I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin: Làm gì khi người phải thi hành án là cấp trên?. Bài báo phản ánh: Đoàn kiểm tra liên ngành việc triển khai Luật Tố tụng hành chính (TTHC) do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính làm Trưởng đoàn chiều qua làm việc với UBND TP. Hà Nội. Phó Chủ tịch UBND TP. Vũ Hồng Khanh tham dự buổi làm việc.
Báo cáo kết quả triển khai Luật TTHC và Chỉ thị số 17 của Thủ tướng Chính phủ, Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội Phan Hồng Sơn cho biết, công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến luật cũng như việc chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc các cơ quan hành chính và các cơ quan tổ chức trên địa bàn được triển khai một cách nghiêm túc, bài bản.
Kết quả thi hành án hành chính từ ngày 1/7/2011 đến ngày 15/3/2013 là 137 việc, trong đó đã chủ động thi hành là 135 việc, thi hành theo đơn 2 việc; kết quả đã thi hành xong 129 việc, thu số tiền trên 96 triệu đồng.
"Các bản án, quyết định hành chính do Tòa án chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự (THADS) để thi hành các khoản thu nộp cho ngân sách nhà nước đều được các cơ quan THADS trên địa bàn thụ lý, ra quyết định và tổ chức thi hành đúng pháp luật", ông Sơn nói.
Tuy nhiên, một trong những khó khăn nổi bật, theo Giám đốc Sơn là "chấp hành viên còn tâm lý e ngại do người phải THA là UBND cùng cấp (cơ quan chỉ đạo về công tác THADS tại địa phương- Ban chỉ đạo THADS)". Thêm vào đó, số việc đôn đốc THA hành chính chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với các việc khác, song việc đôn đốc thi hành trên thực tế hiệu quả chưa cao, còn phụ thuộc vào sự tự nguyện của cơ quan hành chính nhà nước. Trường hợp không tự nguyện thi hành thì chưa có quy định về chế tài xử lý.
Vấn đề này, UBND TP. Hà Nội đề nghị sửa đổi Luật TTHC theo hướng trong trường hợp người phải THA là UBND cấp huyện thì giao thẩm quyền cho Cục THADS cấp tỉnh; quy định chế tài xử lý đối với trường hợp người phải THA là cơ quan hành chính (UBND) cố tình không thi hành. Đồng thời bổ sung quy định về gửi bản án, quyết định hành chính của Tòa án cho UBND cấp tỉnh (hoặc Sở Tư pháp).
Chung ý kiến, Cục THADS TP. đề nghị các cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật TTHC để việc đôn đốc THA hành chính đạt hiệu quả.
2. Báo Người đưa tin có bài Chuyện như đùa về thi hành án ở Nha Trang. Bài báo phản ánh: Sau bản án kỳ lạ là những quyết định cũng kỳ lạ không kém được ban hành một cách nhanh chóng khiến người dân đi kêu oan chỉ còn biết khốn khổ chịu trận.
Khởi nguyên của “những quyết định kỳ lạ tại Nha Trang” bắt nguồn từ vụ án dân sự tranh chấp di sản thừa kế xảy ra vào cuối năm 2010 tại thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) giữa hai anh em ông Nguyễn Quý Báu và Nguyễn Trung Tâm. Trước đó, bố mẹ ông Báu và ông Tâm là cụ Nguyễn Sáu và Nguyễn Thị Mùi qua đời đã để lại lô đất 701,9m2 tọa lạc tại 13/5 đường Đặng Tất, Vĩnh Phước, Nha Trang. Trước khi bố mẹ qua đời, ông Tâm được cho phần nhà, đất có diện tích 239 m2 và đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ theo văn bản phân chia tài sản thừa kế do bà Mùi lập và được UBND phường Vĩnh Phước chứng nhận. Phần còn lại có diện tích 462m2 cũng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên Nguyễn Thị Mùi nhưng trước khi qua đời, cụ Mùi không để lại di chúc về phần đất này.
