Điểm tin báo chí sáng ngày 26 tháng 4 năm 2013

26/04/2013
Trong ngày 25/4 và đầu giờ sáng ngày 26/4/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thừa phát lại không được lập vi bằng về bí mật đời tư. Theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội, việc thí điểm chế định thừa phát lại (TPL) sẽ được tiếp tục đến hết ngày 31/12/2015 và mở rộng trên địa bàn một số tỉnh, TP trực thuộc Trung ương. Để triển khai chủ trương này, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm tại TP.HCM đang được tính toán sửa đổi để các tỉnh, thành phố tới đây được thí điểm mô hình TPL có cơ sở pháp lý áp dụng.

            Yêu cầu phổ biến nhất của khách hàng khi tìm đến văn phòng TPL trong thời gian thí điểm hơn 2 năm vừa qua chính là việc lập vi bằng. Người dân cho rằng, có không ít các thỏa thuận, giao dịch, sự kiện xảy ra nhưng không thuộc thẩm quyền chứng của cơ quan nào nên họ phải gõ cửa văn phòng TPL và được đáp ứng nhanh chóng, hiệu quả.

            Chẳng hạn, họ muốn ghi nhận thỏa thuận giữa hai bên mua bán nhà về chuyện giao nhận tiền, ghi nhận việc tự thỏa thuận tài sản sau ly hôn giữa hai vợ chồng rằng người vợ sẽ trả cho chồng 500 triệu đồng để được sở hữu căn nhà mà vợ chồng đã cùng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, hay đơn giản chỉ là ghi nhận có việc xây dựng của nhà hàng xóm, có vệt nứt trên nhà mình…

            Nghị định 61 đã quy định, TPL có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn TP.HCM theo yêu cầu của đương sự, trừ trường hợp quy định TPL không được làm (như không được nhận làm những việc liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người là người thân thích của mình, bao gồm vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của TPL, của vợ hoặc chồng của TPL…), các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm.

            Phạm vi lập vi bằng của TPL quy định như trên là rất rộng và thực tế hoạt động cho thấy, đã có sự chồng lấn với hoạt động của các tổ chức khác như công chứng, chứng thực. Ông Lê Mạnh Hùng - Trưởng Văn phòng TPL quận Bình Thạnh đặt vấn đề: có nhiều đương sự đến Văn phòng yêu cầu lập vi bằng về việc “bắt” vợ/chồng mình có hành vi ngoại tình. Tuy nhiên, do Nghị định 61 chưa hướng dẫn rõ ràng và khái niệm “đời tư” lại là vấn đề chưa ngã ngũ nên đến nay cũng chưa có văn phòng TPL nào lập vi bằng về việc ngoại tình bởi e ngại xâm phạm đời tư của người khác.

            Vì vậy, Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61 mà Bộ Tư pháp đang chủ trì soạn thảo dự kiến quy định chi tiết hơn về phạm vi lập vi bằng, nhằm đảm bảo việc lập vi bằng đúng pháp luật, không vi phạm điều cấm, thuần phong, mỹ tục và chống lấn lĩnh vực khác.

            Theo Dự thảo Nghị định, TPL vẫn có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, song hướng dẫn cụ thể các trường hợp không được lập vi bằng. Đó là: trường hợp quy định TPL không được làm (tương ứng với Điều 6 Nghị định 61); trường hơp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng hay thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp; trường hợp thuộc về bí mật đời tư theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Dân sự và văn bản liên quan; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

            Cũng theo Nghị định 61, văn phòng TPL có chức năng xác minh điều kiện thi hành án. Nhưng để “làm tròn” chức năng xác minh, TPL thường bị nhiều cơ quan gây khó dễ, “yêu cầu này nọ”, đặc biệt là ngành ngân hàng luôn thẳng thừng từ chối khi các văn phòng TPL đề nghị phối hợp xác minh thông tin tài khoản của người phải thi hành án.

            Ông Nguyễn Năng Quang (Trưởng Văn phòng TPL quận Tân Bình) chia sẻ, Văn phòng TPL quận Tân Bình xác minh tài khoản của người phải thi hành án tại Ngân hàng Vietcombank Chi nhánh TP.HCM thì bị từ chối. Lý do là ngân hàng này căn cứ vào Công văn hướng dẫn số 7102 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, công văn của Ngân hàng Nhà nước cho rằng TPL là tổ chức hành nghề TPL chứ không phải là một cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nên các ngân hàng không có nghĩa vụ phải hợp tác.

