Trong buổi sáng ngày 21/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 20-12, tại Phủ Chủ tịch, trong buổi tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu các học giả quốc tế sang Việt Nam dự Hội thảo khoa học quốc tế "Lý luận Mác-xít và thực tiễn thế giới ngày nay", Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các học giả quốc tế nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đánh giá cao Việt Nam đã thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; khẳng định Việt Nam là một hình mẫu triển khai sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần được nghiên cứu, tổng kết. Các học giả cũng nêu ra một số vấn đề mà Việt Nam cần rút kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó nhấn mạnh việc cần làm tốt công tác lý luận tư tưởng đối với thế hệ trẻ, cải tiến phương thức giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong nhà trường.
2. Báo Lao động có bài Thứ trưởng Cao Minh Quang bị kỷ luật vì gây mất đoàn kết nội bộ. Bài báo phản ánh: Một quan chức của Bộ Y tế cho biết có hai nguyên nhân dẫn đến việc Ủy ban Kiểm tra trung ương ra kết luận về xử lý kỷ luật mức cảnh cáo với Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang. Theo quan chức này, nguyên nhân chủ yếu là do ông Quang đã tố cáo sai sự thật nghi án vận động hành lang liên quan đến hai văcxin ngừa virus HPV cuối năm 2008, đầu 2009 gây mất đoàn kết nội bộ. Theo đó, cuối năm 2008, Bộ Y tế đã cho phép đăng ký lưu hành hai văcxin ngừa virus HPV là Gardarsil (Hãng MSD) và Cervarix (Hãng GSK), Thứ trưởng Cao Minh Quang là người ký văn bản cho phép lưu hành hai văcxin này. Tuy nhiên cùng thời gian này, ông Quang đã có thư bằng tiếng Anh, đóng dấu Bộ Y tế gửi Công ty MSD, cho rằng công ty này đã “vận động hành lang” trong quá trình đăng ký lưu hành Gardarsil, trong đó có tố cáo đích danh lãnh đạo MSD tại VN.
Theo quan chức trên, sai sót của ông Quang trong vụ việc này là viết thư bằng tiếng Anh gửi công ty nước ngoài trái với quy tắc hành chính. Theo quy tắc, ông Quang thảo thư bằng tiếng Việt, chuyển Vụ Hợp tác quốc tế dịch và ông Quang ký tên, văn thư Bộ Y tế đóng dấu. Phần ký tên phải ghi rõ là ký thay bộ trưởng, nhưng trong thư kể trên lại không có phần “ký thay”. Bên cạnh đó ông Quang là cấp phó, giúp việc bộ trưởng Bộ Y tế nhưng khi gửi thư cho Công ty MSD với danh nghĩa đại diện lãnh đạo Bộ Y tế, đóng dấu quốc huy lại không thông báo cho Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu. Mặc dù trong văn bản sau đó, ông Quang nói đã báo cho bộ trưởng ba lần.
Mặt khác, trong quá trình thanh tra sau đó liên quan việc có hay không việc MSD vận động hành lang trong quá trình đăng ký văcxin Gardarsil, thanh tra Bộ Y tế đã có kết luận là không phát hiện việc vận động hành lang, chỉ có chuyện một số cựu quan chức gọi điện hỏi về việc đã cho đăng ký lưu hành văcxin này hay chưa và cho đó là “chuyện bình thường ở VN”. Việc tố cáo sai sự thật đã làm mất uy tín của cơ quan nhà nước quản lý lĩnh vực dược và cả Bộ Y tế. Trong khi đó, thanh tra bộ cho rằng hội đồng xét duyệt cho lưu hành văcxin này (do ông Quang đứng đầu) lại có một số sai sót như cho phép độ tuổi sử dụng văcxin Cervarix từ 10-55 tuổi là chưa đầy đủ các bằng chứng khoa học, quy trình lấy ý kiến 11 chuyên gia về sản phụ khoa dẫn đến quyết định cho phép sử dụng Cervarix ở lứa tuổi 10-55 là chưa đầy đủ vì theo các chuyên gia, phải có cả chuyên gia về văcxin cho ý kiến. Bộ Y tế sau đó đã có quyết định hạ độ tuổi được chỉ định sử dụng Cervarix xuống 10-25 tuổi, tương đương với Gardarsil!
Dự kiến thứ năm hoặc thứ sáu tuần tới Ủy ban Kiểm tra trung ương sẽ làm việc với Bộ Y tế để thông báo kết luận vụ việc ông Cao Minh Quang.
