I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
Báo Người đưa tin có bài 'Cò' ngang nhiên 'oanh tạc' trụ sở công chứng. Bài báo phản ánh: Có mặt tại phòng công chứng số 7, thành phố Hà Nội (địa chỉ tại Văn Phú, Phú La, quận Hà Đông, HN) chúng tôi không khỏi choáng bởi cách tiếp cận và quảng bá mối quen biết của một số đối tượng "cò" nơi đây. Mặc dù thời điểm này, khách hàng đến công chứng không còn đông và phải xếp hàng chờ đợi dài dằng dặc như trước, nhưng không phải vì thế mà độ nóng của "cò" và vụ việc giảm theo. Theo giới thiệu của một “cò” tên T., mọi giao dịch như mua bán, thế chấp, uỷ quyền, tặng cho, phân chia di sản, di chúc, văn bản cam kết... về tài sản đều có thể làm trong khoảng thời gian từ 2 - 3 tiếng đồng hồ. Mọi thông tin liên quan, chỉ cần phía khách hàng cung cấp trước để "cò" nhờ mối quen biết là người nhà, bạn bè thân thiết xử lý trước, xong đâu đấy sẽ điện thoại cho khách đến ký tá, trả tiền phí theo quy định là kết thúc mọi giao dịch. "Cò" H. buông câu chắc nịch, xong việc, khách thấy độ nhiệt tình giải quyết công việc ra sao sẽ bồi dưỡng từ vài ba trăm ngàn đồng đến vài triệu đồng tính theo mỗi đầu vụ việc?
Không riêng gì cò công chứng hoạt động xung quanh trụ sở phòng công chứng số 7 mà ngay tại phòng công chứng số 4, ở tòa nhà N4D, đường Lê Văn Lương, quận Thanh Xuân, Hà Nội, "cò" cũng ngang nhiên hoạt động, chèo kéo khách hàng.
Vừa có mặt tại khu vực này, chúng tôi đã "được" 3 - 4 thanh niên vây xung quanh "chăm sóc chu đáo” mời chào làm dịch vụ theo kiểu "nhanh - rẻ - chất lượng". Lấy lý do muốn làm thủ tục công chứng mua bán nhà đất, chúng tôi được một người tên H. cho biết: Do mấy hôm vừa rồi người dân nghỉ lễ dài ngày nên sau kì nghỉ họ đến phòng công chứng làm các thủ tục liên quan đông hơn trước. Nếu em vào đó lấy số, đợi xếp hàng đến lượt, thì còn lâu. Đó còn chưa kể tới hàng loạt giấy tờ, thủ tục khác nếu người không chuyên sẽ không nhớ và làm cho chuẩn chỉ được. Để tiết kiệm thời gian, công sức tốt nhất chịu khó bỏ ra ít chi phí để bọn này (tức "cò" - PV) làm cho nhanh.
Theo tìm hiểu của PV báo điện tử Người Đưa Tin, không chỉ một hai phòng công chứng trên mà đa phần các phòng công chứng khác trên địa bàn thành phố Hà Nội đều tồn tại tình trạng "cò" công chứng "lộng hành". Nếu như trước kia, mỗi phòng công chứng tiếp nhận đông đảo người dân đến làm các thủ tục chứng thực giấy tờ cá nhân cùng với hàng loạt các hợp đồng mua bán, giao dịch khác thì những đối tượng này còn ngang nhiên đi lại ở trụ sở phòng công chứng để chen ngang hồ sơ, giấy tờ ngay trên những người dân đã xếp hàng trước đó hàng giờ (tất nhiên có sự ưu ái của nhân viên phòng công chứng - PV).
Bây giờ, người có nhu cầu công chứng ít hơn thì những đối tượng "cò" thường chèo kéo khách ngay ngoài trụ sở, sau đó lại dẫn khách vào các quán nước vỉa hè hoặc các quán cà phê để thỏa thuận, mặc cả giá theo yêu cầu. Sau khi thỏa thuận xong, "cò" công chứng sẽ cầm giấy tờ của khách rồi gặp công chứng viên tiến hành thực hiện giao dịch mà "cò" công chứng và khách hàng đã thỏa thuận trước đó. Mặt khác, qua tìm hiểu của chúng tôi thì, hiện tại một số phòng công chứng rất ít lượng khách đến làm thủ tục nhưng do các cơ chế, chính sách không rõ ràng khiến rất nhiều người dân phải rất vất vả trong việc đi lại, hoàn thiện hồ sơ mới hoàn thành công việc theo ý muốn.
