Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 12 năm 2009

28/12/2009
Trong buổi sáng ngày 28/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Sáng 27/12 tại xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đến dự và phát lệnh khởi công Dự án xây dựng luồng tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu.
Đây là dự án trọng điểm quốc gia với mục tiêu xây dựng luồng tàu biển ổn định cho tàu trọng tải 10.000 tấn đầy tải và tàu 20.000 tấn có giảm tải ra vào các các trên sông Hậu. Dự án này hoàn thành, góp phần tích cực thúc đẩy giao thương hàng hóa xuất nhập khẩu và phát triển kinh tế xã hội của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án đầu tư xây dựng luồng tàu biển cho tàu lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố tỉnh Trà Vinh là một trong những dự án lớn, đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Với sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực hàng hải, công ty tư vấn quốc tế và trên cơ sở đánh giá, nghiên cứu kỹ lưỡng nhiều năm qua, dự án đầu tư xây dựng luồng tàu biển cho tàu lớn vào sông Hậu ra đến cửa biển có chiều dài 40 km gồm các hạng mục kè bảo vệ hai bên bờ kênh, đê chắn sóng...
Tổng khối lượng nạo vét để đào kênh mới và cải tạo các đoạn kênh hiên hữu tới độ cao - 6,5m hệ hải đồ khoảng 28 triệu m3. Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 5 nghìn tỷ đồng và mục tiêu sẽ hoàn thành sau 36 tháng thi công.
Báo cũng phản ánh:Suốt những năm qua, công tác Dân số gần như chỉ tập trung vào việc vận động kế hoạch hóa gia đình. Chất lượng dân số đã bị lãng quên. Những năm vừa qua, ngành dân số đã có nhiều cố gắng để giảm tỷ lệ sinh và cho đến thời điểm này, dân số nước ta đang ở giai đoạn cơ cấu dân số vàng, hay nói một cách ví von, nay là giai đoạn “cửa sổ cơ hội” để phát triển kinh tế xã hội. Nhưng chất lượng dân số Việt Nam lại đang có vấn đề đáng lưu tâm. Người Việt Nam đang phải mất quá nhiều năm trong cuộc đời để chữa trị bệnh tật, tỷ lệ chết ở trẻ em cao, tuổi thọ bình quân khỏe mạnh thấp. Bài toán khó đang đặt ra cho ngành dân số là làm sao để nâng cao chất lượng dân số.
Tiến sĩ Nguyễn Thiện Trưởng, Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số gia đình và trẻ em, Chủ tịch Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, người đã gắn bó với ngành dân số mấy chục năm cho rằng, con đường trước mắt của ngành dân số vẫn còn đầy gian nan. Trong khi một số nước như Nhật Bản, Đức đang khuyến khích người dân sinh con, còn nước ta, những năm qua, ngành dân số phải tìm mọi cách để giảm mức sinh. Thành quả đạt được là tỷ lệ tăng dân số bình quân năm từ năm 1999 và 2009 là 1,2%/năm, giảm mạnh so với thời kỳ 10 năm trước. Tuy nhiên, nhìn vào dân số cả nước thì sau 10 năm, theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở công bố trong năm nay, dân số nước ta tăng thêm tới gần 9,5 triệu người. Suốt những năm qua, công tác Dân số gần như chỉ tập trung vào việc vận động kế hoạch hóa gia đình. Chất lượng dân số đã bị lãng quên. Hay có thể hiểu, ngành dân số đã phải mất quá nhiều công sức vào số lượng nên không còn quan tâm được đến chất lượng con người. Chất lượng dân số ở đây bao gồm cả thể lực, trí tuệ, tinh thần, quy mô dân số, cơ cấu dân số. Tại thời điểm này, chất lượng dân số đang có vấn đề.
Một thống kê nhỏ về chất lượng dân số hiện nay: Tỷ lệ dân số bị thiểu năng về thể lực, trí tuệ chiếm tới 1,5% dân số, trong đó, trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền chiếm khoảng 1,5% - 3% và xu hướng gia tăng. Nguyên nhân tỷ lệ dị tật bẩm sinh của trẻ ngày càng tăng là do tàn dư của các cuộc chiến tranh, do vùng sâu, vùng xa, nhiều trẻ được sinh ra, lớn lên tự nhiên như cây cỏ. Trong suốt những năm tháng tuổi thơ, các em không được hưởng một chế độ dinh dưỡng hợp lý, không một viên thuốc khi đau ốm. Đó là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi của cả nước cao gần 1,8%o, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tới hơn 20%.