Báo cũng phản ánh: Khảo sát mới nhất của Bộ LĐTBXH cho thấy: Thị trường lao động (LĐ) VN vẫn là một thị trường dư thừa LĐ và phát triển không đồng đều, đặc biệt mất cân đối nghiêm trọng trong cung - cầu LĐ giữa các vùng, khu vực, ngành nghề kinh tế. Để điều tiết thị trường LĐ, cải thiện sự mất cân đối, Bộ LĐTBXH vừa trình Chính phủ xem xét, tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo định hướng thị trường, gắn với năng suất LĐ và thống nhất, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp...
Theo báo cáo “Thực trạng cung - cầu LĐ và những giải pháp” của Bộ LĐTBXH vừa trình Chính phủ, trong khi dư thừa LĐ không có kỹ năng và thiếu nhiều LĐ kỹ thuật thì hiện nhiều DN đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng LĐ, nhất là LĐ phổ thông. Theo nhận định của Bộ LĐTBXH, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối cung-cầu LĐ là việc áp dụng chính sách tiền lương, thu nhập trong các DN cứng nhắc và chưa phản ánh đúng thực tế của thị trường LĐ. Cụ thể, hiện tiền lương chưa đảm bảo hợp lý ở một số ngành và khu vực. Đặc biệt, với khu vực DN ngoài quốc doanh, lương bình quân chỉ bằng 56,6% khu vực DN nhà nước, bằng 68,4% khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài. Tiền lương của DN trong các KCN-KCX trả cho NLĐ làm công việc giản đơn chủ yếu chỉ cao hơn mức lương tối thiểu mà Chính phủ quy định. Khảo sát của Sở LĐTBXH tỉnh Hải Dương cho thấy, các DN có vốn đầu tư FDI chỉ trả lương cho CN cao hơn mức lương tối thiểu Nhà nước quy định có 7%.
Báo cáo cũng đưa ra kết quả khảo sát thực tế cho thấy tiền lương của LĐ trong các DN hiện nay thấp hơn tiền lương ở khu vực LĐ tự do. Cụ thể, nếu tiền lương bậc 1 (hệ số 2,34) của người vừa tốt nghiệp đại học là 50,7 nghìn đồng/ngày thì những LĐ tự do, LĐ nông nghiệp có thể kiếm được thu nhập từ 80-120 ngàn đồng/ngày để làm những công việc như cấy, gặt lúa, bắt ốc hoặc bốc vác, giúp việc gia đình theo giờ công mà không bị ràng buộc và yêu cầu khắt khe về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Vì vậy, khi so sánh với giá cả và các chi phí của NLĐ ngoại tỉnh như nhà trọ, sinh hoạt phí... cho thấy mức lương của LĐ ngoại tỉnh khó đảm bảo duy trì được cuộc sống ở đô thị. Trong khi đó, khi so sánh thu nhập với người làm nông nghiệp về lợi ích thu lại thì thấy rằng làm việc nông nghiệp, sinh sống tại quê hương có lợi hơn khi làm việc tại các KCN.
Khảo sát của Bộ LĐTBXH chỉ ra rằng, so với mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng thì mức tăng của tiền lương chưa đủ bù đắp mức tăng giá sinh hoạt. Thu nhập thực tế của NLĐ năm 2008 chỉ bằng 95% so với năm 2007. Từ thực tế trên, Thứ trưởng Bộ LĐTBXH Nguyễn Thanh Hòa cho biết: Bộ LĐTBXH đang kiến nghị với Chính phủ cải tiến chính sách tiền lương, tiền công theo định hướng thị trường; thực hiện chính sách tiền lương gắn với năng suất LĐ, không phân biệt đối xử giữa các loại hình DN; thực hiện cơ chế thương lượng, thỏa thuận về tiền lương trong các loại hình DN theo đúng nguyên tắc của thị trường. Đặc biệt, Chính phủ cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ tiền lương cho đối tượng yếu thế với sự tham gia tích cực của DN, nhất là khi chỉ số giá sinh hoạt tăng cao.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ có bài Không để tình trạng nợ đọng văn bản. Bài báo phản ánh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biểu dương Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp đã thực hiện tốt việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh trình Chính phủ, Thủ tướng đúng thời hạn, trình tự, thủ tục và bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu.
