I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thi hành án sai, bồi thường gần 2,6 tỉ đồng. Bài báo đưa tin: Ngày 6-5, TAND tỉnh Đồng Nai tuyên y án sơ thẩm, buộc Chi cục Thi hành án (THA) dân sự huyện Trảng Bom (Đồng Nai) phải bồi thường cho ông Vũ Đức Liêm gần 2,6 tỉ đồng vì đã có sai sót trong quá trình kê biên, bán đấu giá tài sản của gia đình ông này.
Theo hồ sơ, năm 1996, nguyên Đội trưởng Đội THA dân sự huyện Thống Nhất (nay là Chi cục THA dân sự huyện Trảng Bom) Đỗ Ngọc Chất đã ra 10 quyết định buộc vợ ông Liêm phải thi hành án, trả nợ 309 triệu đồng và hơn 66 lượng vàng. Khi tổ chức bán đấu giá nhà, đất của vợ chồng ông Liêm để đảm bảo THA, ông Chất và chấp hành viên Phùng Thế San không đề cập gì đến quyền lợi của ông Liêm trong khối tài sản chung này. Bức xúc, ông Liêm và người con gái đầu (lúc đó đang là sinh viên) phản ứng việc cưỡng chế thì bị bắt, bị phạt tù về tội chống người thi hành công vụ.
Quá trình sau đó, ông Liêm liên tục khiếu nại đòi quyền lợi chính đáng của mình bởi khối tài sản này là của chung vợ chồng, THA kê biên toàn bộ để thi hành bản án của vợ ông là sai nhưng không được đáp ứng. Không còn cách nào khác, ông Liêm khởi kiện ra tòa, đòi bồi thường những thiệt hại mà gia đình ông đã phải gánh chịu là hơn 4 tỉ đồng.
Ngày 23-7-2012, TAND huyện Trảng Bom xử sơ thẩm, tuyên buộc Chi cục THA phải bồi thường cho ông Liêm một nửa giá trị nhà, đất của vợ chồng ông, tương đương gần 2,3 tỉ đồng và một số khoản khác gần 200 triệu đồng.
Tại phiên xử phúc thẩm hôm qua (6-5), đại diện cơ quan THA cho rằng cơ quan THA sai nhưng mức độ phải xem xét lại. Đơn cử việc giải quyết vụ việc quá lâu không phải lỗi của THA mà do những quy định của Nhà nước nên không chấp nhận bồi thường 180 triệu đồng ông Liêm bỏ ra thuê nhà…
TAND tỉnh Đồng Nai nhận định năm 2003, cơ quan THA tỉnh và huyện Trảng Bom thừa nhận: Việc bán đấu giá lần hai không tổ chức định giá lại mà lấy giá lần một để tổ chức bán đấu giá tài sản là không đúng. Khi kê biên và bán đấu giá, đội THA không hướng dẫn đương sự khởi kiện ra tòa phân chia tài sản chung mà mãi đến ngày 21-5-1996 và ngày 1-7-1996 mới hướng dẫn là quá chậm. Khi bán đấu giá tài sản, đội không trả lại giá trị 1/2 tài sản cho ông Liêm mà lấy chia cho những người được THA là sai sót.
Từ đó, tòa buộc Chi cục THA dân sự huyện Trảng Bom phải bồi thường cho ông Liêm 1/2 giá trị tài sản là hơn 2,3 tỉ đồng. Ngoài ra, cơ quan THA cũng phải bồi thường cho ông Liêm hơn 200 triệu đồng tiền mất thu nhập, tiền thuê nhà…
2. Báo VnExpress có bài Cục trưởng thi hành án bán tài sản sai nguyên tắc. Bài báo đưa tin: Chiều 6/5, sau 3 ngày xét xử vụ án "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ", đại diện Viện KSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề nghị phạt Trần Văn Mười (nguyên Cục trưởng Cục thi hành án dân sự tỉnh) từ 1 năm đến 1 năm 2 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; nguyên Cục phó Lê Minh Huy Hoàng và chấp hành viên Hoàng Anh Linh bị đề nghị 11-12 tháng tù.