Tuổi thọ bình quân của nước ta đạt mức khá cao so với điều kiện kinh tế nước ta. Tuy nhiên, đáng lo ngại là tuổi thọ bình quân khỏe mạnh thấp, chỉ đạt 60,2 tuổi, xếp thứ 116 trong 174 nước trên thế giới. Tính trung bình, trong 72 năm sống, mỗi người mất tới 12 năm ốm đau, bệnh tật. Một số dịch bệnh vẫn còn xảy ra. Tình trạng bệnh tật, nhất là bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV là rất đáng lo ngại, trong đó, ước tính phụ nữ chiếm 1/3 tổng số người nhiễm HIV.
Chất lượng dân số thấp đang là yếu tố cản trở sự phát triển chung và đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu về nhiều mặt. Việc cải thiện chất lượng dân số không chỉ là trách nhiệm riêng ngành dân số mà cần sự chung tay của toàn xã hội. Ngành y tế cần phải sàng lọc và chẩn đoán trước sinh, sàng lọc sơ sinh. Tuy nhiên, hiện nay, ngành y tế nước ta mới chỉ sàng lọc được hai bệnh, thậm chí còn nhiều địa phương chưa có thiết bị sàng lọc sơ sinh, dẫn đến tỷ lệ trẻ dị tật còn cao. Trong khi đó, Hàn Quốc đã sàng lọc được 48 bệnh khác nhau, đạt 99%. Đây là bài toán nan giải của ngành dân số trong việc cải thiện chất lượng dân số Việt Nam trong thời gian tới. Chúng ta đã phải mất một thời gian dài để giảm tỷ lệ sinh. Giờ đây, khi mức độ gia tăng dân số đã nằm trong giới hạn cho phép, chúng ta phải bắt đầu chiến dịch nâng cao chất lượng dân số, một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Báo điện tử Dân trí phản ánh: Chiều 25/12, một Đại lễ cầu siêu tưởng niệm các liệt sỹ và người dân bị thảm sát bằng bom B52 vào tháng 12/1972 được tổ chức tại chùa Bà Đá, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 37 năm chiến thắng Điện Biên Phủ trên không. Đại lễ cầu siêu được Ủy ban hòa bình TP Hà Nội phối hợp cùng Thành hội phật giáo Hà Nội tổ chức với khoảng 500 người tham dự.
Tham dự Đại lễ lần này còn có ông Võ Đình Cự - Phó chủ tịch Hội đồng hoà bình Thế giới - Chủ tịch Uỷ ban hoà bình Việt Nam; ông Ngô Tiến Dung - Phó chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội cùng đại diện lãnh đạo các cấp, ngành đoàn thể TP Hà Nội.
Tại đại lễ, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm - Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Hoằng pháp Trung ương đã đọc văn tế tưởng niệm khẳng định công lao của các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước. Ngay sau lễ cầu siêu theo nghi thức phật giáo, các đại biểu và tăng ni phật tử đã tham dự lễ dâng hương.
3. Báo Lao động phản ánh: Có thể nói chính sách công nghiệp điện tử, chính sách công nghiệp ôtô của Việt Nam đã hoàn toàn thất bại. Có rất nhiều nguyên nhân nhưng bài này chỉ tập trung vào một nguyên nhân quan trọng (theo tôi, có lẽ là quan trọng nhất) là tư duy cũ kỹ của những người soạn thảo và thông qua chính sách công nghiệp.
Tình cờ, tôi biết khá rõ mấy vị này trong ngành điện tử và cũng quen vài người trong ngành ôtô. Thực sự chúng ta có quá nhiều "kế hoạch tổng thể", "đề án", "chính sách", "tầm nhìn đến...", may thay đa số đã "được xếp xó" nên chỉ gây tác hại nhỏ (tốn tiền và công sức xây dựng, để lại dấu ấn trong đầu những người soạn thảo nếu họ vẫn tại vị, v.v...). Có một số chính sách công nghiệp hay kế hoạch tổng thể đã vượt qua được giai đoạn "khó khăn ban đầu" và "đã được chấp nhận" với sự hỗ trợ về thuế, vốn vay,  v.v..., hay đầu tư trực tiếp của Nhà nước, song đã mang lại kết quả không như mong muốn. Phải nói ngay rất nhiều nước cũng có các chính sách công nghiệp thất bại. Nhật Bản và Hàn Quốc đã có những chính sách công nghiệp khá thành công nhưng nhiều nước đang phát triển thì không. Rất nhiều nước chẳng hề có chính sách công nghiệp thành văn.