Theo văn bản của Thủ tướng Chính phủ biểu dương thành tích của các Bộ nêu trên, Bộ trưởng 3 Bộ này cần có hình thức khen thưởng hoặc đề nghị khen thưởng xứng đáng và kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với đó, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn nữa, bảo đảm tốt các điều kiện cho công tác soạn thảo, trình các dự thảo văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh đã có hoặc sắp có hiệu lực thi hành, không để tình trạng nợ đọng văn bản.
Theo thống kê của Văn phòng Chính phủ, tổng số văn bản Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần ban hành để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực và các luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 là 81 văn bản. Trong khi đó, tính đến ngày 25/11/2009, còn 43 văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực chưa được ban hành. Có thể thấy, trước thực tế đòi hỏi ngày càng cao về công tác xây dựng thể chế, Chính phủ đã có nhiều cố gắng hoàn thành dự thảo một khối lượng lớn các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Và mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai công tác xây dựng và trình các văn bản quy phạm pháp luật, đã đề ra nhiều biện pháp để tăng cường tiến độ, chất lượng các văn bản nhưng đến nay, số lượng nợ đọng lại gia tăng.
Báo cáo về công tác xây dựng, ban hành văn bản pháp luật của Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ cho thấy, trong số các văn bản chưa ban hành, có thể kể đến 3 luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2009 nhưng đến nay vẫn chưa ban hành hết các văn bản hướng dẫn thi hành, đó là: Luật Giao thông đường bộ (cần ban hành 8 văn bản nhưng đến nay mới ban hành được 5 văn bản); Luật Công nghệ cao (cần có 12 văn bản nhưng đến nay chưa ban hành được văn bản nào); Luật Đa dạng sinh học (cần 1 văn bản nhưng đến nay cũng chưa ban hành được). Ngoài ra, các luật Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 5 (11 luật) và Luật Cán bộ công chức được Quốc hội khóa XII thông qua tại Kỳ họp thứ 4, đa số sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 đều cần được ban hành gấp các văn bản quy định chi tiết thi hành. Với 12 luật này, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cần ban hành tổng số là 44 văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, đến nay đã ban hành được 6 văn bản, còn 38 văn bản cần phải được ban hành tiếp từ nay đến cuối năm 2009.
Để khắc phục thực trạng này, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, Chính phủ chỉ đạo trước mắt Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp cần phối hợp gấp với các Bộ, cơ quan rà soát, lập kế hoạch giải quyết tình trạng nợ đọng của 43 văn bản so với thời điểm hiện nay cùng 38 văn bản cần ban hành để thực hiện các luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, bảo đảm từ nay đến hết quý I/2010 phải ban hành được hết 81 văn bản này. Đến thời điểm đó, Bộ, cơ quan nào còn để nợ đọng các văn bản này thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan đó sẽ chịu trách nhiệm kiểm điểm trước Chính phủ. Đồng thời, ngay sau khi kết thúc kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, các Bộ, cơ quan lập ngay danh mục các văn bản cần ban hành để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật mới được thông qua. bảo đảm tiến độ soạn thảo và trình ban hành phù hợp với thời điểm có hiệu lực, đáp ứng yêu cầu triển khai thi hành các luật mới được ban hành, tránh tình trạng nợ đọng tiếp diễn.
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Sáng 18/12, thảo luận tại Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Pháp luật cho rằng hiện nay việc quản lý giới thiệu trẻ em làm con nuôi, đặc biệt là con nuôi có yếu tố nước ngoài, chưa được chú trọng. Cơ sở nuôi dưỡng vừa là nơi tiếp nhận, vừa là nơi nhận viện trợ nhân đạo từ nước ngoài, đồng thời cũng là nơi giới thiệu trẻ. Điều này dẫn đến sự thiếu vô tư, khách quan trong việc giới thiệu trẻ làm con nuôi người nước ngòai, cá biệt dẫn đến tiêu cực và vi phạm pháp luật.
Ủy ban Pháp luật đề nghị tổ chức lại việc giới thiệu cho trẻ em làm con nuôi, tách bạch việc giới thiệu trẻ với việc tiếp nhận viện trợ nhân đạo, đảm bảo sự quản lý của nhà nước. Cơ quan này đề xuất 2 phương án. Một là thành lập Hội đồng tư vấn ở tỉnh thành phố do giám đốc Sở Tư pháp làm chủ tịch, thành viên còn lại là lãnh đạo các sở. Hai là giao cho Sở Tư pháp thực hiện giới thiệu trẻ và trình Chủ tịch UBND tỉnh thành quyết định.