Theo cáo trạng, năm 1999, TAND Tối cao tại TP HCM xét xử ông Trịnh Vĩnh Bình (Việt kiều Hà Lan) và những người liên quan vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai. Bản án phúc thẩm kiến nghị UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xem xét xử lý theo thẩm quyền đối với 2 nhà xưởng rộng 40.000 m2 cùng 9 ngôi nhà và đất do ông Bình "mua bán trái phép trên địa bàn tỉnh".
Tài sản này sau đó được Phòng Thi hành án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Cục thi hành án) kê biên. Lúc này, Hoàng và Linh phát hiện tại kho trên đường Võ Thị Sáu có 12 ôtô không thuộc phần tài sản được tuyên trong bản án. Thay vì xác minh rõ nguồn gốc và chủ sở hữu, Hoàng và Linh lại kê biên luôn cả lô xe này. Sau đó, Mười chỉ đạo Linh bán 12 ôtô không thông qua Trung tâm bán đấu giá tài sản tỉnh, gây thiệt hại cho ông Bình hàng trăm triệu đồng.
Tháng 7/2000, Hoàng ký quyết định cưỡng chế thi hành án, kê biên căn nhà 86 m2 trên diện tích đất hơn 2.000 m2 ở đường Trần Phú (phường 5, TP Vũng Tàu). Còn Mười chỉ đạo thuộc cấp bán đấu giá không thông qua Trung tâm để em ruột có cơ hội mua ngôi nhà và đất này. Mười đã nhờ người đứng tên đăng ký tham gia đấu thầu và gửi công văn tới Sở Xây dựng tỉnh đề nghị cung cấp thông tin quy hoạch tại bất động sản bán đấu giá.
Nhận được công văn thông báo "không xây dựng nhà ở" tại khu vực này, Hoàng và Linh đã sử dụng công văn thông báo cho những người đăng ký tham gia đấu giá biết, nhằm loại bớt số người muốn mua nhà, để em ruột trúng đấu giá 500 triệu đồng.
Các bị can đã gây thiệt hại tài sản của Nhà nước hơn 600 triệu đồng; gây thiệt hại cho ông Trịnh Vĩnh Bình và một cá nhân liên quan khác gần 270 triệu đồng. Hiện, gia đình các bị cáo khắc phục hậu quả được hơn 700 triệu đồng.
Dự kiến, ngày 8/5 Hội đồng xét xử tuyên án.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Chuyện kỳ khôi ở Bến Tre: Bỗng dưng bị cắt đất để... thi hành án cho người khác. Bài báo phản ánh: Mặc dù chẳng liên quan đến bản án 173/2005/DS-PT ngày 26-12-2005 của TAND tỉnh Bến Tre xét xử tranh chấp đất giữa hai người hàng xóm nhưng ngày 2-8-2010, bà Đặng Nhong (SN 1964, ngụ 299B1, P.Phú Khương, TP.Bến Tre) bất ngờ nhận được quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đã cấp cho bà từ tháng 9-2005, lý do: phần đất của bà thuộc quyền sử dụng của người thắng kiện trong bản án 173/2005/DS-PT.
Chính quyền địa phương đã cưỡng chế, cắt 9,46m2 đất của bà Nhong giao cho “người thắng kiện”, đồng thời GCNQSDĐ của bà cũng bị Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất TP.Bến Tre điều chỉnh giảm diện tích.
Theo trình bày của bà Nhong thì trước đây, vào năm 2004 giữa hai người hàng xóm của bà là Lê Thị Ngọc Dung (SN 1960, ngụ 98B, KP5, P.Phú Khương, thị xã Bến Tre) và Lê Thị Nết (SN 1949, ngụ 98B1, cùng KP) từng tranh chấp về quyền sử dụng đất. Trong đó, nguyên đơn là bà Dung đã kiện bà Nết phải tháo bỏ tấm lam và cắt tole để trả lại khoảng không bị lấn chiếm. Bị đơn là bà Nết không đồng ý, yêu cầu bà Dung trả lại cho bà phần đất 3 mét phía sau nhà.
Phiên tòa ngày 22-12-2004 do TAND thị xã Bến Tre xét xử đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Dung đối với bà Nết, đồng thời buộc bà Dung phải giao trả cho bà Nết phần đất 34,8m2. Bà Dung kháng cáo và ngày 26-12-2005, TAND tỉnh Bến Tre ra bản án 173/2005/DS-PT giữ nguyên bản án của cấp sơ thẩm.