Sự phát triển công nghiệp chủ yếu là chuyện của các doanh nghiệp, bằng chính sách của mình nhà nước có thể tạo điều kiện thêm để cho ngành nào đó đi theo hướng mà nhà nước muốn. Nói như thế, có nghĩa là vai trò của nhà nước có thể không phải là quyết định và có thể có nhiều hệ quả (cả hại hay lợi) không lường trước.
Chính sách công nghiệp hợp với thời cuộc, hợp với thị trường, hợp với lợi ích của các doanh nghiệp thì cơ hội thành công cao, còn nếu ngược lại thì chắc chắn thất bại. Đáng tiếc, các chính sách công nghiệp của ta không hoàn toàn như vậy, còn quá tham vọng, còn quá thiên về phản ánh những mong mỏi chủ quan của các nhà làm chính sách và có thể còn bị "các nhóm lợi ích" tác động mạnh. Đã có một sự thay đổi vô cùng to lớn trong sản xuất công nghiệp thời toàn cầu hoá: sự xuất hiện các chuỗi cung ứng to lớn, phức tạp của các nhà sản xuất. Trong sản xuất lớn, hàng loạt không nhà sản xuất nào đi làm từ A tới Z cả. Để sản xuất ra một máy tính cần hàng trăm nhà cung cấp các bộ phận, để sản xuất một chiếc ôtô có khi cần hàng ngàn nhà cung cấp khác nhau. Dẫu sản xuất một bộ phận, cũng phải lẻn được vào chuỗi cung toàn cầu và cung cấp cho thị trường toàn thế giới, hay chí ít thị trường khu vực hay thị trường trong nước nếu nó đủ lớn. Thí dụ, thị trường ôtô Việt Nam, nếu tính với gần 100 triệu người, thì có tiềm năng lớn, nhưng so với sức mua của dân chúng thì vẫn là thị trường nhỏ.
Chính vì vậy đòi hỏi "nội địa hoá" 30-40% là khó khả thi. Lẽ ra chính sách công nghiệp phải khuyến khích mạnh mẽ bất cứ ai sản xuất linh phụ kiện nào cũng được, miễn là len được vào chuỗi cung toàn cầu nào đó, thí dụ khuyến khích mạnh việc xuất khẩu. Còn các chính sách của ta lại có vẻ quá tham vọng, muốn làm từ linh kiện đến sản phẩm cuối cùng (như các chiến lược công nghiệp điện tử một thời) hay lại thiên về "thay thế nhập khẩu" (như công nghiệp ôtô) cho nên việc sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường trong nước.
Giả như có một nhà sản xuất phụ kiện ôtô mà chỉ để phục vụ cho việc lắp ráp vài nghìn (hay vài chục nghìn) ôtô, thì hỏi liệu họ có sống nổi hay không? Ngược lại, thị trường xe máy Việt Nam lại đủ lớn để có thể yêu cầu tỉ lệ nội địa hoá cao nhưng dường như chưa có chính sách thúc đẩy việc đó. Đấy là một lý do vì sao công nghiệp phụ trợ ôtô của chúng ta ì ạch. Hãy xem Canon, Fujitsu, họ sản xuất chủ yếu cho xuất khẩu cho thị trường thế giới, hay cho bản thân chuỗi cung của họ. Còn sản xuất ôtô ở Việt Nam có xuất được bao nhiêu? Do tư duy còn cũ, còn chưa hiểu tình hình đã thay đổi từ lâu nên hơi tham vọng, do học cách làm từ giữa thế kỷ trước của một vài nước nên chính sách công nghiệp không hợp thời, không hợp với doanh nghiệp và sự thất bại là không khó hiểu. Đáng tiếc những cảnh báo hay góp ý của các chuyên gia độc lập, thậm chí của các chuyên gia UNIDO, từ gần 20 năm trước về những điều tương tự đã không được lắng nghe.