Thời gian qua, tại nhiều tỉnh thành đã xuất hiện tiêu cực trong việc cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài. Tại Nam Định, cơ quan chức năng đã xét xử giám đốc hai trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh này khi thu gom, lập hồ sơ giả xác nhận nguồn gốc các bé đều là “trẻ bị bỏ rơi” tại cơ sở y tế, nhằm thuận tiện trong thủ tục cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài. Mỗi trẻ được về với cha mẹ nuôi, trung tâm được ủng hộ 500 USD (thời điểm 2005-2006) và 10 triệu đồng (2007-2008)... Tại Lâm Đồng, Hiệu trưởng trường Nuôi dạy trẻ mồ côi khuyết tật và lang thang cơ nhỡ Tia Sáng đã bị bắt để điều tra về việc "bán" trẻ ra cộng đồng với giá từ 20 triệu đến 25 triệu đồng một trẻ. 3. Báo điện tử Vietnamnet có bài Hà Nội ngừng cấp phép văn phòng một công chứng viên. Bài báo phản ánh: Sở Tư pháp Hà Nội sẽ không cấp đăng ký hoạt động mở văn phòng công chứng (VPCC) chỉ do một công chứng viên thành lập nữa. Đây là khẳng định của Phó Giám đốc Sở Tư pháp, bà Trương Thị Nga tại cuộc giao ban công tác công chứng chiều 18/12. Lý do Sở Tư pháp đưa ra là trường hợp chỉ có một công chứng viên hành nghề sẽ không tránh khỏi công việc của VPCC bị gián đoạn, không ai công chứng khi công chứng viên bị ốm đau... ảnh hưởng đến thời gian giải quyết công việc cho người dân.
Trong số 42 VPCC của Hà Nội, 13 văn phòng có từ 2 công chứng viên trở lên, còn lại chỉ có một công chứng viên hành nghề. Hà Nội có khoảng 100 công chứng viên, trong đó có 60 người đang hành nghề tại các VPCC và 38 người đang có nhu cầu mở VPCC. Trưởng Phòng Bổ trợ tư pháp Phạm Thanh Cao cho hay Sở Tư pháp đã nhận được 18 đơn thư khiếu nại liên quan đến hoạt động công chứng, trong đó số đơn thư liên quan đến VPCC (công chứng ngoài ngân sách, hay công chứng tư), cao gấp 7 lần khối phòng công chứng (của Nhà nước). Các khiếu nại chủ yếu về nghiệp vụ, do các công chứng viên chưa tuân thủ chặt chẽ qui trình công chứng như hủy hợp đồng đã công chứng không thu hồi lại hết các bản chính của hợp đồng, dẫn đến bị lưu lạc ra ngoài. Hoặc lẽ ra bản chính hợp đồng phải được giao cho cả hai tham gia ký kết hợp đồng và VPCC lưu giữ một bản nhưng lại chỉ giao cho một bên mua hoặc bán. Có VPCC lưu hồ sơ bằng bản photo, khi người dân xin cấp lại thì không có cơ sở để cấp. Ông Cao cho hay, trong khi chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu chung để các tổ chức hành nghề công chứng cùng tra cứu, Sở Tư pháp sẽ đưa lên website của Sở các đơn thư khiếu nại, giúp các tổ chức hành nghề hạn chế rủi ro do thiếu thông tin.
Trưởng PCC số 1, ông Trần Ngọc Nga cho biết đã phát hiện một số trường hợp "bắn" thêm chữ vào hợp đồng đã công chứng nhằm mục đích lừa đảo, như "hợp đồng thế chấp" thành "hợp đồng thế chấp và bán", để tiếp tục đem bán khối tài sản đang bị thế chấp. Ông Nga lo ngại nếu xây dựng trung tâm thông tin chung về công chứng mà không có cơ chế kiểm soát hợp lý sẽ rất khó quản lý vì thông tin về khách hàng không phải ai cũng có thể tra cứu được. Theo đề án qui hoạch phát triển nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội đang được Sở Tư pháp xây dựng, đến năm 2015, trên địa bàn Hà Nội mỗi quận, huyện sẽ có ít nhất 2 tổ chức hành nghề công chứng. Dự kiến, Hà Nội sẽ có Hiệp hội Công chứng vào tháng 10/2010.
4. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp có bài Quảng cáo trên xe buýt: Cần đáp ứng nhu cầu của DN. Bài báo phản ánh: Xung quanh vấn đề UBND TP HCM không cho phép quảng cáo trên xe buýt có nhiều ý kiến phản ứng. Về vấn đề này chúng tôi đã có cuộc trao đổi với nhiều DN, họ đều ủng hộ việc quảng cáo (QC) trên xe buýt. Hầu hết các DN cũng đề nghị việc QC trên xe buýt phải được tổ chức, quản lý nội dung - hình thức - giá cả một cách chặt chẽ công bằng. Thể hiện quan điểm về vấn đề này bà Hồng Hương - TGĐ hệ thống siêu thị Vinatex Mark nói: ViệcQC trên xe buýt là quá tốt, nếu TP HCM cho phép thì tôi sẽ tham gia quảng bá hình ảnh siêu thị của mình đến với mọi tầng lớp người tiêu dùng. Bà Hương cười nói thêm: “Vinatex Mark là siêu thị bình dân mà”.
Theo bà Hương so sánh, ưu thế của việc QC trên xe buýt hơn hẳn nhiều loại hình QC khác, kể cả QC trên tivi được cho là phương tiện hiệu quả nhất hiện nay. QC trên xe buýt chuyển tải thông tin có tính di động cao, đến được nhiều nơi, dễ thấy do ngang tầm mắt... Nhiều tỉnh, thành cạnh TP HCM đã cho phép QC trên thành xe buýt như tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, không hiểu sao TP HCM lại cấm.
Bà Nguyễn Ánh Hồng - TGĐ hệ thống siêu thị MaxiMark khi trả lời câu hỏi của chúng tôi là nên hay không nên cho QC trên xe buýt đã trả lời chắc nịch: “Nên chớ, có gì đâu mà cấm...” Theo bà Hồng, cũng có xảy ra chuyện người đi đường gây tai nạn do mất tập trung khi nhìn vào các QC, nhưng việc này không phải lỗi của QC mà do lỗi của người điều khiển phương tiện giao thông. Hơn nữa so với các pano QC trên cao, các băng rôn treo ngang đường thì việc QC trên xe buýt ít làm mất tập trung đối với người đi đường nhất do tầm nhìn thấp, nhìn lướt qua...
Bà Hồng Hương góp ý: QC trên xe buýt có đặc thù so với QC trên các phương tiện khác. Phải làm sao màu sắc và hình ảnh phù hợp tâm lý, văn hóa của người Việt. Ví dụ một cách tế nhị, khi QC quần áo lót trên báo, tạp chí... có thể dùng hình ảnh phụ nữ hơi gợi cảm với một mức độ nào đó nhưng không thể QC trên xe buýt cùng mức độ gợi cảm như vậy, vì sẽ không phù hợp văn hóa nơi công cộng của người Việt. QC trên xe buýt do là hình ảnh đập ngang tầm mắt người điều khiển giao thông nên không thể dùng các gam màu nóng, quá rực rỡ chói mắt làm mất tập trung người điều khiển phương tiện, dễ gây tai nạn giao thông.
Trao đổi về vấn đề giá QC trên xe buýt, cả bà Hồng Hương và bà Ánh Hồng đều cùng ý kiến là “Hãy để thị trường quyết định”. Theo bà Hồng Hương, thị trường có quy luật của nó, các cơ quan quản lý nhà nước không nên áp đặt bằng ý chí chủ quan. Cách thực hiện có thể là cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức giao cho các DN xe buýt lập đề án, báo giá... rồi tổ chức tập hợp ý kiến các DN có nhu cầu QC trên xe buýt, từ đó ban hành mức giá trần để thực hiện. Bà Ánh Hồng thì cho rằng bán diện tích QC trên xe buýt cũng mang tính cạnh tranh như bất kỳ mặt hàng nào, quan trọng là cơ quan chủ quản phải đứng ra làm trọng tài để việc QC trên xe buýt cạnh tranh công bằng theo đúng quy luật thị trường trên cơ sở ai có đủ sức thì tham gia.
Các DN cũng có cùng một băn khoăn là sợ rằng khi cho phép QC trên xe buýt, các thương hiệu lớn nhiều tiền của nước ngoài giành chỗ, cạnh tranh không cân sức đối với các DN Việt. Bà Hồng Hương nói nếu không có các quy định hợp lý thì e rằng trên thành các xe buýt sẽ toàn là hình ảnh của các loại dầu thơm, xà bông, nước hoa... của các thương hiệu liên doanh nước ngoài do họ nhiều tiên, và trong chừng mực nào đó thì họ cạnh tranh nhiều lợi thế hơn DN Việt cùng lĩnh vực.