Vụ việc hoàn toàn không liên quan tới bà Nhong. Trước khi bản án 173 có hiệu lực thì ngày 9-5-2005 bà Nhong đã được UBND thị xã Bến Tre cấp GCNQSDĐ số AC 271947 đối với thửa 155, tờ bản đồ 45, tọa lạc tại P.Phú Khương với diện tích 66,5m2. Nguồn gốc của mảnh đất trên do bà Nhong nhận chuyển nhượng từ bà Dung trước đó.
Sự việc kéo dài nhiều năm, ngày 2-8-2010 bà Nhong bỗng nhiên nhận được quyết định số 752/ QĐ-UBND của UBND TP.Bến Tre với nội dung thu hồi GCNQSDĐ số AC 291947 do UBND thị xã Bến Tre cấp cho bà Nhong với lý do: “Phần diện tích 66,5m2 thửa 155, tờ bản đồ 45, P.Phú Khương thuộc GCNQSDĐ của bà Đặng Nhong có một phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Lê Thị Nết theo bản án 173/2005/DS-PT của TAND tỉnh Bến Tre”.
Tiếp đó, ngày 10-1-2011 địa phương cưỡng chế, cắt 9,46m2 đất của bà Nhong giao cho bà Nết, đồng thời ngày 24-1-2011 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất TP.Bến Tre cũng điều chỉnh diện tích trên GCNQSDĐ của bà Nhong xuống còn 57,04m2. Phần đất bị cắt và điều chỉnh đã được gia đình bà Nết xây bít lại, hiện vẫn còn dấu tích của hàng rào cũ.
Không liên quan đến vụ án nhưng bỗng nhiên bị cắt một phần đất, gia đình bà Nhong làm đơn khiếu nại. Theo bà, việc tranh chấp giữa hai bà Dung - Nết đã được TAND tỉnh Bến Tre giải quyết bằng quyết định của bản án thì trình tự thủ tục thi hành án (THA) phải do cơ quan THA thực hiện, áp dụng đối với bà Dung. Trường hợp bà Dung không có đủ diện tích đất để giao theo quyết định của tòa thì cơ quan THA phải có biện pháp khác như yêu cầu bà Dung mua lại một phần đất đã bán cho bà Nhong để phục vụ việc THA hoặc bà Dung phải thỏa thuận đền bù phần diện tích còn thiếu bằng tiền theo giá trị đất được cơ quan chức năng thẩm định... Nếu bà Dung không thỏa thuận mua lại đất đã bán cho bà Nhong hoặc không thỏa thuận đền bù bằng tiền, hiện vật để thực hiện việc THA thì cơ quan này sẽ có biện pháp cưỡng chế.
Là người không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ kiện giữa bà Dung và bà Nết nhưng lại bị địa phương cưỡng chế, cắt một phần đất để giao thẳng cho bà Nết là cách làm gây phương hại đến quyền lợi và tài sản hợp pháp của bà Nhong. Mong cơ quan chức năng xem xét lại sự việc một cách thấu đáo, tránh để người vô can bức xúc kéo dài.
4. Báo pháp luật Việt Nam có bài Độc đáo mô hình đăng ký khai sinh “3 trong 1” ở Long An. Bài báo phản ánh: Tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An, khi trẻ đăng ký khai sinh sẽ được cấp luôn thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) và nhập hộ khẩu. Đây là một mô hình mới được người dân hết sức hoan nghênh, đồng tình và mong muốn được nhân rộng.
Từ ảnh hưởng đến một số quyền lợi của trẻ em, vì thủ tục khai sinh, nhập hộ khẩu và đăng ký cấp thẻ BHYT là riêng biệt và nếu thiếu hiểu biết, người dân có thể không thực hiện hoặc chỉ thực hiện việc khai sinh, còn các thủ tục khác thì không thực hiện hoặc nếu có thực hiện thì cũng phải đi lại nhiều lần, từ đó tốn thời gian, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân, không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của trẻ đã được pháp luật quy định.
Bên cạnh đó, cũng còn có thực tế các ngành như: Tư pháp, Công an, Thương binh –Xã hội , Y tế… chưa có sự phối hợp liên kết với nhau để giúp cho người dân giải quyết các thủ tục hành chính, thậm chí đùn đẩy trách nhiệm với nhau gây chậm trễ cho người dân, đặc biệt là quyền lợi cho trẻ em. Để giải quyết các vấn đề trên, UBND huyện Bến Lức, tỉnh Long An xây dựng kế hoạch thử nghiệm thủ tục một cửa kết hợp 3 thủ tục đăng ký “Khai sinh, nhập hộ khẩu và đăng ký cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi” tại UBND các xã, thị trấn.