Bộ Công thương đã trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất dòng xe đa dụng 6-9 chỗ ngồi (dung tích động cơ nhỏ hơn 1,5l) được hưởng ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích dòng xe này phát triển. Theo đó, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ còn 30% (các xe khác là 45-60%). Phí trước bạ sẽ là 2%, thuế VAT 5% (xe khác là 10%)... Theo tôi đề xuất như vậy cũng vẫn theo cách tư duy cũ và cũng rất có thể có sự tác động của "nhóm lợi ích" nào đó. Với cách tư duy nói trên thì các chính sách công nghiệp khó có thể thành công.
4. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Nỗi lo thiếu thanh khoản của các ngân hàng đã được nói đến nhiều trong thời gian gần đây. Câu chuyện này ngàycàng được quan tâm. Nhất là sau cảnh báo của Thủ tướng về khả năng thanh khoản của các ngân hàng khi nguồn vốn vào thấp hơn vốn cho vay ra.
Phòng giao dịch của Vietcombank mấy ngày gần đây, lãi suất huy động tất cả các kỳ hạn đã được đẩy lên tối đa 10,49%. Đây là mức mới được điều chỉnh, một số phòng giao dịch còn thông báo bằng những chữ số viết tay. Đây không phải là những trường hợp cá biệt mà trái lại, lại là tình trạng phổ biến trên bảng lãi suất của nhiều ngân hàng khác. Điều này gợi nhớ đến thực tế thiếu vốn, "khủng hoảng" thanh khoản buộc phải đẩy lãi suất huy động vốn lên cao như hồi đầu năm 2008.
Trong một diễn biến khác, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng đang có xu hướng tăng lên khá mạnh trong tuần qua. Thông báo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, mức tăng lãi suất dao động của các kỳ hạn từ 0,24% đến 1,08% một năm, trong đó lãi suất bình quân kỳ hạn 6 tháng có mức tăng lớn nhất. Lãi suất cho vay thấp nhất là 5% và cao nhất là 12% một năm (không tính lãi suất không kỳ hạn).
Theo một chuyên gia ngân hàng thì đây cũng là một biểu hiện đáng chú ý. Thông thường, lãi suất liên ngân hàng chỉ tương đương hoặc cao hơn không nhiều lãi suất tái cấp vốn. Song, mức lãi suất hiện nay đã cao hơn nhiều chứng tỏ các ngân hàng đang có nhu cầu tìm kiếm nguồn tiền lớn hơn. Công bố mới đây của Ngân hàng Nhà nước cho biết, dư nợ tín dụng của năm 2008 đã lên đến 37,73%, trong khi đó, huy động vốn tăng 28,70%. Mất cân đối đầu vào và đầu ra là thực tế khiến các ngân hàng khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn. Lãnh đạo Ngân hàng Vietinbank cho biết, năm 2009 huy động vốn tăng 25% nhưng dư nợ tăng 35%. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, đối với những ngân hàng lớn thì điều này là không đáng lo ngại vì đây là những ngân hàng có tài sản lớn, nắm trong tay nhiều trái phiếu và giấy tờ có khả năng thanh toán khác để hoàn toàn chuyển hóa thành tiền thông qua mua bán trên thị trường.
Nhưng mọi việc sẽ khó khăn hơn đối với những ngân hàng nhỏ, nhất là khi tăng trưởng tín dụng của không ít ngân hàng đã lên trên cả 40%. Đây thực sự là vấn đề. Thậm chí, theo phản ánh của các ngân hàng, đã có thời điểm, sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản lên 8%, có một số ngân hàng đẩy lãi suất huy động lên đến 11-11,5%. Lãi suất vay qua đêm giữa các ngân hàng một vài ngày gần đây có khi đã đẩy lên đến 30%. Nếu đúng như phản ánh thì đã hình thành những bất ổn gây xáo động ngay trong hệ thống ngân hàng. Chính vì thế, Tổng giám đốc BIDV cho rằng, cần xử lý ngay những dấu hiệu này, không thể để một vài ngân hàng không bình thường mà kéo cả hệ thống vào hoạt động không bình thường.