Ngày 12/4/2010 ông Nguyễn Quý Báu (định cư ở Hoa Kỳ) về Việt Nam, thành lập Công ty TNHH một thành viên Màu Nắng có trụ sở tại 13/5 Đặng Tất và làm đơn khởi kiện “chia di sản thừa kế” của cha mẹ để lại. Ngay sau khi 2 cấp Tòa xử cho Việt kiều quốc tịch Mỹ là Nguyễn Quý Báu thắng kiện, từ đường thờ cúng và một phần nhà ông Tâm đã bị lực lượng thi hành án nhanh chóng vào cuộc phá dỡ. Về phần đất được Tòa chia, ông Báu cũng chuyển nhượng ngay cho một người khác là bà Nguyễn Hải Ly (trú tổ 5 Thanh Hải, Vĩnh Hải, Nha Trang). Về phía ông Nguyễn Trung Tâm, do không đồng ý với quyết định của hai bản án trên, ông đã tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan cấp cao hơn.
Ngày 24/7/2012, TAND Tối cao có quyết định kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng. Quyết định kháng nghị của TAND Tối cao chỉ ra những sai sót của hai cấp tòa trước đó đồng thời ghi rõ: “Tạm đình chỉ thi hành án dân sự phúc thẩm nêu trên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm”.
Ngày 10/9/2012, ông Tâm tiếp tục nhận được thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án của cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh Khánh Hòa.
Dù các văn bản về việc tạm đình chỉ vụ án đã liên tục được ban hành, ông Lê Huy Toàn, phó chủ tịch UBND TP Nha Trang vẫn cấp giấy phép xây dựng cho công trình nhà ở riêng lẻ đô thị tại địa chỉ 13/5 Đặng Tất, Vĩnh Phước, TP Nha Trang để cho bà Nguyễn Hải Ly xây móng, đổ trụ và ồ ạt xây dựng. Sau đó, đến ngày 4/1/2013 ông Lê Huy Toàn “chữa cháy” bằng cách ban hành công văn thông báo tạm dừng thi công xây dựng công trình. Tuy nhiên đến lúc này thì bà Nguyễn Hải Ly bất chấp tất cả, thậm chí còn đẩy mạnh việc xây dựng một cách rầm rộ hơn.
Trao đổi với PV, ông Lê Huy Toàn cho biết: vụ việc này tương đối phức tạp, do đó thành phố đã có báo cáo tỉnh và đang xin ý kiến của TAND tối cao. ‘Việc xây dựng của bà Nguyễn Hải Ly là… đúng luật nhưng tại vì nó có diễn biến phức tạp nên phải tạm dừng thi công chứ không thì không có tạm dừng thi công đâu’, ông Toàn nói.
Ông Nguyễn Trung Tâm bức xúc: không hiểu vì sao ngay sau khi bản án phúc thẩm được tuyên, các cơ quan công quyền ở Nha Trang đã vào cuộc vô cùng nhanh chóng và sốt sắng, nhà cửa từ đường của gia đình đã bị đập tan hoang. Thế nhưng đến khi TAND Tối cao có Quyết định kháng nghị tạm đình chỉ thi hành án dân sự phúc thẩm nêu trên thì các cơ quan công quyền lại vào cuộc một cách vô cùng hời hợt, để cho bà Hải Ly ngang nhiên dựng trên phần đất còn đang tranh chấp. Việc xây dựng hiện nay của bà Ly chắc chắn sẽ làm phát sinh và thay đổi hiện trạng nhà đất đang tranh chấp, gây khó khăn rất nhiều cho các cấp tòa án xét xử và thi hành án sau này. Đến lúc đó không biết ai sẽ là người đứng ra nhận trách nhiệm.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Bình Dương: Chủ nợ khóc ròng vì “đại gia” xin ly hôn. Bài báo phản ánh: Vũ Hữu Trí (SN 1970, ngụ 359 Đại lộ Bình Dương, P. Chánh Nghĩa, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương) bị tòa buộc trả cho vợ chồng bà Phan Thị Lan (SN 1968, ngụ xã Chánh Mỹ, TP. Thủ Dầu Một) 3 tỷ đồng. Vợ ông Trí là Phan Ngọc Trinh (Giám đốc DNTN Ngọc Trinh) bị tòa buộc phải trả cho Ngân hàng TMCP Việt Á 49,494 tỷ đồng. Vợ chồng Trí - Trinh còn liên quan đến món nợ 21,484 tỷ đồng của Ngân hàng TMCP Nam Á. Thay vì lo trả các khoản nợ “khủng” thì bà Trinh khởi kiện xin ly hôn và phân chia tài sản với ông Trí...
