I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới Online có bài Việt Nam là thành viên của Hội nghị LaHay về tư pháp quốc tế. Đây là thông tin do Người phát ngôn của Bộ Tư pháp - Trần Tiến Dũng công bố với các cơ quan thông tấn báo chí ngày 24-4.
Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường thay mặt Chính phủ Việt Nam ký và trình văn bản xin gia nhập Hội nghị LaHay.
Tại phiên họp thứ 5, cuộc họp toàn thể các nước thành viên Hội nghị LaHay, Việt Nam đã được công nhận chính thức là thành viên đầy đủ thứ 73 của tổ chức này kể từ ngày 10-4-2013.
Kể từ thời điểm này, Việt Nam được tham gia quyết định chính sách, xây dựng các công ước hợp tác về các vấn đề tư pháp quốc tế; có quyền bỏ phiếu hằng năm trong Hội đồng Thường vụ. Đồng thời, được mời tham dự mọi hoạt động, phiên họp ngoại giao, ủy ban đặc biệt và nhận thông tin cập nhật về tất cả các công việc đang diễn ra tại Hội nghị LaHay.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Không có ngoại lệ khi xử lý người uống rượu, bia ngày làm việc. Bài báo đưa tin: Văn phòng Bộ Tư pháp phối hợp với Đoàn Thanh niên và Công đoàn Bộ sáng qua tổ chức Lễ phát động thực hiện Chỉ thị 02 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) ngành Tư pháp không sử dụng rượu, bia trong ngày làm việc.
Lễ phát động do Thứ trưởng Lê Hồng Sơn chủ trì với sự tham gia của Thủ trưởng các đơn vị, Trưởng các tổ chức đoàn thể thuộc Bộ, đại diện lãnh đạo Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.
Chỉ thị 02 được ban hành sẽ đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương lao động nên đã nhận được sự nhất trí, hưởng ứng của CBCCVC toàn ngành.
Phát động thực hiện Chỉ thị 02, Chánh văn phòng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng nhấn mạnh, chấp hành tốt kỷ luật, kỷ cương lao động, sử dụng hiệu quả thời gian làm việc là yêu cầu quan trọng để hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn, nhất là đối với CBCCVC ngành Tư pháp – những người làm công tác liên quan đến pháp luật. “Vì thế, Chỉ thị 02 được ban hành sẽ đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương lao động nên đã nhận được sự nhất trí, hưởng ứng của CBCCVC toàn ngành”, ông Trần Tiến Dũng khẳng định.
Trao đổi về các giải pháp để đảm bảo Chỉ thị 02 được thực hiện nghiêm túc và tinh thần Lễ phát động “có sức lan tỏa động viên quyết tâm chính trị trong Bộ và ngành Tư pháp thực hiện Chỉ thị 02, đảm bảo kỷ luật, kỷ cương lao động và hoàn thành tốt các nhiệm vụ”, đại diện các đơn vị và các đoàn thể thuộc Bộ đều nhất trí cho rằng “Chỉ thị này đi vào lòng người thì sẽ có sức lan tỏa, sức sống mãnh liệt” khiến mỗi CBCCVC tự giác thực hiện chứ không phải vì “sợ cắt thi đua”.
Nhưng trước hết, mỗi lãnh đạo, thủ trưởng các đơn vị, các tổ chức đoàn thể cần phải gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chú ý sử dụng và quản lý thời gian làm việc của bản thân và CBCCVC hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi phản ứng để rút kinh nghiệm cho việc thực hiện Chỉ thị 02 ngày càng có nhiều chuyển biến trên tinh thần tự giác của mỗi CBCCVC.
3. Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Kết quả trả lời thư bạn đọc qua đường dây nóng: Công văn số 315 ngày 12-4-2013 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ðác Lắc trả lời ông Thi Văn Sơn, ở thôn 3, xã Dang Cang (Krông Bông, Ðác Lắc) khiếu nại việc chậm thi hành hai bản án gây ảnh hưởng quyền lợi của gia đình ông. Nội dung chính công văn như sau: Về bản án hình sự sơ thẩm số 15 ngày 18-11-1999 của Tòa án Nhân dân huyện Krông Bông buộc ông Võ Trọng Cang, ở thôn 2, xã Dang Cang phải bồi thường cho ông Sơn 1.685.000 đồng, tính đến tháng 3-2004, việc này đã được thi hành xong hoàn toàn. Ðối với bản án hành chính sơ thẩm số 01 ngày 21-6-2012 của Tòa án Nhân dân huyện Krông Bông, ông Sơn phải gửi đơn yêu cầu thi hành án đến UBND huyện Krông Bông (bên phải thi hành án). Nếu sau 15 ngày mà UBND huyện không thi hành thì ông Sơn có quyền làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Bông đôn đốc thi hành án. Tuy nhiên, đến nay, Chi cục Thi hành án dân sự huyện chưa nhận được tài liệu liên quan chứng minh ông Sơn đã có đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ.
4. Báo Đầu tư Chứng khoán có bài Gần 1.000 vụ kiện được giải quyết qua trọng tài. Bài báo phản ánh: Nếu như một vụ kiện được giải quyết tại Tòa án phải trải qua nhiều cấp xét xử, kéo dài nhiều năm, thì với cơ chế giải quyết bằng trọng tài thương mại, về cơ bản, vụ kiện chỉ kéo dài khoảng 6 tháng.
Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), kể từ khi được thành lập vào năm 1993 đến nay, VIAC đã giải quyết gần 1.000 vụ kiện. Từ chỗ giải quyết 6 vụ kiện/năm, đến nay, VIAC thụ lý và giải quyết gần 100 vụ kiện/năm. Tranh chấp phổ biến nhất vẫn là hợp đồng mua bán, chiếm tới 70% tổng số vụ việc. Luật sư Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký VIAC cho biết, trong vài năm trở lại đây, thị trường bất động sản, xây dựng suy giảm mạnh, dẫn đến số vụ tranh chấp trong lĩnh vực này tăng vọt, tiếp đó là các tranh chấp trong lĩnh vực gia công, tài chính ngân hàng, dịch vụ… Tỷ lệ vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài chiếm tỷ lệ áp đảo trong số vụ đưa ra trọng tài thương mại phân xử, tới 71% so với tỷ lệ 29% vụ tranh chấp có yếu tố trong nước. Số lượng vụ kiện gia tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp và giá trị tranh chấp cũng lớn hơn.
Băn khoăn lớn nhất của cộng đồng DN hiện nay khi cân nhắc lựa chọn cơ quan tài phán là hiệu lực của phán quyết trọng tài cũng như hiệu lực trong khâu thi hành án. Nhiều DN vẫn e ngại phán quyết trọng tài có thể bị hủy bởi Tòa án, nếu một bên đương sự không đồng tình với phán quyết này. Tuy nhiên, điều này theo ông Phạm Tuấn Anh, Chánh tòa Kinh tế (TAND TP. Hà Nội) là không đáng ngại. Bởi theo quy định của luật pháp, đương sự có quyền đề nghị Tòa án hủy phán quyết của trọng tài, song Tòa án chỉ có quyền xem xét về mặt thủ tục tố tụng mà không có quyền xem xét nội dung của vụ án. Điều 68, Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định cụ thể về các trường hợp dẫn đến một phán quyết trọng tài bị hủy và các tòa án phải căn cứ vào đây để xem xét.
Về hiệu lực thi hành án, ông Lê Anh Tuấn, Phó vụ trưởng Vụ Nghiệp vụ 1, Vụ thi hành án dân sự (Tổng cục Thi hành án) nhấn mạnh, không có bất cứ sự phân biệt nào giữa việc thi hành phán quyết của trọng tài và bản án của tòa án. Ngoài quy định chuyên ngành trong Luật Thi hành án dân sự, thì Luật Trọng tài thương mại, nghị định hướng dẫn luật, nghị quyết Hội đồng thẩm phán… đã có quy định khá đầy đủ và chặt chẽ về cơ chế thi hành án và sự bình đẳng trong việc thi hành phán quyết trọng tài và bản án. Chưa kể, trong trường hợp đương sự có đơn đề nghị thi hành phán quyết trọng tài mà bên bị thi hành án không có tài sản thì cơ quan thi hành án sẽ trả lại đơn cho bên được thi hành án. Bên có quyền lợi, được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án bất cứ lúc nào, thậm chí là 5 – 10 năm sau, khi phát hiện bên phải thi hành án có tài sản.
5. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Phòng công chứng số 2 (Phú Quốc): Tiếp tay cho nữ siêu lừa ở đảo ngọc. Bài báo phản ánh: Bên cạnh việc đề nghị xem xét hành vi của Nguyễn Thị Lý (tự Lý áo đỏ, SN 1962, ngụ đường Nguyễn Trung Trực, TP.Rạch Giá, Kiên Giang), Viện kiểm sát nhân dân Phú Quốc đề nghị xem xét trách nhiệm Phòng công chứng số 2 (tại thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc) đã tiếp tay cho nữ siêu lừa ký hàng loạt hợp đồng chuyển nhượng vi phạm pháp luật.
Sau khi sập bẫy lừa của Nguyễn Thị Lý, Nguyễn Văn Khanh và Nguyễn Thị Kim Hà (em gái Lý), các nạn nhân đã đồng loạt làm đơn tố cáo. Bên cạnh việc xác định hành vi vi phạm pháp luật của Lý và đồng bọn, các cơ quan chức năng phát hiện Phòng công chứng số 2 đã ký hợp đồng công chứng vô nguyên tắc tạo điều kiện cho Lý chiếm đoạt tài sản của hàng loạt nạn nhân.
Trong vụ lừa đảo của Lý, Khanh và Hạnh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc làm rõ các dấu hiệu vi phạm pháp luật tại Phòng công chứng số 2 vì đã công chứng không đúng pháp luật. Gần một tháng phản ánh vụ nữ siêu lừa ở đảo ngọc, phóng viên quá đỗi ngạc nhiên trước sự thờ ơ của một số cơ quan bảo vệ pháp luật địa phương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang cho rằng vụ việc không có dấu hiệu hình sự, dù trước đó Công an huyện Phú Quốc có báo cáo khẳng định hành vi lừa đảo của Lý và đồng bọn xin ý kiến cơ quan cấp trên. Và thật lạ lùng, các nạn nhân cũng như các cơ quan chức năng huyện không nhận được văn bản trả lời chính thức từ Cơ quan cảnh sát điều tra CA tỉnh về hướng giải quyết vụ việc. Mặc khác, Viện kiểm sát nhân dân giám sát quá trình thực hiện tố tụng lại không khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp cần thiết mà chờ Cơ quan cảnh sát điều tra, đã làm mất lòng tin của người dân.
Trao đổi với phóng viên, một luật sư khẳng định: “Hành vi của Lý và đồng bọn đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quá rõ. Bằng chứng là một tài sản được Lý, Khanh chuyển nhượng cho nhiều người. Hai đối tượng trên nhận tiền xem như thực hiện thành công hành vi phạm tội. Cơ quan tố tụng không thực hiện đúng theo hồ sơ, có biểu hiện bỏ lọt tội phạm và làm sai lệch hồ sơ vụ án”. Một lần nữa, công luận yêu cầu lãnh đạo tỉnh Kiên Giang chỉ đạo, kiểm tra toàn bộ vụ việc nhằm xử lý đúng người đúng tội. Nếu không xử lý dứt điểm sẽ ảnh hưởng đến việc kêu gọi đầu tư vào Phú Quốc, bởi quyền lợi của nhà đầu tư không được bảo vệ; đối tượng vi phạm ung dung ngoài vòng pháp luật, thách thức dư luận.
6. Báo Thanh niên Online có bài Công chứng hợp đồng dỏm, nguyên công chứng viên lãnh 7 năm tù. Bài báo phản ánh: Sáng 24-4, TAND TP.HCM tuyên phạt Dương Ngọc Phượng (35 tuổi, người chuyên cho vay lãi) 18 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Phan Thanh Vân (nguyên công chứng viên Phòng công chứng số 2 TP.HCM) 7 năm tù về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Liên quan vụ án này, tòa cũng tuyên xử hai cán bộ Ngân hàng TMCP Nam Á - chi nhánh Bình Tây là Hoàng Anh Tú (nguyên tổ trưởng kinh doanh) 6 năm tù và Lê Tấn Phú (nguyên cán bộ tín dụng) 5 năm tù về tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
7. Báo Đại đoàn kết có bài Trường dạy luật cũng vi phạm…luật. Bài báo phản ánh: Sau khi thanh tra tại Đại học Luật Hà Nội, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát hiện, trường này vi phạm trong công tác đào tạo hệ vừa học, vừa làm tại lớp Luật K4.