Trong khi đó, trên thị trường, vài ngày gần đây lại xuất hiện những tin đồn: Ngân hàng Nhà nước đã liên tục bơm hàng chục ngàn tỷ đồng cho các ngân hàng trong những ngày qua để giải quyết tình hình thanh khoản. Mặc dù vậy, các chuyên gia Ngân hàng Nhà nước lý giải, việc bơm - hút tiền qua các nghiệp vụ ngân hàng là chuyện bình thường, những tin đồn như thế là không chính xác và có thể gây hậu quả xấu. Tuy nhiên, trong hội nghị ngành ngân hàng mới đây, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng đã cảnh báo các ngân hàng về vấn đề thanh khoản. Vì thế, dù đây mới chỉ là những biểu hiện lo lắng nhưng thực sự là một nguy cơ không thể xem thường.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo An Ninh Thủ đô có bài Khắc phục tình trạng các bản án tuyên không rõ ràng. Bài báo phản ánh: Một trong những khó khăn trong công tác thi hành án dân sự sau khi án có hiệu lực pháp luật là nội dung các bản án tuyên không rõ ràng. Tuy nhiên, so với năm 2008, trong năm 2009, số bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự đã giảm được một nửa, nhưng việc khắc phục vẫn chưa triệt để. Đây là một thiếu sót, khuyết điểm được nêu và kiểm điểm nghiêm túc tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân năm 2008, đồng thời Tòa án nhân dân các cấp cũng đã áp dụng các biện pháp quyết liệt như tự kiểm tra, thành lập các đoàn kiểm tra, tổ chức rút kinh nghiệm về công tác viết bản án, quyết định, ban hành các mẫu về bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, kiên quyết kháng nghị đối với các bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không khả thi….
TANDTC tiếp tục chỉ đạo toàn ngành nâng cao hơn nữa chất lượng của các bản án, quyết định, đồng thời chỉ đạo các tòa án phải phối hợp chặt chẽ hơn nữa với cơ quan thi hành án dân sự để kịp thời đính chính, giải thích những sai sót trong quyết định của bản án.
2. Báo Tiền phong có bài Hạn chế cầu thủ nhập tịch ra sân: VFF 'việt vị' nhưng... Bài báo phản ánh: VFF đã dỡ bỏ quyết định giới hạn việc cầu thủ nhập tịch, nhưng rõ ràng là trong thế bị động.
Với lập luận rằng chỉ hạn chế chứ không tước quyền hành nghề của các cầu thủ nhập tịch và để góp phần giúp bóng đá Việt Nam trước làn sóng ngoại nhập, tạo cơ hội ra sân cho cầu thủ trong nước nhiều hơn, chính VFF đã bị việt vị nặng khi mùa giải 2010 sắp bắt đầu. Bộ Tư pháp phản hồi “Nghị quyết 18-11” của VFF rằng, không phù hợp với qui định ở một số điều của Hiến pháp của Luật Quốc tịch, Luật Lao động và đặc biệt là của Luật Thể dục thể thao. Dù bị việt vị, nhưng không phải VFF hoàn toàn không có lý. Một hiện thực đang diễn ra là các đội bóng nhiều tiền đang chạy theo con đường nhập tịch cầu thủ để đội bóng mình mạnh hơn, trong lúc những CLB nghèo thì khó mà chạy đua được ở phi vụ này. Vấn đề cốt lõi là việc nhập tịch phải theo quy định của pháp luật Việt Nam (biết sử dụng tiếng Việt, am hiểu văn hóa VN, sinh sống tối thiểu tại VN 5 năm). Nếu sòng phẳng đem những quy định này ra đối chiếu thì thử hỏi trên cả tá cầu thủ ngoại mà các CLB giàu có bỏ tiền ra nhập tịch để phục vụ cho CLB của mình có bao nhiêu phần trăm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật? Đó là chưa kể luật nhấn mạnh trường hợp ngoại lệ chỉ dành cho các trường hợp có đóng góp đặc biệt cho xã hội VN.
Có thể VFF cần phải định hướng cho các CLB, làm sao hài hòa quyền lợi CLB với ĐTQG và rộng hơn là bóng đá VN. Lộ trình và định hướng cho các CLB phát triển bóng đá trẻ cũng rất cấp thiết. Nên chăng, VFF cần bắt buộc các CLB tổ chức giải trẻ như ở giải Ngoại hạng Anh đang làm. Và nên chăng, cần có hội thảo, nghiên cứu để đánh giá nghiêm túc thực chất lộ trình và các tiêu chuẩn nhập tịch cầu thủ ngoại mà tiêu chí trên hết là vì sự phát triển bóng đá VN.