II- CÁC THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Tiền phong Online có bài Sẽ lập tòa án hiến pháp? Bài báo đưa tin: Mô hình nào cho một thiết chế trông coi một cách có hiệu quả sự tuân thủ hiến pháp trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, tránh sự lạm quyền của các nhánh quyền lực này? Đó là nội dung được nhiều đại biểu tập trung thảo luận tại Hội thảo “Cơ chế bảo hiến - Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam, được tổ chức ngày 6/5, tại Hà Nội.
Theo PGS.TS Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, vi phạm hiến pháp thường diễn ra chủ yếu ở hai dạng: Văn bản pháp luật trái với hiến pháp; các hành vi của công chức, công dân trái với hiến pháp... Trải qua các bản hiến pháp (từ 1946 đến nay), chúng ta vẫn chưa thành lập một cơ quan chuyên trách về bảo vệ hiến pháp, vẫn áp dụng cơ chế bảo hiến trên cơ sở các hoạt động giám sát, kiểm tra, tự kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể, Quốc hội (QH) kiểm soát hoạt động của Chính phủ, Chính phủ kiểm soát hoạt động của chính quyền địa phương; QH, Ủy ban Thường vụ QH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của QH thực hiện các hoạt động giám sát...
PGS.TS Lê Minh Thông cho rằng, việc kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước đang thiếu một cơ chế rõ ràng và hiệu quả, không khắc phục được các nguy cơ vi phạm quy định hiến pháp. Việc loại bỏ thẩm quyền của hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương cũng đang tạo ra một khoảng trống trong việc kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật do các cơ quan này ban hành. Hiện chức năng kiểm tra văn bản pháp quy được giao cho Bộ Tư pháp, nhưng thực hiện vẫn chưa hiệu quả.
PGS.TS Vũ Thư (Viện Nhà nước và Pháp luật) cho rằng, trong cơ chế quyền lực nhà nước, quyền hành pháp luôn thể hiện là khâu, hoạt động quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình tác động của pháp luật vào đời sống xã hội. Bởi vậy, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật nói chung của hoạt động hành pháp luôn chiếm vị trí tâm điểm trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. “Trong thực tế thực thi quyền hành pháp, có một sự thực là quyền lực hành pháp luôn có xu hướng lạm quyền, xâm lấn quyền lập pháp”, ông Thư nói.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định mô hình Hội đồng Hiến pháp với tính chất và vai trò của một cơ quan hiến định độc lập. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, quy định về cơ quan này cũng chỉ dừng lại ở dạng tổng quát và trong phạm vi một điều của hiến pháp. Nhiều vấn đề liên quan thiết chế hiến định này vẫn còn bỏ ngỏ.
“Thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp là rất hạn chế. Nó không tương xứng với đòi hỏi, đặc trưng của nhà nước pháp quyền cũng như đặc trưng chung của thiết chế bảo hiến các nước. Mô hình bảo hiến như vậy chưa thoả mãn được mong đợi của xã hội. Hội đồng không phải là cơ quan tài phán và không góp phần giải quyết vấn đề phổ biến, bức xúc và là trọng tâm hoạt động của mọi thiết chế bảo hiến là bảo vệ quyền cơ bản của công dân”, PGS.TS. Vũ Thư nhận xét.
“Điều cần bàn hiện nay là mô hình nào hay phương án nào sẽ phù hợp cho chúng ta? Nói đúng hơn, mô hình nào hay phương án nào cho một thiết chế trông coi một cách có hiệu quả sự tuân thủ hiến pháp trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp?”, GS.TSKH. Đào Trí Úc (Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu vấn đề. GS. Úc cho rằng, để trả lời được câu hỏi trên thì phải trả lời được câu hỏi: Mục đích nào của việc giám sát tính hợp hiến? Sự kiểm tra tính hợp hiến sẽ tác động đến lĩnh vực hoạt động nào của quyền lực nhà nước là chủ yếu? Hiệu lực của sự kiểm tra sẽ đến đâu và mang lại kết quả cho hoạt động của nhà nước và sự mong đợi của nhân dân?