Theo đó, năm 2006, Đại học Luật Hà Nội được Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao 1.300 chỉ tiêu đào tạo tại chức hệ đại học. Trên cơ sở văn bản xin mở lớp tại chức dài hạn của Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Đại học Luật Hà Nội đã gửi văn bản tới Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, trong khi Bộ chưa có văn bản trả lời, thì Đại học Luật Hà Nội đã liên kết mở lớp Luật K4. Chính vì việc, mở lớp Luật K4 khi chưa có văn bản đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nên không được cấp phôi bằng. Do đó, trường này đã sử dụng phôi bằng dư thừa từ những lớp khác để cấp cho sinh viên khi tốt nghiệp. Thanh tra Bộ Tư pháp đã xác định, việc Đại học Luật Hà Nội mở lớp Luật K4 khi chưa có văn bản đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo là vi phạm về nguyên tắc chung được quy định tại tiểu mục 3, mục I và tiểu mục 2, Mục III của Thông tư số 20, ngày 14-11-1994 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn mở và quản lý các lớp đào tạo không tập trung ở bậc đại học và trung học chuyên nghiệp.
Tiếp đến, ngày 5-12-2006, Hiệu trưởng Trường đại học Luật Hà Nội đã ký quyết định cho phép sinh viên Nghiêm Xuân Nam lớp Luật (khóa 3) được chuyển về học lớp Luật K4. Tại thời điểm sinh viên Nam chuyển sang thì khi đó lớp đã học được 4 môn. Theo Thanh tra Bộ Tư pháp, chương trình đào tạo giai đoạn năm 2006-2011 của lớp Luật K4 thực hiện việc đào tạo theo niên chế, chưa áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ. Việc cho phép sinh viên chuyển lớp chỉ áp dụng đối với sinh viên khóa trước xuống học khóa sau hoặc sinh viên lưu ban từ khóa trên xuống khóa dưới. Trong khi đó, sinh viên Nam mới trúng tuyển đầu vào khóa 3, nhưng Đại học Luật Hà Nội lại cho phép chuyển lên lớp K4 sau khi lớp đã khai giảng được hơn 3 tháng và lớp đã học xong 4 môn là không phù hợp. Thanh tra Bộ Tư pháp xác định, trách nhiệm này là của Hiệu trưởng Trường đại học Luật Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Tuyển sinh hệ vừa học, vừa làm giai đoạn năm 2006 và trách nhiệm tham mưu của Trưởng Khoa tại chức cùng giai đoạn.
Thanh tra Bộ Tư pháp đã kiến nghị Bộ Tư pháp kiểm điểm trách nhiệm của Ban giám hiệu Trường đại học Luật Hà Nội vì đã để xảy ra những vi phạm, thiếu sót, đồng thời yêu cầu Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội tiến hành rà soát toàn diện về công tác đào tạo đại học hệ vừa học, vừa làm để báo cáo, đề xuất với lãnh đạo Bộ Tư pháp về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp trong công tác quản lý và hoạt động đào tạo hệ đại học vừa học vừa làm hiện nay của nhà trường.
8. Báo Hà Nội mới Online có bài Nợ đọng bảo hiểm xã hội: Đã đến lúc xử lý hình sự. Bài báo phản ánh: Trước thực trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội (BHXH) ngày càng gia tăng, mới đây, Bộ LĐ-TB&XH đã gửi công văn tới Bộ Tư pháp đề nghị xem xét các quy định pháp lý để xử lý hình sự đối với hành vi nợ đọng tiền BHXH hiện nay.
Theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền, nợ đọng BHXH tăng cao, chủ yếu nằm ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (trên 40%), doanh nghiệp FDI là 14%. Theo bà Đỗ Thị Xuân Phương, Phó Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, năm 2013, các doanh nghiệp nợ đọng tiền bảo hiểm gia tăng và số nợ đã đạt mốc 10.000 tỷ đồng. Cụ thể, lũy kế đến hết tháng 2-2013, các doanh nghiệp, đơn vị trên cả nước nợ tiền đóng BHXH, bảo hiểm y tế lên tới gần 10.400 tỷ đồng. Trong đó, nợ BHXH chiếm gần 7.800 tỷ đồng, nợ bảo hiểm y tế hơn 2.600 tỷ đồng. Đặc biệt, hơn 50% đơn vị bảo hiểm rơi vào tình trạng có tỷ lệ nợ cao hơn mức bình quân cả nước. Chính vì số nợ quá lớn, nên Quỹ BHXH đang mất cân đối nghiêm trọng giữa thu và chi.
Từ thực tế này, có nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét nghiên cứu đưa việc xử lý nợ đọng bảo hiểm của doanh nghiệp từ dân sự sang hình sự nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của NLĐ. Tuy nhiên, theo các luật gia, việc xử lý hình sự những doanh nghiệp nợ đọng BHXH không dễ. Bởi nợ đọng tiền BHXH vốn là quan hệ pháp luật dân sự và nó cũng như các trường hợp nợ đọng khác. Nếu Bộ LĐ-TB&XH đề nghị xử lý hình sự đối với doanh nghiệp này thì các ngân hàng cũng có thể đề nghị xử lý hình sự đối với các doanh nghiệp, cá nhân nợ tiền vay ngân hàng; các cá nhân cho nợ cũng có quyền đề nghị xử lý hình sự đối với người vay nợ chây ì… Hơn nữa, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, hành vi nợ đọng tiền BHXH chưa được quy định là tội phạm nên cũng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với doanh nghiệp hay cá nhân nợ đọng tiền BHXH.
Việc Bộ LĐ-TB&XH gửi công văn tới Bộ Tư pháp đề nghị xem xét các quy định pháp lý để xử lý hình sự đối với hành vi nợ đọng tiền BHXH hiện nay là hoàn toàn hợp lý. Điều này phù hợp với việc dự thảo sửa đổi Luật BHXH 2007 đang hoàn tất việc lấy ý kiến để trình Quốc hội thông qua vào tháng 5-2013, với hy vọng sẽ cải thiện việc thực hiện nghĩa vụ nộp bảo hiểm của doanh nghiệp. Nếu không quyết liệt với nợ đọng thì trong tình trạng thất nghiệp tăng cao, doanh nghiệp phá sản, số thu BHXH sụt giảm hiện nay, nguy cơ vỡ quỹ BHXH có thể xảy ra.
9. Báo Tuổi trẻ Online có bài Chú rể 14 tuổi, cô dâu 17 tuổi. Bài báo phản ánh: Gần đây, thông tin về các vụ tảo hôn ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện ngày càng nhiều. Phần lớn cô dâu chỉ mới 13-16 tuổi, có trường hợp chú rể mới 14 tuổi. Các đám cưới trẻ con này chỉ được chính quyền phát hiện khi “gạo đã nấu thành cơm”.
Điều đáng nói là trong khi hệ thống pháp luật ngày càng chặt chẽ nhưng tình trạng tảo hôn ngày càng nhiều, ở cả thành phố, thị trấn chứ không phải chỉ có ở vùng sâu.
Ngày 4-4, Đảng ủy, UBND và các đoàn thể xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng (Long An) phải bỏ việc chia nhau xuống đám cưới của cô dâu N.T.H.N. mới 16 tuổi để vận động gia đình ngừng ngay đám cưới trái luật này. Ông Trần Thanh Dũng, phó bí thư Đảng ủy xã Hưng Điền B, cho biết “chồng” của N. 23 tuổi, là con của một bí thư chi bộ ấp. Trước đó cả hai dắt nhau đến UBND xã đăng ký kết hôn. Cán bộ tư pháp không đồng ý và báo lãnh đạo biết để tiến hành ngăn chặn. Vậy mà hai bên gia đình vẫn gửi thiệp mời và tổ chức tiệc cưới. Giải thích với chính quyền, cha mẹ của cặp vợ chồng này hồn nhiên: “Tụi nó yêu nhau quá, ngăn không được đành phải chấp nhận”.
Cũng theo ông Dũng, trước đó tại xã này xảy ra một vụ tảo hôn. Chú rể mới 14 tuổi, còn cô dâu 17 tuổi. Sau khi làm đám cưới xong chính quyền mới hay. Khi xuống nhà tìm hiểu thì hai vợ chồng này kịp dắt nhau trốn đi nơi khác sinh sống và không trở về xã nữa.