Báo cũng có bài Siết quản lý sàn vàng có phạm luật?. Bài báo phản ánh: Cơn sốt giá vàng khiến Thủ tướng phải có ý kiến, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thừa nhận “không kiểm soát được các sàn vàng” và đang tính chuyện siết quản lý các sàn vàng.
Tôi cho việc siết quản lý hoạt động của các sàn vàng là đúng, nhưng chưa bàn chuyện nên quản lý như thế nào. Hai phương án đã được đưa ra: cấm hoạt động của các sàn vàng; hay nâng mức ký quỹ có thể lên đến trăm phần trăm và chỉ có các sàn thuộc các ngân hàng thương mại mới được hoạt động. Nhiều ý kiến cho rằng “cả hai phương án mà NHNN đưa ra đều vi phạm Nghị định 59/2006/NĐ-CP. Theo Nghị định này, hoạt động kinh doanh vàng nói chung, sàn giao dịch nói riêng không thuộc hàng hóa, dịch vụ cấm hoặc hạn chế kinh doanh”. Có đúng thế không? Phụ lục III của Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định “danh mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện”. Mục 2 của phụ lục này quy định “hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện không cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh”. Hàng hóa thứ 15 trong phụ lục là vàng và cơ quan quản lý ngành là NHNN. Như vậy hoạt động kinh doanh hàng hoá vàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, nhưng không cần cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Dựa vào quy định này, các chuyên gia cho rằng phương án của NHNN là trái với  Nghị định 59/2006/NĐ-CP. Có lẽ có sự hiểu chưa chính xác ở đây, hay nhà chức trách cần lý giải rõ hơn các quy định. Theo tôi, cần phân biệt việc kinh doanh vàng với tư cách là hàng hoá, kim loại và vàng với tư cách là tiền.Vàng là kim loại quý được dùng với tư cách tiền từ ngàn xưa. Ngày nay, nó vẫn là một loại tiền tệ mạnh. Vì thế xuất nhập khẩu vàng được coi là giao dịch tiền tệ, và không được tính vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Với tư cách tiền, kinh doanh vàng hệt như kinh doanh các đồng tiền, kinh doanh ngoại tệ và phải được NHNN quản lý một cách chặt chẽ.
Các sàn vàng có hoạt động cho vay (khi tỷ lệ ký quỹ dưới 100% thì phần chênh lệch là một khoản vay) và tác động đòn bẩy (1 chia cho tỷ lệ ký quỹ: nếu ký quỹ 20% thì đòn bẩy là 5), có thể khiến nhà đầu cơ trúng rất lớn, nhưng cũng có thể sạt nghiệp rất nhanh. Hiện tượng khá giống trong kinh doanh chứng khoán. Hiển nhiên các sàn vàng là một bộ phận của thị trường tài chính tiền tệ và nên được quản lý cẩn trọng. Vàng cũng là một thứ hàng hóa  như bao hàng hóa khác. Nếu việc kinh doanh vàng không với tư cách tiền, thí dụ mua bán vàng dùng trong công nghiệp điện tử, hay vàng dùng làm đồ trang sức, thì kinh doanh vàng chẳng mấy ảnh hưởng đến nền kinh tế, không thể gây ra các xáo động xã hội như vừa qua.
Vàng với tư cách hàng hóa như vậy được quy định tại mục 2 của Phụ lục III của Nghị định 59/2006/NĐ-CP. Để tránh sự nhập nhằng, tôi nghĩ các văn bản pháp lý cần phân biệt rõ hai chức năng này và, ngay cả với tư cách hàng hóa, cũng nên cẩn trọng hơn trong quy định pháp lý. Nếu tách bạch như vậy thì thấy cả hai phương án nêu ra của Ngân hàng Nhà nước về siết quản lý các sàn vàng không hề vi phạm Nghị định 59/2006/NĐ-CP. Tôi không bàn đến tính khả thi, hay phương án có tốt hay không tốt.  Đấy là một đề tài khác.


File đính kèm