            Thừa nhận bất cập trên, đại diện Tổng cục Thi hành án dân sự phân tích nguyên nhân là do Nghị định 61 quy định chưa cụ thể về vấn đề xác minh của TPL, nhất là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện yêu cầu xác minh của TPL. Để khắc phục tình trạng này, Dự thảo Nghị định hiện quy dịnh theo hướng rõ ràng hơn về thủ tục và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện yêu cầu của TPL.

            Trong đó, có quy định: “Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, Cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của TPL về xác minh và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đã cung cấp”.

            2. Báo Lao động có bài Bất thường vụ kiện nhà 121 Trần Hưng Đạo, Q.5, TP.Hồ Chí Minh: Ai “tiếp tay” tẩu tán tài sản?. Bài báo phản ánh: Ngôi nhà trị giá hàng chục tỉ đồng, chủ nhà nhận tiền đặt cọc 100 lượng vàng SJC, nhưng bên bán phá vỡ hợp đồng, bên mua kiện ra tòa đòi lại tiền cọc. Qua 4 lần xét xử sơ và phúc thẩm, bên bán phải trả lại tiền cọc là điều hiển nhiên; nhưng cũng sau 2 lần bị kháng nghị, khiến chủ nhà “nhanh tay” bán ngôi nhà, trốn tránh tài sản đảm bảo thi hành án.

            Ngày 21.7.2008, bà Lê Thị Nhâm (SN 1965, ngụ số 11/9 đường Trần Quốc Hoàn, P.4, Q.Tân Bình) ký hợp đồng mua căn nhà số 121 đường Trần Hưng Đạo, P.6, Q.5 với giá 400 lượng vàng SJC của bà Nguyễn Thị Ngọc Hồng (SN 1960, ngụ 557 đường Trần Hưng Đạo, P.4, Q.5). Thực hiện hợp đồng, bà Nhâm giao 100 lượng vàng SJC tiền đặt cọc.

            Đến ngày 29.8.2008, bà Hồng tiếp tục yêu cầu bà Nhâm giao thêm 23 lượng vàng SJC. Như vậy, số tiền đặt cọc mua nhà là 100 lượng vàng và tiền mua nhà giao trước là 23 lượng vàng; nhưng bà Hồng không thực hiện hợp đồng mua-bán nhà. Bà Nhâm khởi kiện ra tòa, buộc bà Hồng trả lại tiền đặt cọc và tiền mua nhà đưa trước.

            Ngày 15.12.2009, TAND Q.5 xét xử sơ thẩm, tuyên “buộc bà Hồng trả cho bà Nhâm 200 lượng vàng SJC (100 lượng là tiền đặt cọc và 100 lượng là tiền bồi thường theo hợp đồng) và trả cho bà Nhâm 23 lượng vàng SJC tiền mua nhà” (bản án dân sự sơ thẩm số 45/2009/DSST). Sau đó, bà Hồng kháng cáo lên TAND TPHCM. Vụ tranh chấp này kéo dài từ năm 2008 đến nay, qua 4 lần xét xử sơ và phúc thẩm, bà Nhâm đều thắng kiện.

            Sau bản án sơ thẩm của TAND Q.5 và phúc thẩm của TAND TPHCM (lần 1), bà Nhâm đều thắng kiện bà Hồng, nhưng ngày 18.10.2010, Viện KSND Tối cao có Quyết định số 152 do bà Nguyễn Thị Thủy Khiêm – Phó Viện trưởng Viện KSND Tối cao - ký, kháng nghị bản án số 300 ngày 24.3.2010 của TAND TPHCM, tạm đình chỉ thi hành bản án, chờ kết quả giám đốc thẩm. Ngày 22.10.2010, Chi cục trưởng Chi cục THA Q.5 ra thông báo tạm đình chỉ THA bản án số 300 của TAND TPHCM... Thế là, bà Hồng “nhanh tay” chuyển nhượng ngay ngôi nhà này cho ông Vòng Mạnh Chi với giá chỉ một nửa so với giá thực tế thị trường (!?).