Tại khu phố 1, thị trấn Chợ Lách, huyện Chợ Lách (tỉnh Bến Tre), chính quyền địa phương cũng vừa kịp thời ngăn chặn một cuộc hôn nhân trái quy định khi cô dâu chỉ mới 17 tuổi. Em N.T.K.Q. vừa học xong lớp 7 đã xin gia đình lên TP.HCM làm thuê. Tháng 1-2013, Q. đưa gia đình người yêu về gặp mặt cha mẹ rồi... đồng ý cưới. Sau khi bị ngăn chặn đám cưới, cả hai đến TP.HCM ở luôn, sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Bà N.T.K.N. (mẹ Q.) nói: “Từ ngày hai bên gặp mặt tới nay hai đứa lại trở lên thành phố làm việc, tui cũng không rành con rể làm nghề gì, sống ở đâu nữa. Thiệt là khổ hết sức”.
Bà Lý Ngọc Lan, trưởng Ban tuyên giáo Hội LHPN tỉnh Tiền Giang, cho biết không có cơ quan nào thống kê chính xác số vụ tảo hôn. “Tuy nhiên, tôi biết ở huyện nào cũng có vài trường hợp. Tình trạng tảo hôn ngày càng nhiều, đáng báo động, nhưng làm gì để ngăn chặn thì vô cùng khó” - bà Lan nói.
Theo bà Lan, lý do khó ngăn chặn là vì mạnh ai nấy giấu. Cha mẹ các em đương nhiên là giấu vì sợ mang tiếng. Các đoàn thể, chính quyền địa phương biết cũng chỉ vận động, tuyên truyền, nói ba điều bốn chuyện rồi để im luôn. Ngay cả Hội LHPN được pháp luật quy định có quyền đề nghị hủy hôn, nhưng thực tế cũng không làm được do gia đình hai bên các em phản ứng, do vướng tổ chức Đảng địa phương và các mối quan hệ chằng chịt khác.
Thượng tá Nguyễn Văn Tảo, trưởng Công an huyện Cai Lậy (nơi xảy ra vụ gả con gái mới 13 tuổi ở xã Bình Phú mới đây), cho biết mấy năm qua công an huyện không nhận được đơn tố cáo nào về việc lấy nhau trước tuổi thành niên. Ngay cả vụ ở xã Bình Phú cũng không có ai tố cáo mà công an nắm được thông tin từ người dân. “Trong thực tế có nhưng gia đình giấu thì không thể xử lý được” - ông Tảo nói.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước. Bài báo đưa tin: Chiều 24/4, Ngân hàng Nhà nước đã ra Thông cáo báo chí phản hồi về bài báo đăng trên báo Thanh niên ngày 24/4.
Dưới đây là nội dung Thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước:
Ngày 24/4/2013 Báo Thanh niên có đăng bài báo “Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: "Rửa" vàng bằng cơ chế?” (sau đây gọi tắt là “Bài báo”). Bài báo dẫn số liệu của Hiệp hội Vàng thế giới về tổng nhu cầu vàng của Việt Nam trong hai năm 2011 và 2012 để phân tích và đưa ra nhận định “hàng tỷ USD nhập lậu vàng” và “các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào Việt Nam” và “hợp pháp hóa vàng lậu”. Về các nội dung của Bài báo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có ý kiến chính thức như sau:
1. Về số liệu vàng nhập lậu: Theo thông tin chính thức trên trang tin điện tử của Hội đồng Vàng Thế giới, hàng năm, Hội đồng Vàng Thế giới tổ chức các cuộc khảo sát tại các quốc gia để gặp gỡ các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các chuyên gia để trao đổi, đưa ra các nhận định về nhu cầu vàng của các quốc gia. Trên cơ sở đó, Hội đồng đưa ra con số ước tính về nhu cầu vàng của người tiêu dùng tại các quốc gia, bao gồm nhu cầu vàng trang sức, nhu cầu vàng đầu tư. Như vậy, số liệu về nhu cầu vàng của Việt Nam nêu trong báo cáo thường niên của Hội đồng Vàng Thế giới là con số dự tính nhu cầu vàng của Việt Nam; hoàn toàn không phải là số liệu về số lượng vàng nhập khẩu hàng năm của Việt Nam.