Góp ý về cơ chế phán quyết những vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, GS.TS. Thái Vĩnh Thắng (Đại học Luật Hà Nội) nêu ra 4 mô hình: Toà án Tư pháp, Toà án hiến pháp; Hội đồng hiến pháp, hoặc như Quốc hội hiện nay. GS. Thắng phân tích những thuận lợi, khó khăn của từng mô hình.
“Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhận thấy mô hình Toà án Hiến pháp là phù hợp hơn cả. Điều kiện cần thiết để Toà án Hiến pháp hoạt động có hiệu quả là nó phải được hoàn toàn độc lập với các thiết chế khác. Nó phải là cơ quan được Hiến pháp xác lập và trao cho thẩm quyền phán xét các luật và hành vi vi hiến”, GS. Thắng đề xuất.
2. Báo điện tử Dân trí có bài Một ý tưởng "dấy lên sự lo ngại trong dân"! Bài báo phản ánh: Những ngày qua, làng báo có 2 “sự kiện chấn động”. Thứ nhất, Chính phủ ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí do Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân ký.
Thứ hai là việc Bộ Công an cho biết sẽ tham mưu, đề xuất Chính phủ báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi Điều 7 Luật Báo chí theo hướng “chánh án Tòa án nhân dân, viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp có quyền yêu cầu cơ quan báo chí cung cấp nguồn tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng”.
Việc ban hành Quy chế quy định về chế độ phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nhận được sự đồng tình của dư luận. Quy chế không chỉ thể hiện tính công khai mà còn khẳng định thông tin cho báo chí là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với người dân.
Thế nhưng vấn đề thứ hai thì ngược lại, ngay lập tức nó vấp phải sự không đồng tình của báo giới, đại biểu Quốc hội, luật sư và dư luận.
Đã có rất nhiều ý kiến gửi về các tòa soạn báo xung quanh vấn đề này.
Trên báo Dân trí, ông Hà Minh Huệ - Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam cho biết năm 2012, khi dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi) đã đưa ra quy định tương tự. Song “lập tức gặp phải những ý kiến không đồng tình vì không phù hợp với điều 7 Luật Báo chí. Cơ quan thẩm tra dự án luật này là Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khi đó cũng không đồng tình và đề nghị xử lý vấn đề nhằm tránh mâu thuẫn với Luật Báo chí”, ông Huệ nói.
Trên báo Tuổi trẻ, Nhà báo Mai Thúc Long, nguyên Phó TGĐ Đài tiếng nói Việt Nam khẳng định: “Nếu yêu cầu tiết lộ nguồn tin cho các cơ quan nhà nước như đề xuất của Bộ Công an thì sẽ dấy lên sự lo ngại trong dân. Họ sẽ không dám cung cấp thông tin cho báo chí nữa. Điều này làm hạn chế không nhỏ đến kết quả tác nghiệp của báo chí trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực”.
Trả lời báo chí, Nhà báo Phan Lợi, Phó Thư ký tòa soạn báo Pháp luật TP HCM đặt vấn đề về con số khổng lồ các “thủ trưởng cơ quan điều tra” bởi Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQ CSĐT) của Bộ (gồm nhiều Cục); CQ CSĐT cấp sở (gồm có nhiều Phòng) và CQ CSĐT cấp huyện (gồm nhiều Đội) … “Như vậy, nhà báo và cơ quan báo chí sẽ phải phục vụ nhiều loại đối tượng hơn rất nhiều so với hai đối tượng (viện trưởng VKS và chánh án tòa cấp tỉnh) như quy định tại điều 7 Luật Báo chí hiện hành” – Nhà báo Phan Lợi nói.
Trên nhiều cơ quan thông tin đại chúng, các đại biểu Quốc hội và giới luật sư cũng bày tỏ sự bất đồng.