Quá trình giao kết làm ăn, ông Vũ Hữu Trí nợ vợ chồng bà Phan Thị Lan - ông Phạm Văn Dũng 800 triệu đồng. Cuối tháng 9-2009, ông Trí gặp vợ chồng ông Dũng, gợi ý việc bán 1.246m2 đất tại P. Phú Mỹ, thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một kèm theo giấy chủ quyền (tức sổ đỏ). Người đứng tên sổ đỏ Trần Văn Đạt (ngụ P13Q10, TPHCM) đã ký giấy ủy quyền cho ông Trí được toàn quyền định đoạt khu đất. Đưa vợ chồng bà Lan đến đường Huỳnh Văn Lũy, ông Trí lấy tay chỉ vào khu đất trống nằm ngay mặt tiền. Thấy khu đất đẹp, vị trí thuận lợi nên vợ chồng bà Lan đồng ý mua với giá 3 tỷ đồng vào ngày 12-10-2009.
Phía ông Trí đã nhận đủ tiền bán đất, vợ chồng bà Lan được cấp sổ đỏ mới. Tiến hành làm tường rào xung quanh khu đất, bà Lan bị một nhóm người kịch liệt phản đối. Kiểm tra lại bản vẽ hiện trạng, bà Lan chết lặng khi biết khu đất mà Trí chỉ tay bán không phải khu đất được cấp sổ đỏ! Cho rằng hành vi “chỉ tay” bán khu đất của người khác ẵm 3 tỷ đồng của Trí là lừa đảo nên vợ chồng bà Lan liên tục làm đơn tố cáo. Bà Lan trình bày: “Hành vi lừa đảo rất rõ ràng nhưng tại phiên tòa sơ thẩm ngày 29-6-2012, TAND tỉnh Bình Dương chỉ tuyên buộc ông Trí phải trả cho vợ chồng tôi 3 tỷ đồng. Thoát nạn nhưng Trí vẫn không chịu trả nợ mà kháng cáo nhằm kéo dài thời gian chiếm đoạt”.
Vũ Hữu Trí kháng cáo bản án nhưng khi tòa phúc thẩm triệu tập thì lại vắng mặt không lý do. Bản án số 897/HSPT ngày 28-9-2012 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM tuyên y án sơ thẩm, buộc Trí phải trả cho vợ chồng bà Lan 3 tỷ đồng. Cho đến nay, Cục Thi hành án (THA) dân sự tỉnh Bình Dương chỉ mới thu được số tiền 207,7 triệu đồng.
Qua xác minh, Cục THA dân sự tỉnh Bình Dương phát hiện Vũ Hữu Trí và vợ Phan Ngọc Trinh làm chủ rất nhiều tài sản chủ yếu là nhà đất trị giá hàng chục tỷ đồng. Trong số này có căn nhà dạng biệt thự tọa lại mặt tiền 359 (số cũ số 14/14) Đại lộ Bình Dương, P. Chánh Nghĩa, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên phần lớn tài sản này đã được thế chấp hoặc bảo lãnh thế chấp vay số tiền khủng.