Do vậy, việc Bài báo sử dụng số liệu về nhu cầu vàng năm 2011, 2012 của người tiêu dùng Việt Nam do Hội đồng vàng thế giới ước tính để cho rằng đây là số lượng vàng nhập lậu vào Việt Nam là sự nhầm lẫn nghiêm trọng, làm sai lệch bản chất của số liệu trích dẫn.
Hơn nữa, từ cách hiểu sai lệch như trên, tác giả bài báo đã cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông điệp sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, NHNN, tạo ra sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng và các nỗ lực phối hợp phòng, chống buôn lậu của các cơ quan Nhà nước.
2. Về chủ trương tạm xuất, tái nhập:
Như Ngân hàng Nhà nước đã giải thích, làm rõ nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng, theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, Nhà nước công nhận quyền nắm giữ, mua, bán tất cả các thương hiệu vàng miếng hợp pháp của người dân, không có sự phân biệt đối xử và không hạn chế lưu thông các thương hiệu vàng miếng khác SJC. Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC. Để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi vàng miếng khác SJC sang vàng miếng SJC của người dân, TCTD và doanh nghiệp, NHNN đã ban hành quy định chặt chẽ để thực hiện việc chuyển đổi vàng miếng thương hiệu khác sang vàng miếng SJC. Tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ kiểm định, chuyển đổi, NHNN đã cho phép thực hiện việc tạm xuất vàng miếng phi SJC và tái nhập vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế với khối lượng xuất khẩu bằng khối lượng nhập khẩu. Việc thực hiện chủ trương này nhằm đẩy nhanh tiến độ kiểm định, gia công vàng miếng phi SJC thành vàng SJC theo đúng quy định của pháp luật và NHNN đã báo cáo Chính phủ trước khi thực hiện. Toàn bộ khối lượng vàng phi SJC tạm xuất là vàng miếng đang được lưu thông hợp pháp trên thị trường và chủ yếu thuộc sở hữu hợp pháp của người dân đang gửi tại TCTD. Quy trình tạm xuất, tái nhập được NHNN tổ chức thực hiện, giám sát chặt chẽ, có kiểm tra tồn quỹ trước khi xuất khẩu. Việc tạm xuất, tái nhập đã hoàn thành vào ngày 31/03/2013. Do vậy, việc bài báo cho rằng chủ trương tạm xuất, tái nhập này nhằm hợp pháp hóa vàng nhập lậu là hoàn toàn không có căn cứ, cố ý bóp méo chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, thời gian vừa qua, NHNN đã tổ chức bán vàng miếng can thiệp thị trường vàng theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ. Nguồn vàng bán can thiệp của NHNN là Dự trữ ngoại hối Nhà nước, không liên quan đến vàng tạm xuất, tái nhập.
Do vậy, việc Bài báo cố tình suy diễn cho rằng nguồn vàng NHNN bán can thiệp là vàng tạm xuất, tái nhập là hoàn toàn không chính xác, không có căn cứ. Ngân hàng Nhà nước khẳng định trong thời gian vừa qua Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện công tác quản lý thị trường vàng theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Thủ tướng khen 5 tỉnh, phê 3 tỉnh về công tác quản lý pháo. Bài báo đưa tin: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biểu dương 5 địa phương đã triển khai quyết liệt, có hiệu quả các biện pháp ngăn chặn vi phạm về pháo; đồng thời phê bình 3 tỉnh để xảy ra tình trạng đốt pháo trái phép trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013.
5 địa phương được Thủ tướng biểu dương đã thực hiện tốt công tác quản lý, sử dụng pháo trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013 là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Bình, Hà Nội, Đà Nẵng.
Thủ tướng phê bình và yêu cầu Chủ tịch UBND 3 tỉnh Hải Dương, Lào Cai, Hà Giang kiểm điểm, rút kinh nghiệm và có hình thức xử lý nghiêm đối với các đơn vị, cá nhân buông lỏng chỉ đạo, để xảy ra tình trạng đốt pháo trái phép trong dịp Tết Nguyên đán Quý Tỵ 2013.