            Thế là vụ án lại đưa về xét xử lại từ đầu (lần 2). Cũng tiếp tục qua 2 lần sơ và phúc thẩm, bà Nhâm tiếp tục thắng kiện bà Hồng; bên cạnh đó, tại bản phúc thẩm (lần 2) của TAND TPHCM số 1066/2012/DSPT ngày 4.9.2012, tuyên “Hợp đồng chuyển nhượng nhà 121 Trần Hưng Đạo, P.6, Q.5 giữa bà Hồng và ông Chi là vô hiệu. Hủy giấy chứng nhận QSD đất ở và QSH nhà ở số CH 04496 ngày 14.9.2011 do UBND Q.5 cấp cho ông Vòng Mạnh Chi”. Vậy mà, suốt nhiều năm theo đuổi vụ kiện, tưởng chừng công lý đã thắng, bà Nhâm lại một lần nữa phải viết đơn tố cáo khẩn cấp đến các cấp lãnh đạo trung ương, Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao... vì bà Nguyễn Thị Thủy Khiêm - Phó Viện trưởng Viện KSND Tối cao - lại ra Quyết định số 20/QĐ-KNGĐT-V5, ngày 4.3.2013 “Kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 1066/2012 của TAND TPHCM, đề nghị TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm số 1066/2012 của TAND TPHCM...” (!?).

            3. Báo Nhân dân điện tử có bài Bảo đảm quyền khai sinh của trẻ em. Bài báo phản ánh: Theo Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, việc xây dựng, điều chỉnh chính sách giai đoạn 2013 - 2020 về quyền trẻ em cần bảo đảm quyền khai sinh cho trẻ. Số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê cho thấy, 95% trẻ em dưới năm tuổi được khai sinh trong toàn quốc.

            Tỷ lệ này đã tăng đáng kể so với 88% vào năm 2006 và 72% vào năm 2000, trong đó có cả con của người lao động nhập cư không có đăng ký hộ khẩu.

            Đây là một trong những khuyến nghị chi tiết của Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) nhằm bảo đảm quyền khai sinh của mọi trẻ em, đặc biệt là trẻ em cư trú ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hoặc các nhóm trẻ em thuộc tầng lớp xã hội nào. Chính phủ đã quy định trong Chỉ thị về lĩnh vực phí, lệ phí đã quy định miễn toàn bộ lệ phí đăng ký khai sinh, bao gồm khai sinh đúng hạn, đăng ký lại việc sinh và đăng ký khai sinh quá hạn. Chính quyền địa phương cũng được phân cấp, phân quyền trong quản lý theo Nghị định số 158/2005/NĐ-CP nên quyền khai sinh của trẻ em được nhiều địa phương ưu tiên thực hiện.

            Đây là thông tin được Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Đặng Hoa Nam đưa ra tại hội nghị triển khai thực hiện các khuyến nghị của Uỷ ban về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc (CRC) do cơ quan này tổ chức diễn ra ngày 25-4 tại Hà Nội.

            Ông Nam cũng nêu lên khuyến nghị chung tập trung vào ba điểm. Đó là tăng cường sự thống nhất và điều phối các kế hoạch, chương trình, chính sách để thực hiện CRC một cách toàn diện, lồng ghép quyền trẻ em vào tất cả các chính sách, chương trình quốc gia vì trẻ em; tăng phân bổ nguồn ngân sách. Ngoài ra, truyền thông và nâng cao nhận thức để xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về gia đình, quyền con người, đưa các vấn đề về trẻ em vào giảng dạy ở nhiều cấp học, các chiến dịch về CRC cho trẻ em, gia đình, phổ biến CRC đến nhiều dân tộc ít người bằng ngôn ngữ của họ.

            Tháng 5 năm 2012, Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo tình hình thực hiện công ước quốc tế về quyền trẻ em tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011. Đây là phiên đối thoại cởi mở, mang tính xây dựng, thân thiện và đã được Uỷ ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc (CRC) đánh giá cao về chất lượng báo cáo cũng như tinh thần đối thoại, hợp tác và thiện chí của đoàn Việt Nam. Từ đó, Uỷ ban về quyền trẻ em của Liên hợp quốc cũng đưa ra 43 khuyến nghị liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của quyền trẻ em. Trong đó có sửa đổi luật pháp, điều phối, phân bổ nguồn lực, giám sát, không phân biệt đối xử, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em được tiếp cận bình đẳng về giáo dục và y tế, tư pháp người chưa thành niên…

II- THÔNG TIN KHÁC

            1. Báo VietnamNet có bài Bi hài hậu trường xếp hạng PCI. Bài báo phản ánh: Lần đầu tiên khi Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được công bố, lãnh đạo nhiều địa phương tỏ rõ thái độ không quan tâm, thậm chí là phản đối, với nhiều câu chuyện khá khôi hài.