Ngày 19-11-2012, bà Phan Ngọc Trinh làm đơn kiện chồng Vũ Hữu Trí ra TAND TP. Thủ Dầu Một. Bà Trinh đề nghị tòa “phân chia tài sản” là căn nhà xây trên lô đất 269,4m2 số 359 Đại lộ Bình Dương với giá trị tài sản theo bà Trinh là 500 triệu đồng. Bà Trinh đưa ra lý do “phân chia”: ông Trí đã đem tài sản chung của vợ chồng để thế chấp lấy tiền tiêu xài cá nhân (?!). Đến ngày 19-12-2012, bà Trinh tiếp tục có đơn kiện “xin ly hôn”, yêu cầu tòa không công nhận ông Trí là chồng đồng thời công nhận ba tài sản (nhà và đất) trị giá 600 triệu đồng là “tài sản riêng” của bà Trinh. Cụ thể: hai nhà gắn liền với hai lô đất 194m2 và 185m2 tại P. Chánh Nghĩa, TP. Thủ Dầu Một; lô đất 219,6m2 tại P.Phú Thọ, TP. Thủ Dầu Một. Cả ba tài sản trên do bà Trinh đứng tên.
Chủ nợ Phan Thị Lan xác định: “Vợ chồng tôi đã có đơn ngăn chặn kê biên để THA cả ba tài sản mà bà Trinh yêu cầu. Ngoài ra, chúng tôi cũng có đơn đề nghị ngăn chặn quyền sử dụng 286,2m2 đất tại P. Chánh Nghĩa, TP. Thủ Dầu Một do Vũ Hữu Trí đứng tên. Cả bốn tài sản trên chưa cầm cố, thế chấp. Mới nhất là đơn đề nghị kê biên căn nhà và đất số 359 Đại lộ Bình Dương. Thật khó tin, đang nợ ngập đầu thì bà Trinh lại kiện ly hôn và phân chia tài sản, trong đó bao gồm tài sản đã thế chấp vay ngân hàng”.
Trong văn bản số 302/TB-CTHA ngày 27-3-2013, Cục THA dân sự tỉnh Bình Dương đề nghị TAND TP. Thủ Dầu Một khi giải quyết các yêu cầu của bà Trinh - ông Trí đối với bốn tài sản chưa thế chấp nêu trên thì thông báo cho Cục THA biết để có cơ sở xử lý theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên được THA là vợ chồng bà Lan...
II- CÁC THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Thanh niên Online có bài Nạo vét sông Thị Vải: Sự mờ ám kinh tởm. Bài báo phản ánh: Sau gần 2 tháng nhập vai ngư dân, PV Thanh Niên phát hiện một hoạt động nạo vét bùn đầy mờ ám trên sông Thị Vải (đoạn Cái Mép - Thị Vải)...
Sông Thị Vải là sông cảng nước sâu quan trọng, thu hút nhiều tàu lớn nước ngoài cập cảng. Dọc sông Thị Vải tính từ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tới Đồng Nai có trên 20 cảng quốc tế. Trước Tết Nguyên đán Quý Tỵ, một số người dân làm nghề đánh bắt cá ở dòng sông này gọi điện tố cáo với PV Thanh Niên: Ở đây họ nạo vét bờ sông bên này, sau đó vận chuyển bùn thải sang bên kia sông xả hết rồi lại quay về làm tiếp, cứ hết ngày này qua ngày khác, làm như vậy chẳng khác gì họ đang lấp sông Thị Vải…
PV Thanh Niên đã liên lạc với người dân đánh cá, tìm hiểu kỹ thông tin mà họ cung cấp, rồi suốt 2 tháng liên tục vào vai ngư dân, người thu mua cá để đưa vụ việc ra ánh sáng.