Từ tháng 7/2010, Phòng Tư pháp huyện đã phối hợp với Phòng Nội vụ và các ngành có liên quan đề nghị UBND huyện cho phép thực hiện thí điểm tại thị trấn Bến Lức và xã Lương Hòa để rút kinh nghiệm. Các thủ tục này đều được thực hiện ở cấp xã hoặc nhận hồ sơ từ bộ phận một cửa cấp xã và liên quan đến 3 nhóm thủ tục hộ tịch, hộ khẩu, BHYT nên gọi tắt là mô hình “3 trong 1”.
Mô hình này bước đầu đã đem lại hiệu quả khá thiết thực. Đây là cách làm mới trong việc cải cách thủ tục hành chính của huyện Bến Lức tìm ra giải pháp để cải cách thủ tục hành chính theo hướng chuyển các khó khăn, phức tạp về phía cơ quan và cán bộ, để lại phần đơn giản, dễ nhất cho người dân nhưng vẫn phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật và văn bản chỉ đạo của cấp trên.
5. Báo Đại đoàn kết có bài Nên bỏ mô hình “hộ khẩu” của thời kỳ bao cấp. Bài báo đăng tải ý kiến góp ý của Tiến sĩ Võ Trí Hảo (Giảng viên Khoa Luật kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM) trong cuộc trao đổi với PV Đại Đoàn Kết về các bất cập liên quan đến công tác quản lý hộ tịch cư trú tại nhiều địa phương hiện nay.
Mô hình quản lý hộ tịch cư trú, đặc biệt là tại các đô thị ở nước ta hiện nay đang tồn tại những bất cập gì thưa ông?
TS Võ Trí Hảo: Các quy định về hộ tịch cư trú ở nước ta hiện nay có thể chia làm hai loại: thường trú và tạm trú/lưu trú. Ở từng lĩnh vực cụ thể, cách quản lý này gây ra một số bất cập, chẳng hạn: người dân ở các địa phương khác khi di cư tới các thành phố lớn hoặc ngược lại phải thực hiện nhiều lần thủ tục gia hạn lưu trú tại chính quyền sở tại.
Ông có thể nêu một số trường hợp điển hình mà ông biết có liên quan đến các bất cập vừa nêu không ?
Tôi còn nhớ cách nay chưa lâu, có hai trường hợp rất đau lòng liên quan đến các bất cập trong công tác quản lý hộ tịch cư trú. Đó là trường hợp cháu Thân Trọng Nguyên đã gửi một bức thư cho lãnh đạo Ủy ban MTTQ TP.HCM. Trong thư, cháu viết: "Cháu có hai anh em. Anh cháu sinh năm 1982, còn cháu sinh năm 1984. Cho đến nay chúng cháu vẫn chưa làm được giấy khai sinh. Cháu biết đây cũng là nỗi đau của mẹ cháu. Cháu đã hỏi cơ quan pháp lý... Nhưng ông ơi, tờ giấy xác nhận đã tạm trú 24 năm cũng không thể làm khai sinh cho chúng cháu được”. Hoặc trong một bức thư khác của cháu Nguyễn Ngọc Thương cũng rất xót xa: "Cháu sinh năm 1985, tạm trú ở 40/1B ấp 4 Lương Định Của, Q2, TP.HCM. Vì gia cảnh mà cha mẹ, anh chị em cháu không có hộ khẩu. Do vậy, ngay cả cái tên cháu đang mang cũng là cái tên vay mượn để được cắp sách tới trường như các bạn cùng lứa tuổi. Từ cấp 1, để cho cháu đi học, mẹ cháu đã mượn giấy khai sinh của con người cậu để cháu được đến trường... Để trở thành một người công dân thật sự khó quá ông ơi?”.
Ông có nói tới quyền tự do cư trú của công dân. Đây là quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp?
