Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 12 năm 2009

17/12/2009
Trong buổi sáng ngày 17/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới có bài Giải quyết vấn đề di dân tại Việt Nam: Thiếu đối sách đúng tầm. Bài báophản ánh: Tốc độ di dân gia tăng nhanh, quy mô ngày một lớn, tác động không nhỏ tới mỗi gia đình và từng quốc gia. Trên thế giới, di dân đã được khẳng định là vấn đề của thời đại, mang tính toàn cầu. Đây cũng là vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, trong 10 năm qua, di cư diễn ra khá mạnh; dân số (DS) thành thị tăng 3,4%, trong khi DS nông thôn chỉ tăng 0,4%. TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu là những vùng có tỷ lệ DS tăng nhanh, từ 2,9-3,5%. Trong số 9,45 triệu dân tăng (1999-2009) có tới trên 7 triệu (trên 70%) tăng ở khu vực thành thị, chỉ có trên 2 triệu (dưới 30%) tăng ở khu vực nông thôn. Điều đó cho thấy, thành phố đô thị lớn đang thu hút làn sóng nhập cư, cuốn dòng người nông thôn "đổ" về.
TS Đặng Nguyên Anh, Viện Khoa học xã hội cho rằng, "di cư ở Việt Nam đang có xu hướng tiếp tục gia tăng về quy mô. Bởi đô thị hóa luôn là động lực thúc đẩy di dân. Chỉ trong vài chục năm tới, Việt Nam sẽ hoàn thành quá trình đô thị hóa trong khi các nước phương Tây phải mất 300-400 năm mới đạt được. Theo dự báo của Chính phủ, 45% DS Việt Nam sẽ sống ở khu vực đô thị vào năm 2020". Nguyên nhân di cư được các nhà khoa học lý giải là do sản xuất nông nghiệp cho thu nhập thấp; đất đai ở nông thôn bị thu hẹp không đủ đáp ứng cho lực lượng lao động đang gia tăng mạnh. Trong khi đó, thành thị ngày càng trở thành mảnh đất màu mỡ bởi mức thu nhập và cơ hội việc làm cao hơn, đã hối thúc người nông thôn tìm đến kiếm kế sinh nhai.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, di cư là một trong những giải pháp chính cho việc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam từ đầu những năm 1990 đến nay. Một ví dụ điển hình là tại TP Hồ Chí Minh, ước tính người di cư đóng góp tới 30% GDP của thành phố (Hiệp hội về Dân số và Phát triển VN năm 2005). Các kết quả cho thấy thu nhập được tạo ra tại khu vực thành thị, khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam được chuyển về các vùng nghèo hơn. Bà Trần Thị Vân, trợ lý Trưởng đại diện Quỹ Dân số của LHQ tại Việt Nam (UNFPA) khẳng định, "đây chính là một hệ quả tích cực, trực tiếp tác động lên hoạt động di cư của người dân".
Tuy nhiên, cần phải thấy được những chi phí và thách thức về mặt xã hội liên quan tới quá trình di chuyển của người dân. Ở cấp độ tổng thể, di cư từ nông thôn ra thành thị góp phần đáng kể vào quá trình đô thị hóa song lại tạo áp lực lớn đối với hệ thống cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội như nhà ở, giáo dục, chăm sóc y tế, kể cả sức khỏe sinh sản, điện, nước, vệ sinh, giao thông.
Hình ảnh người di cư "một chốn đôi quê", hay "sáng đi, tối về", bản thân họ và gia đình đều phải chịu tác động tích cực lẫn tiêu cực đằng sau sự di chuyển đó. Hầu hết họ đều cải thiện được điều kiện vật chất, song về tinh thần và sức khỏe lại mất nhiều hơn. Gia đình thiếu vắng cha (mẹ), hoặc cả hai người là trụ cột, con cái họ để ở quê cho ông bà chăm sóc... dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc và phân công lao động trong gia đình. Ths Phan Sỹ Anh, (Thái Bình) cho rằng: "Cái mất của nhiều gia đình người di cư là hôn nhân mong manh, con cái hư hỏng. 90% số lao động di cư đều có sự cố về hôn nhân và ly hôn; hầu hết trẻ em hư đều trong gia đình có người di cư".
Những được, mất của di dân ngày càng hết sức phức tạp, vì vậy đã đến lúc cần phải có nhận thức đúng vai trò của công tác di dân, đây không phải là vấn đề KT-XH đơn thuần mà phải coi di dân là vấn đề khoa học, phải có đối sách đúng tầm. Theo TS Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, "di dân là vấn đề tất yếu của bất kỳ quốc gia nào. Hằng năm, Trung Quốc có 300 triệu người di cư trong nước. Di cư ở Việt Nam đang diễn biến rất đa dạng, chúng ta không thể ngăn được dòng di cư. Vì vậy, chúng ta phải thiết lập chính sách thích ứng sao cho phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH của đất nước. Vấn đề thứ hai là người di cư hiện nay có rất nhiều thiệt thòi, vì vậy cần phải có những dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt như y tế, giáo dục, và các dịch vụ nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa, thông tin, giải trí".