Một DN (xin giấu tên) nói vấn đề cấm QC trên xe buýt của TP HCM đã bị công luận phản đối rất nhiều, nhưng vẫn không lay chuyển quyết định của các lãnh đạo TP HCM. Điều này cho thấy lãnh đạo TP HCM chậm đáp ứng nhu cầu của DN. Từ nhiều năm nay, ngành giao thông TP HCM đã nhiều lần đề xuất UBND TP cho phép QC trên xe buýt để có thêm nguồn thu phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng. Theo Đề án của Cty TNHH một thành viên xe buýt Sài Gòn, nếu QC trên khoảng 3.200 xe buýt hiện có của TP chạy trên hơn 150 tuyến thì mỗi năm thu về khoảng 150 tỷ đồng. Đầu năm 2008 UBND TP mới chấp thuận chủ trương để các ban ngành nghiên cứu thêm. Sau khi được các ban ngành tham mưu, ngày 5/6/2009 TP ban hành Quyết định 39/2009/QĐ-UBND, nhưng tại khoản 5, điều 5 của QĐ này vẫn quy định cấm QC trên các mặt bên ngoài phương tiện giao thông, phương tiện vận tải- tức là vẫn cấm QC trên xe buýt. Quy định cấm QC trên các mặt bên ngoài phương tiện giao thông, phương tiện vận tải của UBND TP HCM là chưa phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động QC. Thiết nghĩ việc cho phép QC trên xe buýt là việc làm hợp lòng dân, hợp lòng DN và không vi phạm pháp luật hiện hành.
5. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Sổ mới nhà đất: tốn kém, nhiêu khê. Bài báo phản ánh: Việc gộp chung một sổ về nhà đất tưởng sẽ tốt hơn nhưng thực tế sau khi có hướng dẫn của Bộ Tài nguyên-Môi trường phiền phức chẳng những không giảm mà còn tăng lên, gây thêm nhiều khó khăn cho người dân. Ùn tắc hồ sơ một cách kinh khủng, đó là hình ảnh dễ thấy nhất tại nơi tiếp nhận giải quyết thủ tục về nhà đất của các quận, huyện trên địa bàn TPHCM sau thời điểm thực thi Thông tư 17/2009/TT-BTNMT hướng dẫn về cấp giấy chứng nhận nhà đất mới của Bộ Tài nguyên - Môi trường. Sáng 14-12-2009, tức bốn ngày sau khi Thông tư 17 có hiệu lực, tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ nhà đất của các quận 12, Gò Vấp, Tân Phú… người đến làm giấy tờ đông nghẹt, hầu như nét mặt ai cũng bực bội pha lẫn lo lắng vì phải chờ đợi và lúng túng bởi những thủ tục mới phát sinh.
Tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ của quận Gò Vấp, luật sư Nguyễn Thị Cúc rầu rĩ cho biết tình trạng ùn tắc đến mức nếu như trước đây chỉ mất vài chục phút thì bây giờ phải đứng mất cả ngày mới nộp được hồ sơ. Nguyên nhân ùn tắc là vì theo quy định mới, thủ tục được thực hiện “một cửa” ở quận nên toàn bộ hồ sơ phải dồn về đây. Ví dụ, trước đây để hợp thức hóa chủ quyền nhà thì hồ sơ phải qua phường xem xét, làm thủ tục niêm yết, sau đó đưa hồ sơ lên quận là xong. Nay, không qua phường nữa mà đưa hồ sơ thẳng lên quận. Nhân viên ở quận nhận hồ sơ xong sau đó lại “ngồi” phân loại, hồ sơ thuộc phường nào thì chuyển về phường đó để nhờ kiểm tra, xác minh (vì phường rành rẽ hơn). “Chỉ riêng khâu phân loại, đưa hồ sơ về phường đã tốn không biết bao nhiêu thời gian. Nhân viên quận thì ít và cũng chừng đó mà như Gò Vấp có đến 17 phường thì làm sao xuể!”-luật sư Cúc than thở. Theo ý kiến của luật sư này, “hai cửa” như trước đây vẫn hợp lý hơn “một cửa” ở chỗ khi nộp hồ sơ ở “cửa” đầu tiên (UBND phường) nếu hồ sơ có gì trục trặc nhân viên ở đây sẽ hướng dẫn làm lại ngay hoặc bổ túc thêm và cứ thế lên quận. Còn bây giờ, nếu có sai sót thì phải chờ đợi rất lâu người nộp hồ sơ mới biết để sữa chữa, bổ túc và lại phải tiếp tục tốn công sức như vậy cho mỗi lần nộp lại hồ sơ.
