TAND TP Hà Nội. Thậm chí gia đình 194 phố Huế chưa từng được TAND TP Hà Nội mời lên làm việc về vụ án!
Lật lại quá trình giải quyết vụ án, Báo Dân trí đã từng phản ánh, đã không dưới một lần vị nguyên Chi cục trưởng này được nhận “ngoại lệ” về thời hạn tố tụng. Và lần này, tại Cơ quan xét xử là TAND TP Hà Nội, liệu Trịnh Ngọc Chung còn được hưởng “đặc quyền” về thời hạn tố tụng nữa hay không?
Đến nay đã hơn 2 năm kể từ ngày Trịnh Ngọc Chung nhân danh “Nhà nước” cưỡng chế trái pháp luật ngôi nhà 194 phố Huế khiến cho gia đình 194 lâm vào thảm cảnh khốn cùng, tan đàn xẻ nghé, mỗi người lang bạt một nơi. Vụ án đã thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan ngôn luận và được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thủ đô với mong muốn pháp luật được xử lý công bằng, nghiêm minh đối với kẻ phạm tội dù đó là bất kỳ ai. Tuy nhiên, vụ án vẫn bị kéo dài quá lâu, gây hoang mang trong lòng dư luận với quá nhiều tin đồn về “thế lực ngầm” chống lưng, điều khiển.
Luật Là một lãnh đạo của Cơ quan Thi hành án dân sự cấp quận ngay giữa thủ đô Hà Nội, Trịnh Ngọc Chung đã cho cưỡng chế Thi hành án một tài sản mà không cần căn cứ vào bất cứ một bản án có hiệu lực pháp luật nào theo quy định tại Điều 70 Luật Thi hành án năm 2008. Bất chấp bản án 143/2007/QĐST-KDTM của TAND TP Hà Nội đã bị hủy, bất chấp quá trình kê biên có nhiều sai phạm, Trịnh Ngọc Chung đã cố tình làm giả hồ sơ để hợp thức hóa thủ tục bán đấu giá ngôi nhà 194. Điều này cho thấy thái độ đứng trên luật của Trịnh Ngọc Chung, lợi dụng quyền lực công để thực hiện đến cùng hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của Trịnh Ngọc Chung được chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản, thống nhất ngay từ ban đầu nhằm cưỡng chế bằng được ngôi nhà 194 đã được Cơ quan điều tra làm sáng tỏ.
Hậu quả từ hành vi phạm tội của y đã khiến gia đình 194 phố Huế rơi vào cảnh mất nhà cũng đã quá rõ ràng, thế nhưng vụ án vẫn chưa được giải quyết dứt điểm đã dấy lên nhiều hồ nghi về hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, làm mất lòng tin của công dân tới Cơ quan Nhà nước gây nên hậu quả rất nghiêm trọng về an ninh trật tự, chính trị trong xã hội.
Vì thế, hơn bao giờ hết, dư luận đang hy vọng về một bản án xét xử công minh, đúng người, đúng tội đối với bị cáo Trịnh Ngọc Chung, cũng như giải quyết triệt để hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, khôi phục nguyên trạng ngôi nhà cho gia đình 194 phố Huế.
Báo Dân trí đề nghị Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khẩn trương chỉ đạo, giám sát việc TAND TP Hà Nội xét xử công tâm, đúng pháp luật vụ án trên.
4. Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin Truyền hình trực tiếp Lễ công bố Ngày Pháp luật. Bài báo đưa tin: Việc tổ chức Ngày Pháp luật năm 2013 thực sự trở thành sự tiếp nối đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý sâu rộng nêu trên, nhằm phát huy ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trong thực hành “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Hôm qua (29/10), tại Hội nghị giao ban lãnh đạo các cơ quan thông tấn, báo chí thường kỳ do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thúy Hiền đã giới thiệu những nội dung cơ bản về Ngày Pháp luật nước CHXHCN Việt Nam lần đầu tiên sẽ được tổ chức vào ngày 9/11 tới đây.
Theo đó, chủ đề Ngày Pháp luật năm 2013 được xác định là “Toàn dân xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thời gian triển khai Ngày Pháp luật được tổ chức trong tuần lễ từ ngày 4 - 10/11/2013, trong đó tổ chức cao điểm vào ngày 9/11/2013. Dự kiến vào sáng 9/11, Thủ tướng Chính phủ sẽ tới dự và công bố Ngày Pháp luật tại buổi lễ công bố được truyền hình trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Quốc hội thảo luận về phòng chống tham nhũng năm 2013. Bài báo phản ánh: Ngày 29/10, trong ngày làm việc thứ 7, kỳ họp thứ 6, Quốc hội nghe Tờ trình về dự án Luật Công chứng (sửa đổi) và thảo luận về công tác phòng chống tham nhũng năm 2013.