Nhận thấy việc làm mờ ám của một số đơn vị thi công đang thực hiện việc nạo vét ở khu vực cảng Posco, với quyết tâm đưa ra ánh sáng hoạt động mờ ám này, suốt một tuần liền PV Thanh Niên đã khảo sát, nghiên cứu cách thức hoạt động của các sà lan, pôn tông có cách làm ăn "kỳ lạ" này.
Có thể hình dung khu vực hoạt động cụ thể của một số đơn vị đang thi công nạo vét bùn thải như sau: từ cảng Cái Mép đi ngược vào cảng Posco, đoạn sông này rộng khoảng 700 m và có hai dãy phao rõ rệt để dẫn luồng tàu vào, ra suốt dòng sông Thị Vải. Phao xanh bên tay phải, phao đỏ bên tay trái. Các sà lan và pôn tông cùng cạp múc bùn hoạt động từ bờ sông khu cảng Posco đến sát ranh của dãy phao xanh (từ phao xanh số 33 tới gần phao xanh số 37, khối lượng nạo vét hàng triệu khối bùn). Khu vực tập kết các sà lan, pôn tông đầy ắp bùn thải được xác định là bên kia sông, từ dãy phao đỏ đến bờ sông đối diện (từ phao đỏ 38 - 42, gần đối diện với khu vực nạo vét của khu cảng Posco). Còn khu vực giữa dãy phao xanh và phao đỏ là đường đi dành cho các loại tàu bè qua lại.
Những ngày đầu PV làm chòi ở khu rừng đước đối diện khu cảng Posco, cách công trình nạo vét từ 500 đến 700 m để ghi hình. Những sà lan, pôn tông chuyên vận chuyển bùn thải được thiết kế theo kiểu “không đáy”, lúc muốn xả công nhân chỉ cần tháo chốt là toàn bộ bùn thải tự động xả xuống sông, chỉ trong tích tắc là cả ngàn tấn bùn chìm nghỉm xuống sông, sà lan, pôn tông dần dần nổi lên. Những hình ảnh PV ghi được cho thấy, sà lan hoặc pôn tông đang chìm (đầy bùn) nhưng qua bên kia bờ thì "bỗng dưng" nổi dần lên, sau đó được kéo về khu vực nạo vét để tiếp tục chất bùn lên. Có những đêm, camera của PV ghi nhận có chiếc pôn tông quay đầu được 3 chuyến.
Đáng chú ý, đêm nào cũng có 1 sà lan đầy bùn thải, chìm phần lớn thân xuống mặt nước không chạy qua bên kia sông như những sà lan, pôn tông khác, mà chỉ chạy dọc sông ra hướng cảng Cái Mép. Khi qua khỏi phao xanh số 33 sà lan vừa di chuyển vừa nổi dần lên và nổi phềnh hẳn trên mặt nước khi cách nơi nạo vét khoảng 200 m.
Có những đêm camera của PV ghi nhận được 9 chuyến (mỗi chuyến khoảng 1.000 tấn), lúc vận chuyển từ khu vực nạo vét đi thì chìm nghỉm dưới nước, sau khoảng 15 phút kéo qua bên kia sông thì pôn tông nổi phềnh hẳn lên mặt nước, lúc đó thợ máy đánh về khu vực nạo vét để tiếp tục hoạt động…
2. Báo Nhân dân điện tử có bài Ðẩy nhanh việc cải cách thủ tục hành chính. Bài báo phản ánh: Công tác cải cách thủ tục hành chính ở nước ta thời gian qua đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, đây mới chỉ là kết quả bước đầu. Ðề nghị các cấp chính quyền, cơ quan chức năng cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách thủ tục hành chính. Cần tích cực, chủ động loại bỏ những thủ tục, giấy tờ rườm rà, phiền phức.