Tuy nhiên, bức xúc nhiều nhất vẫn là chuyện đổi sổ. Theo Thông tư 17/2009/TT-BTNMT, có chín trường hợp biến động về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất, trong đó có việc chuyển nhượng (chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế…) thì bắt buộc phải đổi sổ. Nói cách khác, cứ mỗi lần thay đổi chủ quyền là phải làm thủ tục để cấp sổ mới. Không giấu được vẻ thất vọng, luật sư Trần Thị Miền bức xúc nói: “Trước đây, lãnh đạo Bộ Tài Nguyên-Môi trường từng cam kết là sẽ thiết kế giấy chứng nhận nhà đất mới giống như cuốn sổ hộ khẩu. Trong đó, các trang của sổ sẽ ghi đầy đủ thông tin về nhà đất và ghi nhận cả những biến động khi có giao dịch chuyển nhượng mà không cần phải đổi sổ. Thế nhưng, bây giờ lại làm ngược hoàn toàn. Cải cách như thế thì vô lý quá, chỉ khổ cho dân thôi!”.
Bà Miền so sánh: trước đây theo quy định cũ, muốn chuyển nhượng nhà đất, hai bên chỉ cần đến công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng, sau đó lên quận làm thủ tục đăng bộ, cập nhật biến động vào sổ (ghi tên chủ mới), lệ phí 15.000 đồng và mất khoảng 5-7 ngày là xong. Còn bây giờ, sau khi công chứng hợp đồng, người bán hoặc người mua phải làm thêm thủ tục đo vẽ nhà đất (tốn chi phí từ 500.000 đồng đến vài triệu, thậm chí 4-5 triệu đồng, tùy diện tích nhà đất lớn hay nhỏ và thời gian khoảng 15-20 ngày), sau đó đi làm thủ tục đăng bộ in sổ mới, lệ phí 100.000 đồng và mất thêm khoảng 20 ngày nữa. Chưa kể, như trên đã nói, việc nộp hồ sơ rất mất thời gian và nhiêu khê. Theo luật sư Miền, để hoàn thành một giao dịch chuyển nhượng thì riêng thủ tục sang tên đổi sổ có thể mất tới một đến hai tháng trong khi trước đây chỉ cần khoảng 5-7 ngày và với chi phí ít hơn.
Đặc biệt, với trường hợp nhà đất có nhiều chủ khác nhau thì lại càng phiền phức. Ví dụ, ông A là chủ sử dụng đất và trên đất đó có 5 căn nhà thuộc sở hữu của 5 người khác nhau. Về nguyên tắc, 6 người nói trên đều có thể được cấp mỗi người một sổ nhà đất mới. Như vậy, nếu ông A chuyển nhượng đất cho ai đó thì không chỉ sổ của ông A mà sổ của 5 người kia dù chẳng liên quan đến giao dịch nhưng vì có biến động nên theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên-Môi trường cũng đều phải làm lại thủ tục để đổi sổ mới? Quả là nhiêu khê!
Luật sư Cổ Hiệp bức xúc: “Chẳng hiểu Bộ Tài nguyên - Môi trường lấy ý kiến ở đâu mà nói rằng đại đa số người dân thích đổi sổ vì không muốn dính đến người cũ. Tôi chắc chắn là không thể có chuyện đó xảy ra vì có trực tiếp đi làm mới thấy cái gọi là cải cách đang lùi lại và hành hạ người dân ghê gớm. Trước giải phóng, khi chuyển nhượng chỉ cần ghi nhận biến động trong một tờ kèm theo bằng khoán là xong. Sau này, với sổ hồng mình cũng áp dụng như thế, rất đơn giản và có thấy ảnh hưởng gì đến quyền lợi của các người giao dịch đâu. Tại sao lại phải đổi sổ cho phức tạp, rối rắm lên?”.
Cũng theo Thông tư 17/2009/TT-BTNMT, Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên - Môi trường có trách nhiệm tổ chức việc in ấn, phát hành phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho các địa phương. “Không lẽ vì chuyện tế nhị gắn với lợi ích cục bộ ấy của Bộ Tài nguyên - Môi trường mà bắt người dân phải đổi sổ?” - luật sư Trần Thị Miền băn khoăn.
6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lập tổng cục chuyên trách xây dựng luật?. Bài báo phản ánh: Để tránh việc luật chờ văn bản hướng dẫn, luật vì lợi ích cục bộ của ngành..., trong phiên họp mới đây, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (QH) đã đề xuất thành lập một cơ quan chuyên trách xây dựng luật. Xung quanh vấn đề này, Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nguyên đại biểu QH.