Trong chương trình làm việc buổi sáng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật Công chứng (sửa đổi).
Luật Công chứng đã được Quốc hội khoá XI thông qua nhằm thể chế hoá Nghị quyết 4-NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, nhằm phát triển đội ngũ công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, qua 6 năm triển khai, Luật Công chứng đã bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, hơn nữa để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng Việt Nam gia nhập Liên minh Công chứng quốc tế, thì việc ban hành Luật Công chứng (sửa đổi) là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Cũng trong buổi sáng, Chủ nhiệm Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Buổi chiều, Quốc hội thảo luận ở tổ về công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; về công tác của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao; về công tác thi hành án.
Các đại biểu Quốc hội cũng thảo luận về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2013.
2. Báo Tiền phong Online có bài Việt Nam xếp nhóm cuối bảng về môi trường kinh doanh. Bài báo phản ánh: Việt Nam vẫn dậm chân ở nhóm những nước cuối cùng nằm trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh, là thông tin được Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) công bố, ngày 29/10.
Báo cáo thường niên về môi trường kinh doanh của Việt Nam và thế giới 2014 cho thấy, nhiều nước Đông Nam Á có những bước tiến xa trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Việt Nam dù có nhiều nỗ lực cải thiện, nhưng vẫn ở xếp thứ 99 về môi trường kinh doanh (bằng năm 2012), thấp hơn một bậc so với hồi 2011.
Trong 10 tiêu chí đánh giá, có tới 7 chỉ tiêu Việt Nam bị rớt điểm so với năm ngoái; 2 chỉ tiêu tăng là bảo vệ nhà đầu tư và thương mại quốc tế. Riêng lĩnh vực nộp thuế, Việt Nam bị tụt 11 bậc, từ xếp hạng 138 trên tổng số 183 quốc gia trong bảng xếp hạng xuống vị trí 149. Những tiêu chí tối quan trọng với doanh nghiệp như: Tiếp cận điện năng, xử lý doanh nghiệp phá sản là điểm yếu cố hữu tiếp tục được chỉ ra trong báo cáo năm nay. Việt Nam vẫn lần lượt ở các vị trí 156 và vị trí 149.
Riêng lĩnh vực bảo vệ nhà đầu tư của Việt Nam bị xếp hạng thấp nhất trong 10 lĩnh vực khi đứng thứ 157 trong số 189 nước. Ngay lĩnh vực thuế, doanh nghiệp cũng mất tới tổng cộng 872 giờ đồng hồ trong năm để đi đóng thuế, gấp 10 lần so với Singapore. Việc thành lập doanh nghiệp dù đã được giảm xuống còn 10 thủ tục, nhưng vẫn cần tới 34 ngày để hoàn tất mọi thủ tục liên quan.
TS Trần Đình Thiên cho rằng, chừng nào những thủ tục “hành hạ” doanh nghiệp vẫn còn tồn tại, Việt Nam chưa thể cải thiện được môi trường kinh doanh, trong khi đây là việc không khó. Việc doanh nghiệp phải mất trung bình tới 115 ngày để kết nối điện cho sản xuất và mỗi gia đình mất tới 17% thu nhập bình quân để tiêu dùng cho điện, cũng là điều đáng suy ngẫm với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
Việt Nam đã có những cải cách quan trọng trong 9 năm qua để cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng vẫn cần làm nhiều hơn nữa để duy trì năng lực cạnh tranh. “Đặc biệt là cần áp dụng những thông lệ quốc tế tốt nhất trong các quy định về hoạt động của doanh nghiệp”, bà Wendy Werner-Giám đốc Chương trình Tư vấn Môi trường Đầu tư khu vực Đông Á - Thái Bình Dương của IFC nhận định.
3. Trang Thiennhien.net có bài Chính sách đất đai và những bất cập cần sửa đổi. Bài báo phản ánh: Trừ bất cập về việc không cho người dân khiếu nại lên Trung ương đã được Luật Tố tụng hành chính giải quyết, các bất cập khác hiện đang chờ đợi Hiến pháp sửa đổi và Luật Đất đai sửa đổi. Điểm cần lưu ý là việc sửa đổi Luật cần theo hướng minh bạch, công khai, đồng thời chú trọng tới vai trò của người dân và sự đồng thuận giữa chính quyền với người dân trong lĩnh vực đất đai.
Trong Luật Đất đai, vai trò của người dân cần được xác định cụ thể trong quá trình hình thành các quyết định của Nhà nước về đất đai như quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; về cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; về công nhận quyền sử dụng đất khi cấp giấy chứng nhận lần đầu… Vai trò của người dân cần cho cả quá trình quản lý như tham gia vào giám sát việc thực thi pháp luật; vào giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo; vào giám sát việc sử dụng đất.