            Đó là vào năm 2005, khi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) lần đầu công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Khi đó, nhiều địa phương không hợp tác và cũng chẳng quan tâm đến những chỉ số - mà giờ đây, đã trở thành một "hàn thử biểu" về môi trường kinh doanh tại các địa phương và luôn làm đau đầu lãnh đạo nhiều tỉnh thành.

            Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (Provincial Competitiveness Index, viết tắt là PCI) là chỉ số đánh giá và xếp hạng về chất lượng điều hành chính quyền các tỉnh, thành phố của Việt Nam. PCI ra đời và phát triển từ ý tưởng và phương pháp của nhóm chuyên gia VCCI và dự án sáng kiến cạnh tranh Việt Nam (VNCI) - một dự án do Cơ quan Viện trợ Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ.

            Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI thì PCI không có mô hình sẵn, chưa có tiền lệ, cũng không ai giao cho VCCI phải làm. “Đây hoàn toàn do chúng tôi tự sáng tạo và tự làm” - ông Lộc nói.

            Năm đầu tiên, PCI được thực hiện tại 42 tỉnh, thành phố của Việt Nam và từ 2006 đến nay triển khai trên cả 63 tỉnh, thành toàn quốc.

            Kể về những câu chuyện quanh chỉ số PCI, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh nhớ lại, lần đầu tiên khi công bố, có lãnh đạo tỉnh còn gọi điện cho ông chất vấn tại sao lại để cho "chúng nó đánh giá về bọn tao"! Nhiều địa phương thì tỏ rõ thái độ không quan tâm, “tùy, muốn xếp hạng thế nào cũng được”.  

            Tuy nhiên, đến nay thì mọi chuyện đã khác. PCI đã trở thành “tiếng nói” quan trọng của cộng đồng DN về môi trường kinh doanh tại các tỉnh, thành phố của Việt Nam, dù muốn hay không, lãnh đạo các địa phương cũng không thể làm ngơ được.

            Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Ban Pháp chế VCCI cũng kể rằng, mới đầu, nhiều địa phương không muốn công bố chỉ số này, không hợp tác, thậm chí là phản đối mạnh mẽ. Có địa phương đã làm hẳn công văn gửi Chính phủ đề nghị không cho VCCI xếp hạng chỉ số PCI các tỉnh, thành vì nó rất nhạy cảm. Có địa phương ở Tây Nguyên thì đề nghị xin được rút khỏi bảng xếp hạng vì cho rằng tỉnh mình còn nghèo, lạc hậu, như vậy luôn phải xếp ở vị trí thấp sẽ rất xấu hổ...

            Mỗi địa phương có thái độ, cách ứng xử với chỉ số PCI khác nhau, ông Tuấn cho hay. Chẳng hạn, lãnh đạo một tỉnh miền Trung 3 năm liền không thèm quan tâm đến chỉ số PCI của địa phương mình. Nhưng, sau khi tiếp nhiều đoàn DN nước ngoài đến làm việc, tìm hiểu môi trường đầu tư, thấy dù đến từ nhiều quốc gia khác nhau nhưng họ đều đưa chỉ số PCI của địa phương ra chất vấn, lúc đó lãnh đạo tỉnh mới tá hỏa, yêu cầu các sở, ban, ngành tìm hiểu xem PCI là cái gì, đánh giá xếp hạng ra sao... Sau khi nhận ra những hạn chế được chỉ ra đã ngay lập tức bắt tay vào cải cách, đổi mới để thu hút đầu tư, tránh tình trạng DN đi không bao giờ trở lại nữa.