Đại biểu Quốc hội khóa XII Lê Văn Cuông còn đề xuất cần phải sửa Luật Báo chí để “mở rộng vai trò, quyền lực, phạm vi hoạt động cho báo chí vì báo chí là lực lượng tham gia vào công tác phòng chống tham nhũng rất hiệu quả”.
Về phía luật sư, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, nguyên quyền Trưởng ban Nội chính TW Đảng, ông Phạm Quốc Anh nói thẳng: “Nếu quy định như Bộ Công an đề xuất thì không ai cung cấp thông tin cho báo chí nữa”.
LS Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TPHCM, cho rằng điều 7 Luật Báo chí hiện hành phù hợp với nhiều thông lệ, quy định quốc tế. “Thẩm quyền của CQĐT đã quy định rất rõ trong Pháp lệnh về điều tra và Bộ Luật Tố tụng Hình sự, không thể điều chỉnh cả trong Luật Báo chí được” – Ông Hậu nói.
Theo LS Trần Đình Triển, không thể làm ngược lại Luật tố cáo bởi tại khoản 2 điều 9 quy định: “Người tố cáo được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình…”.
Từ các ý kiến trên, có thể nhận thấy về khía cạnh truyền thông, đề xuất của Bộ Công an sẽ triệt tiêu nguồn thông tin, đặc biệt là với những vụ tham nhũng, các nhà báo sẽ không có được nguồn thông tin từ nhân dân. Về khía cạnh pháp lý, đề xuất trên sẽ tạo nên sự chồng chéo giữa Luật tố cáo, Pháp lệnh về điều tra và Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Về đạo lý, theo PCT Hội Nhà báo VN Hà Minh Huệ là trái với điều 6 - quy định về đạo đức nghề nghiệp người làm báo, bởi: “Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin” là đạo đức của người làm báo. Điều này càng không hợp với truyền thống đạo lý của người Việt.
Ở một góc nhìn khác, có thể khẳng định báo chí là một trong những nguồn thông tin vô cùng quan trọng trong công cuộc chống tham nhũng đồng thời cũng là trợ thủ đắc lực của Quốc hội. Không ít những thông tin quan trọng đến được với Quốc hội và đại biểu Quốc hội nhờ kênh báo chí. Vì vậy, trong mặt trận an ninh xã hội và đặc biệt là công cuộc chống tham nhũng hiện nay, đáng lý lực lượng công an nên coi báo chí là người bạn đồng hành thì ngược lại, đề xuất trên coi báo chí như “cấp dưới” mà cơ quan công an là…“thủ trưởng”! Đề xuất này còn dễ dẫn đến sự “hiểu nhầm” là hạn chế người dân tố cáo tham nhũng, tiêu cực.
Cần khẳng định lại rằng Báo chí Cách mạng Việt Nam là diễn đàn của nhân dân. Do đó, mọi qui định hạn chế hoạt động của báo chí đồng nghĩa với việc hạn chế quyền lực của nhân dân, một quyền lực tối cao đã được ghi trong Hiến pháp. Có lẽ, cách hành xử tốt nhất là Bộ Công an nên rút lại ý tưởng đề xuất này như đã từng rút đề xuất quy định xóa tên trong hộ khẩu cách đây không lâu.
3. Báo điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có bài Doanh nghiệp TP.HCM ‘kêu cứu’ lên Quốc hội. Bài báo phản ánh: Sáng nay (7/5), các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn TP.HCM đã có buổi làm việc với Đoàn đại biểu Quốc hội của TP nhằm tổng hợp những ý kiến của DN để phản ánh trên diễn đàn Quốc hội vào Kỳ họp sắp tới.
Ông Phạm Ngọc Hưng, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM cho rằng, DN chết đi đã đành, nhưng hiện nhiều DN đang yếu đi. “Đây là mối lo. Nhiều cổ đông của nhiều DN đã không được chia cổ tức trong mấy kỳ đại hội cổ đông rồi”. Theo ông Hưng, nguyên nhân là do hàng tồn kho, sức mua giảm đột biến. Ông Hưng kiến nghị, Nhà nước và DN cùng giải quyết hàng tồn chứ mình DN không thể tự giải quyết được.