Điều 68 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã quy định "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước”. Quy định này nghĩa là mọi công dân đều có quyền sống bất kỳ nơi nào trên Tổ quốc mình và thời hạn sống bao lâu là do nhu cầu thực tế của gia đình họ, hoàn toàn không phụ thuộc vào các rào cản hành chính. Tuy nhiên, các luật thực thi hiện hành lại chưa bám theo Hiến pháp do các quy định chưa phù hợp với thực tế của Việt Nam, chưa nói tới việc đã quá tụt hậu so với các hình thức quản lý hộ tịch cư trú trên thế giới.
Cụ thể, chúng ta đã tụt hậu bao xa so với thế giới trong quản lý hộ tịch cư trú, thưa ông?
Tôi đã tìm hiểu nhiều mô hình quản lý hộ tịch cư trú ở các nước tiên tiến trên thế giới và thấy rằng hầu hết các nước đảm bảo cho công dân của nước họ có quyền tự do cư trú và tự do lựa chọn nơi sinh sống. Luật của họ không có khái niệm hộ khẩu, hay tạm trú mà chỉ đặt ra một số điều kiện đối với một số công việc đặc biệt. Họ cũng không đặt ra bất kỳ hạn chế nào đối với người dân vì lý do thời gian cư trú để khuyến khích công dân tự do dịch chuyển, tìm kiếm việc làm, khuyến khích kinh tế phát triển, tăng cường giao lưu giữa các bộ phận dân cư trong cùng một quốc gia, góp phần giảm bớt khoảng cách giữa nông thôn và thành thị,…
Vậy giải pháp mà ông đưa ra là gì?
Nhìn từ các mô hình quản lý cư trú hộ tịch điển hình trên thế giới đối chiếu với thực tế tại Việt Nam hiện nay thì có thể rút ra kết luận: Nên bỏ mô hình quản lý theo "hộ khẩu” của thời bao cấp và triển khai đồng bộ cả 3 vấn đề: a) thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch; b) quản lý khai thác dữ liệu hộ tịch, chống các hành vi lạm dụng; c) công nhận giá trị của các giấy tờ hộ tịch trong các thủ tục hành chính, các giao dịch dân sự khác. Hiện nay ở Việt Nam, 3 vấn đề nêu trên đang bị tách biệt và được điều chỉnh bởi các văn bản khác nhau. Mặt khác, các luật quy định về hộ tịch cư trú cần thiết phải đặt lợi ích của công dân lên hàng đầu để khuyến khích tự do dịch chuyển lao động, khuyến khích kinh tế phát triển. Để đối phó với sự quá tải của các đô thị lớn Việt Nam nên chuyển sang sử dụng các biện pháp kinh tế để điều tiết vấn đề cư trú. Tôi cũng đề nghị, Luật Hộ tịch nếu được thông qua trong năm 2013, nên lùi thời gian có hiệu lực khoảng 2 năm, đủ để xây dựng các trung tâm dữ liệu, hoàn thiện các quy định liên quan chế tài hình sự đối với hành vi lạm dụng dữ liệu hộ tịch, Luật Cư trú, quản lý đô thị. Về lâu dài nên hợp nhất Luật Cư trú và Luật Hộ tịch, tránh hiện tượng lệch pha giữa hai vấn đề vốn gắn bó mật thiết.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Vietnamnet có bài Lấy phiếu tín nhiệm: Bỡ ngỡ lần đầu tự chấm điểm. Bài báo phản ánh: Trong kỳ họp thứ 5 khai mạc ngày 20/5 tới, lần đầu tiên QH sẽ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm với 49 chức danh thuộc bốn nhóm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước; Chủ tịch QH, phó chủ tịch QH, chủ tịch Hội đồng Dân tộc, chủ nhiệm các ủy ban của QH và các ủy viên Thường vụ QH khác; Thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (CP); chánh án TAND Tối cao, viện trưởng VKSND Tối cao, tổng Kiểm toán Nhà nước.
Chuẩn bị cho sinh hoạt dân chủ mới mẻ này, gần 40 vị thuộc các chức danh trên đã có bản báo cáo công tác gửi tới QH và được sao gửi các đại biểu (ĐB) QH. Đây là lần đầu tiên một hoạt động vốn chỉ diễn ra nội bộ, trong khuôn khổ công tác tổ chức cán bộ của Đảng, được diễn ra công khai tại nghị trường. Do đó, nhiều vị không tránh khỏi lúng túng, bỡ ngỡ - biểu hiện rất rõ ở bản báo cáo công tác của từng người.