Sự tham gia của người dân không nên hiểu là sự tham gia cá thể từng người mà cần hiểu về sức mạnh cộng đồng với ý kiến đa số. Tất nhiên, thực tế cho thấy cũng có những trường hợp người này hay người kia lợi dụng, muốn nhiều hơn cho mình, nhưng ý kiến của đa số trong cộng đồng khi đủ thông tin luôn đạt được sự công bằng, khách quan và trong sáng.
Về quyền giám sát của công dân, Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi cũng đã có quy định về nguyên tắc người dân được trực tiếp hoặc thông qua tổ chức đại diện cho mình thực hiện quyền giám sát trong lĩnh vực đất đai. Như vậy chắc chưa đủ vì người dân cần một cơ chế để thực hiện được quyền giám sát của mình.
Giải pháp về thiết lập cơ chế để người dân thực hiện quyền giám sát rất dễ dàng. Chỉ cần Luật Đất đai quy định rằng các cơ quan quản lý đất đai phải thiết lập “đường dây nóng” theo nhiều kênh chuyển tải thông tin để có thể tiếp nhận ý kiến giám sát của người dân; chỉ rõ tên người có trách nhiệm tiếp nhận và chuyển tới nơi xử lý; công khai ý kiến giám sát của dân, quá trình xử lý và kết quả xử lý trên công thông tin điện tử thuộc hệ thống Chính phủ điện tử…
Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn mới thành lập đã tổ chức đường dây nóng như vậy. Khi kiểm tra về quy hoạch treo, dự án treo, chỉ trong một tuần đã nhận được khoảng 3.000 ý kiến phát hiện về tình trạng đất đai bị “treo” ở hầu hết các địa phương. Đi kiểm tra thực tế đều đúng. Có thể nói, cơ chế giám sát thông qua sự tham gia của người dân là một vũ khí rất mạnh để phòng, chống tham nhũng. Vấn đề còn lại là người quản lý có muốn sử dụng hay không?
Về sử dụng đất, cơ chế đất sử dụng chung làng xã là đặc điểm khác biệt của vấn đề đất đai trong lịch sử nước ta. Cộng đồng làng xã tồn tại và vượt quan khó khăn cũng vì mối liên kết thông qua đất đai làng xã. Đất làng xã cũng là một cơ chế rất thuận lợi để giải quyết tình trạng nông dân không có đất.
Từ một góc nhìn khác về hình thức hợp tác xã nông nghiệp, trong lịch sử, hợp tác xã bậc cao đã bị thất bại và Nhà nước đã giao đất cho hộ gia đình. Từ đó, mọi người gần như thiếu thiện cảm với thuật ngữ “hợp tác xã nông nghiệp”, mặc dù Nhà nước vẫn có đường lối phát triển mô hình hợp tác xã. Cần nhận thức rõ là sự thất bại trước đây của mô hình hợp tác xã là do mô hình bậc cao mang tính duy ý chí, không phù hợp với trình độ quản lý nên gây ra tiêu cực. Sức mạnh của mô hình hợp tác xã là rất lớn nếu đó là tự nguyện của nông dân, hợp tác xã phải làm được những điều mà cá thể không làm được để mang lại lợi ích bình đẳng cho từng cá thể.
Chuyện rất đáng kể hiện nay là các nông, lâm trường quốc doanh (nay là các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp của Nhà nước) đang chiếm giữ một diện tích đất lên tới 2,5 triệu ha trong khi nhiều nông dân, nhất là các dân tộc thiểu số đang thiếu đất sản xuất trầm trọng. Chuyện cải tổ hay tái cấu trúc hay đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh đã được đặt ra từ năm 2003 ở cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước, nhưng đến nay vẫn chưa có chuyển động gì đáng kể ngoài việc đổi tên nông, lâm trường thành doanh nghiệp và chuyển đất rừng phòng hộ về các Ban quản lý. Việc không giải quyết quyết liệt bức xúc đất đai này là nguyên nhân chính dẫn đến những tranh chấp phổ biến giữa nông, lâm trường và cộng đồng dân cư ở các địa phương. Do đó, cần cải tổ triệt để các nông, lâm trường quốc doanh để mở ra cơ hội tạo nguồn đất đai cho nông dân không có đất.
Công khai minh bạch thông tin trong quy định của pháp luật hiện hành mới chỉ tập trung vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cấp giấy chứng nhận lần đầu; trình tự, thủ tục hành chính về đất đai; và phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Quy định như vậy chưa hẳn đã đủ nhưng những điều đã quy định thì cũng đủ mức chi tiết.