Bạn đọc Vĩnh Linh (Kon Tum): Qua rà soát, thống kê, nhiều thủ tục hành chính bị bãi bỏ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong các giao dịch hành chính. Người dân và các đơn vị, doanh nghiệp mong mỏi các ngành, các cấp bằng cách này hay cách khác tiếp tục "đơn giản hóa" thủ tục hành chính. Tình trạng cán bộ, công chức cố tình "đẻ ra" các thủ tục, giấy tờ bất hợp lý diễn ra ở nhiều nơi. Cần tiến hành công khai, minh bạch, điện tử hóa việc giải quyết thủ tục hành chính. Hiện nay, nhiều khâu công việc vẫn sử dụng quá nhiều các loại biểu mẫu, tờ khai rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người dân và các doanh nghiệp, cản trở công cuộc cải cách thủ tục hành chính. Bất cứ ai từng đi làm các thủ tục hành chính ở bất cứ lĩnh vực nào đều có cảm nhận sự vất vả, khó nhọc, bởi quá nhiều giấy tờ, biểu mẫu cần kê khai, đóng dấu. Nội dung nhiều loại tờ khai, biểu mẫu lại liên tục thay đổi càng gây thêm sự bất cập, nhiêu khê. Ðiều này không những gây lãng phí thời gian, tiền bạc của Nhà nước, như khâu in ấn, hướng dẫn, tập huấn, hội nghị cho cán bộ, công chức mỗi lần thay đổi mẫu tờ khai mà còn khiến người dân và doanh nghiệp mất nhiều thời gian để kê khai.
Bạn đọc Hồ Xuân Lan (TP Hồ Chí Minh): Giờ đây, công nghệ thông tin phát triển vượt bậc góp phần hỗ trợ rất nhiều cho công cuộc cải cách thủ tục hành chính. Những thủ tục hành chính quan trọng được người dân quan tâm hầu hết đều được hướng dẫn chi tiết trên các trang thông tin điện tử của ngành hoặc địa phương. Nhiều thủ tục hành chính được giải quyết thông qua việc đăng ký và nhập dữ liệu qua mạng điện tử, như kê khai thuế, thanh toán qua tài khoản; các thông tin về hộ tịch, nhân thân cá nhân, chứng minh thư nhân dân bước đầu được lưu giữ trong hồ sơ điện tử. Nhiều thủ tục trước đây rất khó thực hiện thì nay được giao dịch qua đường bưu điện, như trả và cấp lại hộ chiếu. Ngày càng nhiều cơ quan, đơn vị cấp phát hồ sơ, biểu mẫu qua mạng máy tính, góp phần giúp người dân có thể dễ dàng hơn trong việc đăng ký thực hiện các thủ tục hành chính. Một số dịch vụ, như mua vé đi máy bay, tàu hỏa, đăng ký khám bệnh cũng được thực hiện thông qua điện thoại hoặc mạng điện tử.
Bạn đọc Vũ Lan Anh (Long An): Thủ tục hành chính có nhiều cải tiến, song nếu những người thực thi công việc không chủ động đổi mới thì người dân vẫn bị gây khó như thường. Ðơn cử, hiện nay, thủ tục chứng thực văn bản được chuyển giao về cấp xã, phường thực hiện, thay vì trước đây người dân cứ phải lên huyện, lên tỉnh để làm thủ tục sao văn bản, giấy tờ. Thế nhưng, cán bộ tư pháp, hộ tịch ở cấp xã, phường thường lấy lý do bận rộn để không hoàn thành việc chứng thực văn bản ngay trong ngày. Họ nhận hồ sơ rồi hẹn phải một, hai hôm, thậm chí ba, bốn hôm mới trả kết quả. Như vậy, người dân trước đây tuy vất vả đi xa đến phòng công chứng để sao giấy tờ, nhưng chịu khó chờ trong ngày là được giải quyết. Còn bây giờ, đi lại gần hơn, chỉ cần lên xã, phường nộp hồ sơ, nhưng thời gian trả kết quả kéo dài hơn. Nhiều thủ tục khác rườm rà, phức tạp, như đăng ký hồ sơ nhà đất, di sản thừa kế, hưởng chế độ bảo hiểm, hưu trí..