Về vấn đề tín dụng, vay vốn ngân hàng, các DN cho biết, nhiều năm nay DN rất khó vay hoặc vay với lãi suất khá cao. Tuy nhiên, không ít DN có đủ điều kiện vay (còn tài sản thế chấp) vẫn không dám vay. Lý do là hàng hóa tiêu thụ chậm, có vốn cũng không thể đầu tư, đầu tư là lỗ.
Ông Việt Anh, đại diện Hiệp hội Cao su – Nhựa TP.HCM cho rằng, DN không dám vay vốn vì năm 2013 chưa thấy có dấu hiệu tích cực gì, nhất là đối với DN vừa và nhỏ. Ông Việt Anh cho biết thêm, ngoài lãi suất VND, hiện các nhà xuất khẩu nhựa còn phải chịu mức lãi suất USD khá cao (6 – 7%). Theo ông, lãi suất USD 5% là phù hợp trong tình hình hiện nay.
Cùng kêu cứu về lãi suất, ông Trương Phú Cường, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng & Vật liệu xây dựng cho biết, các DN khỏe mạnh trong ngành xây dựng và vật liệu xây dựng đang vay với mức lãi suất 11%. Theo ông Cường, mức lãi suất này là rất cao, nếu xuống 10% vẫn cao, khoảng 8 – 9% mới phù hợp. Chính vì vậy, ông Cường kiến nghị Chính phủ phải có gói hỗ trợ lãi suất cho DN từ 4 – 5%.
Ông Đặng Quốc Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM cho biết, các DN rất muốn đầu tư thay đổi công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng với lãi suất hiện nay thì DN không tài nào làm được điều này.
Thống kê cho thấy, trong quý I, số DN chết đi và số DN thành lập mới trên địa bàn TP.HCM là bằng nhau.
Theo ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, không thể đánh đồng DN chết và DN mới khai sinh, bởi DN mới thành lập phải hàng chục năm sau mới ổn định.
Theo ông Minh, hiện nay nhiều chủ trương, chính sách của các Bộ ngành còn nặng tính chống chế hơn là tính xây dựng. Nhiều chính sách không ổn định, bất cập nhưng chậm sửa đổi (nhất là cách tính giá đất, thuế đất) gây bất lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn. Thực tế, thời gian qua, có những chính sách (tỷ giá USD, cách tính thuế, biểu thuế đất…) thay đổi đột ngột đã khiến nhiều DN từ làm ăn có lãi chuyển sang thua lỗ.
“Chính sách chắp vá, gấp khúc có thể làm đứt mạch máu DN, mà đã đứt mạch máu rồi thì làm sao vô nước biển”, ông Minh ví von.
Trong khi đó, các chính sách vĩ mô lại thiếu hỗ trợ tích cực cho DN. Cụ thể, thuế suất của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn cao. Theo nghiên cứu, mức huy động ngân sách (thuế) của nước ta lên đến 27% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ từ 17 – 18% GDP. Lãi suất ngân hàng ở Việt Nam so với các nước trong khu vực thuộc hàng cao nhất, chưa kể nhiều yếu tố “không tên” khác làm tăng chi phí, giảm tính cạnh tranh của DN.
Từ những nguyên nhân đó, theo Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, hai nguy cơ lớn có thể xảy ra, đó là: niềm tin vào sự phục hồi của nền kinh tế suy giảm, thể hiện ở việc nhà đầu tư không đưa vốn, người tiêu dùng không sẵn sàng chi tiêu nên tổng cầu và tổng cung trong năm 2013 khó cải thiện.
Nguy cơ thứ hai là khả năng nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát. “Xu hướng lạm phát trong những tháng còn lại của năm 2013 được khẳng định trong mô hình tự hồi quy cho thấy, sức mua đang có xu hướng giảm sút nghiêm trọng bất chấp cung tiền tăng và lãi suất có xu hướng giảm”, ông Huỳnh Văn Minh cảnh báo.
Theo các chuyên gia, nợ xấu là một trong những lực cản lớn khiến cho chính sách tiền tệ truyền thống (bơm tiền qua hệ thống ngân hàng) trở nên kém hiệu quả. Do đó, việc xử lý nợ xấu là vấn đề hết sức cấp bách. Đây chính là điều kiện để khơi thông các dòng tín dụng, để DN và người dân sẵn sàng được vay.