Điều cần nói hơn là việc thực hiện công khai minh bạch ở các địa phương rất yếu kém. Theo khảo sát năm 2010 của Ngân hàng Thế giới tại 24 huyện và 117 xã thì quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mới được công khai ở 10/24 huyện và 60/117 xã; công khai thông tin về thủ tục cấp giấy chứng nhận được thực hiện ở 93/117 xã; danh sách người được cấp giấy chứng nhận ở 35/117 xã; và phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở 24/117 xã. Như vậy, pháp luật đã có quy định cụ thể nhưng đia phương không thực hiện là khá phổ biến.
Công khai minh bạch thông tin trong quản lý đất đai là một công cụ quan trọng nhất để người dân đủ điều kiện tham gia vào quản lý đất đai, tức là đủ điều kiện để phòng ngừa tham nhũng trong lĩnh vực đất đai. Điều cần hướng tới là Luật Đất đai sửa đổi phải bổ sung các quy định về công khai minh bạch thông tin, trong đó cần tính tới ba việc cơ bản nhất: (i) cần công khai minh bạch không chỉ thủ tục hành chính mà còn cả quá trình thực hiện thủ tục hành chính; (ii) cần công khai minh bạch về dự án đầu tư cần lấy đất và năng lực của chủ đầu tư dự án; (iii) cần công khai minh bạch dữ liệu của hệ thống thông tin đất đai, trừ đất sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng.
Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi có nhiều quy định về công khai, minh bạch thông tin đất đai nhưng cũng chỉ dừng ở mức nguyên tắc và có vế chặn hậu là “theo quy định của pháp luật”. Về bản chất, thông tin đất đai không thuộc phạm vi bảo mật của Nhà nước, trừ việc sử dụng đất vào mục đích an ninh, quốc phòng. Vậy không có lý do gì để thuyết minh về sự không công khai thông tin đất đai. Tất cả các nước được coi là sạch tham nhũng trên thế giới gồm Canada, bốn nước Bắc Âu, Singapore, Australia và New Zealand đều đã thực hiện minh bạch hoàn toàn thông tin đất đai, ai cũng có quyền xem nhưng lấy về sử dụng thì phải trả phí.
Một trong những điều còn thảo luận hiện nay là công khai thông tin sử dụng đất liệu có vi phạm quyền bí mật về tài sản của công dân. Đây là câu chuyện lớn mà quyết định thuộc Quốc hội. Bảo đảm bí mật về quyền sử dụng đất sẽ gây khó khăn trong phòng, chống tham nhũng và không phù hợp với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Nghị Định số78/2013/NĐ-CP về hướng dẫn minh bạch tài sản, thu nhập trong thực hiện Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012 mới chỉ quy định cán bộ quản lý phải minh bạch tài sản, thu nhập trước những người thuộc quyền quản lý trực tiếp. Chúng ta đang cần những bước đột phá quyết liệt hơn trong công khai minh bạch tài sản là quyền sử dụng đất để thu hút lòng tin của nhân dân.
Pháp luật đất đai hiện nay còn quá nhiều bức xúc, nguy cơ tham nhũng lớn và khiếu kiện nhiều. Định giá đất chưa mạch lạc, Nhà nước thu hồi còn nhiều, bồi thường chưa thỏa đáng và những bất cập khác nữa đang xảy ra cũng chỉ vì chưa đặt người dân vào trung tâm để giải quyết các mối quan hệ liên quan tới đất đai. Đất đai là tặng phẩm của tự nhiên cho tất cả mọi người nên người dân có quyền đối với đất đai, quyền tham gia quyết định, quyền tham gia quản lý, quyền sử dụng và quyền giám sát về đất đai. Khi người dân được thực hiện đủ các quyền này thì đương nhiên đồng thuận xã hội sẽ được xác lập. Đó cũng chính là nền tảng của bền vững xã hội trong quá trình phát triển.
4. Báo Tiền phong Online có bài Chưa có doanh nghiệp nào được vay gói 30.000 tỷ đồng. Bài báo phản ánh: Ngày 29/10, làm việc với Ban chỉ đạo trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TPHCM Trần Đình Cường cho biết đến nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào được vay tiền từ gói tín dụng 30.000 tỷ đồng.
Hiện nay mới chỉ có 179 cá nhân làm thủ tục xin vay với tổng số tiền trên 100 tỷ đồng, trong đó hơn 30 tỷ đồng đã giải ngân.
Giám đốc Sở Xây dựng TPHCM Trần Trọng Tuấn cho biết đã nhận được nhiều hồ sơ xin chuyển đổi từ dự án nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội nhưng sau khi xem xét, đến nay UBND TPHCM mới chấp thuận 3 dự án (hơn 6.000 căn hộ) được phép chuyển đổi. Các dự án không được chấp thuận bởi hầu hết các chủ đầu tư xin chia tách căn hộ lớn thành nhiều căn hộ nhỏ nên không đảm bảo điều kiện hạ tầng kỹ thuật, làm gia tăng dân số...