            Chính những tác động từ DN đã làm cho lãnh đạo nhiều địa phương chuyển biến, thay đổi đáng kể, ông Tuấn nói. Có giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư của một tỉnh trung du đã bị "trảm" do để PCI thấp, rồi cả tỉnh bắt tay vào "đẩy" PCI lên và đến nay thì PCI đã thăng hạng liên tục. Thậm chí, một số hiệp hội tại tỉnh này còn cho biết, trước kia có họp hay hội thảo, mời lãnh đạo tỉnh chẳng ai đến, nhưng sau khi PCI chỉ ra vai trò quan trọng của các hiệp hội trong việc hỗ trợ DN thì lần họp nào mời lãnh đạo tỉnh cũng đến dự và ghi chép cẩn thận.

            Chuyện mới nhất đây là Hà Nội, từ vị trí 34 của năm 2011 đã "rơi" một mạch xuống thứ 51 trong bảng xếp hạng năm 2012, ngay lập tức, Thành ủy Hà Nội đã tổ chức hẳn một cuộc giao ban với lãnh đạo các sở, ban, ngành và 29 quận, huyện, thị xã về đề tài tụt hạng PCI. Cơ quan đầu mối thường trực về vấn đề này là Sở Kế hoạch Đầu tư đã bị phê bình, nhiều sở, ngành khác cũng bị nhắc nhở.

            Một đại gia hay chơi golf với các quan chức Hà Nội cho biết, mấy tuần nay thấy các "bác" Hà Nội vắng bóng hẳn ở sân golf. Tìm hiểu ra mới rõ, thành phố đang siết lại kỷ cương, thanh tra, kiểm tra, giám sát... để xử lý chuyện PCI "tụt", vì thế chẳng có thời gian để mà ra sân.

            Theo ông Vũ Tiến Lộc, ngay cả địa phương trước kia xin không tham gia bảng xếp hạng PCI nay cũng đã có cách nhìn đổi khác. Cụ thể, để cải thiện chỉ số PCI, tỉnh này đã hợp tác với VCCI xây dựng hẳn một đề án cho giai đoạn 2012-2015, tập trung vào việc tạo môi trường sản xuất, kinh doanh, đầu tư thân thiện, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN hoạt động, phấn đấu cải thiện các chỉ số thành phần, nâng chỉ số PCI mỗi năm tăng ít nhất 3-4 bậc.

            Tuy nhiên, cũng không ít địa phương lại không muốn làm như vậy, thay vào đó họ gọi điện xin xỏ cho vị trí xếp hạng cao để lấy thành tích, ông Lộc cho biết.

            Theo ông Lộc, qua 8 năm thực hiện, PCI đã khẳng định không chỉ là một bảng xếp hạng đơn thuần, mà đang dần trở thành "tấm gương" tự soi mình và góp phần tạo động lực cải cách đối với lãnh đạo nhiều chính quyền địa phương; là thước đo về mức độ thực thi và hiệu quả của nhiều chính sách của Chính phủ; là kênh thông tin tin cậy và khách quan đối với nhà đầu tư và DN; là nguồn thông tin hữu ích cho các chương trình hỗ trợ của nhà tài trợ nước ngoài, các tổ chức quốc tế.

            Hiện đã có hơn 40 tỉnh, thành phố tại Việt Nam ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, chương trình hành động để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương từ thông tin của PCI. Mô hình, phương pháp PCI của Việt Nam cũng đã được nhiều quốc gia, nhà tài trợ khác trên thế giới áp dụng và nhân rộng.

            2. Báo Nhân dân điện tử có bài Hội nghị trực tuyến về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Bài báo phản ánh: Sáng 24-4, tại Hà Nội, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Hội nghị trực tuyến lấy ý kiến đại biểu Quốc hội về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

            Tham dự hội nghị, có đại diện Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành và đại biểu Quốc hội của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chủ trì hội nghị có Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Quang Minh. Tại hội nghị, có 15 ý kiến của đại biểu các tỉnh, thành phố tập trung đóng góp vào một số lĩnh vực như: Quyền của Nhà nước và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với đất đai; giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất...

            Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: Thực hiện Nghị quyết số 563/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), từ tháng 1-2013 đến nay, có hơn sáu triệu ý kiến góp ý vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của các bộ, ngành, cơ quan, địa phương, các tổ chức và cá nhân. Theo đó, phần lớn ý kiến góp ý đề nghị giữ nguyên quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Về thu hồi đất, chỉnh lý theo hướng Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng đã được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ quyết định, chấp thuận chủ trương và các dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của địa phương đã được HĐND cấp tỉnh thông qua.

           



File đính kèm