. Thưa ông, chuyện lập cơ quan chuyên trách như đề nghị của Ủy ban Pháp luật của QH có cần thiết?
+ Tôi ủng hộ việc này vì hai lẽ: Khi các bộ, ngành xây dựng luật sẽ có hai chuyện. Thứ nhất, anh quản lý nên anh nghĩ về mình trước, anh mong muốn nhưng chưa chắc dân muốn. Vì anh xây dựng luật nên anh sẽ khéo léo đưa lợi ích cục bộ ngành, “dễ cho bộ, khó cho dân” vào luật. Và bộ đó thường nhìn với lập trường của cơ quan quản lý chứ không bao quát trên lợi ích chung hoặc đối tượng phải thi hành. Thứ hai, không phải bộ, ngành nào cũng đủ bộ máy xây dựng pháp luật, nhất là bộ luật lớn. Không chỉ câu chữ, kỹ thuật lập pháp mà còn phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Luật do QH thông qua nhưng có nhiều cơ quan trình, khó tránh mâu thuẫn, chồng chéo.
. Tức khi có cơ quan này, các bộ, ngành không nhọc công xây dựng luật nữa, phải vậy không thưa ông?
+ Chúng ta không thể có một cơ quan nào có thể nắm hết các lĩnh vực của đời sống xã hội nên nói rằng có một cơ quan thay thế các bộ, ngành làm luật là khó. Bởi lẽ người quản lý bộ, ngành là người biết rõ thừa luật hay thiếu luật trong lĩnh vực đó. Họ nắm đầy đủ mọi ngóc ngách trong lĩnh vực mình phụ trách nên không thể có chuyện một cơ quan đứng ra “bao sân” làm luật cho họ. Ở các nước có một cơ quan lo chung về mặt kỹ thuật lập pháp chứ không làm thay tất cả. Từng bộ vẫn có bộ phận chuyên lo xây dựng văn bản nhưng không phải ngồi viết từng câu, từng điều một. Bộ sẽ thuyết trình với cơ quan kỹ thuật lập pháp để cơ quan này chuyển hóa thành ngôn ngữ pháp lý. Ta có thể học hỏi cái này. Ở ta, có thể thành lập một tổng cục trực thuộc Thủ tướng để lo việc xây dựng văn bản pháp luật.
. Chúng ta đã đủ điều kiện thành lập một bộ máy như thế chưa, thưa ông?
+ Xây dựng pháp luật huy động hàng trăm người chứ không chỉ vài chục người. Người học luật rất nhiều nhưng chưa hẳn đủ trình độ làm luật. Cho nên nói thì dễ nhưng đi vào thực tế không đơn giản. Về mặt lý thuyết thì khả thi tốt nhưng điều kiện cụ thể của chúng ta cần phải xem lại. Tôi cho rằng phải tính bước đi cụ thể như thế nào chứ đùng một cái chưa làm được. Xác định cơ quan đó là cơ quan gì chứ không phải làm thay cho bộ, ngành. Phải phân đoạn hóa quy trình từ khi khởi thảo đến khi thông qua. Ai làm cái gì, việc gì... nhưng tôi e là chúng ta chưa đủ lực để làm.
. Hiện nay, để thông qua một luật mất rất nhiều công đoạn: Bộ, ngành phác thảo, Bộ Tư pháp thẩm định, Chính phủ trình, Ủy ban của QH thẩm tra, QH bàn và thông qua. Thế nhưng luật vẫn còn cục bộ ngành, chồng chéo trong hệ thống luật, có phải lỗi ở QH không, thưa ông?
+ Nhiều đại biểu QH chúng ta kiêm nhiệm, không chuyên. Đến kỳ họp QH mới đọc luật. Cứ hình dung đại biểu QH họp một tháng, hết ngày này qua ngày khác ngồi ở hội trường, họp tổ thì giờ nào đại biểu QH đọc kỹ luật đó? Khi QH thông qua Luật Chứng khoán, tôi nói đùa với anh em: “500 người ở đây ai đã chơi chứng khoán để biết chứng khoán là gì?”. Đừng trách đại biểu QH!
. Vậy có cách nào để khắc phục tình trạng này, thưa ông?
+ Lập cơ quan xây dựng luật như kiến nghị của Ủy ban Pháp luật của QH, nâng chất các cơ quan thẩm định văn bản luật trước khi trình ra QH sẽ hạn chế luật ống, luật khung...