Đầu tiên là tên văn bản, mỗi người một kiểu. Có vị tô đậm: “Báo cáo của người được QH lấy phiếu tín nhiệm”. Người khác viết: “Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác và phẩm chất đạo đức”. Dài, chi tiết hơn, một số lại chọn tiêu đề: “Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống”. Ngược lại, dù rất hãn hữu, có báo cáo thiếu hẳn tiêu đề - phần được coi là bắt buộc của bất cứ văn bản mang tính hành chính - pháp lý nào. Về giới hạn thời gian, hầu hết các vị thuộc diện lấy phiếu tín nhiệm lấy năm 2012 làm mốc để báo cáo công tác của mình. Trong khi đó, một số người lại chọn cách báo cáo toàn bộ các công việc từ khi được QH bầu, phê chuẩn tại kỳ họp đầu tiên, tháng 7-2011 đến nay. Điều này có thể gây khó khăn cho các ĐBQH khi so sánh, đánh giá công tác của các vị chức sắc với nhau.
Sự lúng túng còn bộc lộ ở chỗ nhiều người không biết mình phải báo cáo cho ai. Hiểu một cách chính xác, người được/bị lấy phiếu tín nhiệm trước hết phải báo cáo công tác của mình cho người cầm tờ phiếu đánh giá - tức từng ĐBQH. Thế nhưng rất nhiều báo cáo ghi địa chỉ gửi tới là Ủy ban Thường vụ QH.
Có những báo cáo mà phần mở đầu không nêu rõ tên người báo cáo (chỉ nêu chức danh bộ trưởng bộ A) và cũng không hề nêu địa chỉ gửi tới. Một số báo cáo sử dụng nhân xưng là “bộ trưởng”, “phó thủ tướng”. Đọc những văn bản như vậy, thắc mắc đầu tiên sẽ là ai báo cáo và báo cáo cho ai…
Các ĐBQH khi nghiên cứu các báo cáo này, điều đầu tiên quan tâm có lẽ là độ dày, mỏng. Hầu hết các báo cáo ở mức 6-8 trang A4. Một số dày hơn, chừng 12-15 trang. Số ít dài tới 25-30 trang, thậm chí còn kèm thêm phụ lục liệt kê công việc khá dày.
Độ dày, mỏng chưa hẳn đã nói lên tính chuyên nghiệp, mức độ chi tiết, súc tích của báo cáo nhưng một số ít vị đã lập một báo cáo rất ngắn - chỉ chừng 1,5 trang. Công tác hơn một năm trời của quan chức cỡ bộ trưởng hoặc chủ nhiệm ủy ban của QH mà lại trình bày quá gọn như vậy thì khó có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho những người bỏ phiếu.
Đi vào nội dung của từng báo cáo mới thấy rõ hơn nhận thức, hiểu biết của từng vị chức sắc về trách nhiệm báo cáo, giải trình của mình trước QH.
Nghị quyết của QH cũng như nghị quyết của Ủy ban Thường vụ QH quy định, hướng dẫn về lấy phiếu tín nhiệm đã nêu rõ: Báo cáo công tác cần bám vào việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật đối với chức vụ được QH bầu, phê chuẩn. Có nghĩa đây là báo cáo về trách nhiệm pháp lý trước cơ quan đã bầu/phê chuẩn mình. Thế nhưng một số vị chức sắc trong báo cáo của mình lại liệt kê những công việc về mặt đảng như việc tham gia các kỳ họp BCH Trung ương, việc kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4, việc tuân thủ quy định 19 điều cấm với đảng viên…
Cũng đi vào nội dung, khá nhiều báo cáo dường như lặp lại báo cáo công tác của cơ quan, đơn vị nơi người đó đứng đầu. Có báo cáo đọc xong không hề thấy được vị chức sắc đó đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn luật định cho cá nhân mình như thế nào... Ngoài ra, báo cáo công tác của các vị bộ trưởng chỉ trình bày duy nhất phần việc đã thực hiện với tư cách bộ trưởng, mà quên mất rằng ngoài vị trí tư lệnh ngành, họ còn là thành viên CP, có trách nhiệm thảo luận, quyết định những vẫn đề thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể CP. Điều này rất có thể ảnh hưởng tới phiếu tín nhiệm mà ĐBQH dành cho họ…