2. Báo Lao động phản ánh: Văn phòng Chính phủ vừa có Công văn số 348/TB-VPCP thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp thường trực Chính phủ về đồ án Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2025.Theo đó, Thủ tướng yêu cầu các khu vực đô thị trung tâm phải được nghiên cứu phương án quy hoạch bảo tồn khu phố cổ và các nhà biệt thự trong khu phố cũ để tôn tạo, bảo tồn, đồng thời có kế hoạch phục hồi, trùng tu duy trì phong cách kiến trúc đặc thù của các công trình này.
UBND TP.Hà Nội chỉ đạo dừng ngay việc phá các nhà biệt thự cũ và xây dựng các tòa nhà cao tầng trong khu vực trung tâm. Thủ tướng giao Bộ Xây dựng phối hợp với UBND TP. Hà Nội chỉ đạo đơn vị tư vấn nghiên cứu quy hoạch trụ sở các cơ quan hành chính nhà nước tại khu vực Mỹ Đình đồng thời, cần tiếp tục nghiên cứu kỹ quy mô, phạm vi khu vực bố trí trung tâm hành chính trong tương lai (tầm nhìn đến năm 2025) để đầu tư xây dựng khi có điều kiện.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 15-12 tại Hà Nội, Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính) đã tổ chức hội thảo về hoạt động thu thuế đối với giao dịch trên sàn vàng. Theo các đại biểu, doanh nghiệp (DN) kinh doanh sàn vàng phần lớn mới đi vào hoạt động, lượng khách còn ít, doanh thu từ hoa hồng đại lý rất nhỏ nên việc tính thuế hiện chưa rõ ràng.
Hiện nay, các DN mở sàn vàng đang thực hiện kê khai, nộp các loại thuế: môn bài, giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp; các đối tượng kinh doanh vàng trên sàn giao dịch chưa phải kê khai, nộp thuế. Đại diện Chi cục Thuế TP Hồ Chí Minh đề xuất, nhà đầu tư kinh doanh vàng trên sàn phải đối mặt nhiều rủi ro, vì vậy, chỉ nên tính thuế trên phần lãi thu được.
Hai phương án thu thuế trên sàn vàng cũng được các đại biểu đề xuất. Phương án 1, nhà đầu tư tạm nộp 0,002% trên giá chuyển nhượng từng lần phát sinh giao dịch khớp lệnh (không phân biệt lãi hay lỗ). Cuối năm nhà đầu tư quyết toán thuế theo thuế suất 20% trên thu nhập tính thuế. Phương án 2, trường hợp sàn vàng hạch toán được lãi, lỗ từng lần giao dịch của nhà đầu tư, sẽ tạm nộp 20% thuế thu nhập phát sinh (nếu giao dịch phát sinh có lãi). Trường hợp sàn giao dịch vàng không xác định được giao dịch lãi, lỗ của nhà đầu tư, thì tạm nộp 0,1% trên giá khớp lệnh (chưa trừ các khoản chi phí). Cuối năm nhà đầu tư quyết toán thuế theo thuế suất 20% trên thu nhập tính thuế.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Kinh tế và đô thị có bài Kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa bám sát thực tế. Bài báo phản ánh: Sáng 15/12, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội do Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh, làm Trưởng đoàn đã làm việc với đối với Sở Tư pháp TP giám sát về vai trò tham mưu của Sở trong quá trình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Theo báo cáo của Sở Tư pháp, từ đầu năm đến nay UBND TP đã ban hành được 148 văn bản pháp quy gồm 116 quyết định và 32 Chỉ thị, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm như quản lý đô thị, nhà đất, đầu tư xây dựng (59 văn bản); còn lại là các văn bản về chính sách kinh tế, văn hóa xã hội, pháp luật, tài chính thương mại, nông nghiệp và phát triển nông thôn ... Đồng thời Sở tư pháp cũng đã tiến hành kiểm tra đối với 185 văn bản quy phạm pháp luật; kết quả có 2 văn bản đã được điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên UBND TP cũng mới chỉ ban hành được 16/93 văn bản theo kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND TP trong năm 2009. Giải thích về việc tỷ lệ ban hành rất thấp so với kế hoạch trong khi số lượng văn bản ngoài kế hoạch tăng lên rất nhiều, đại diện Sở Tư pháp cho rằng việc đề xuất kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản của các Sở, ban, ngành chưa bám sát thực tế yêu cầu, chưa có tính dự báo cao. Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo văn bản, khi có văn bản của cấp trên quy định cụ thể vấn đề hoặc có sự thay đổi về nội dung, hoặc không cần điều chỉnh thì cơ quan đó cũng không soạn thảo nữa.
Trong buổi làm việc sáng qua, đoàn giám sát rút ngẫu nhiên 3 hồ sơ do Sở  Tư pháp thẩm định thì thấy cả ba hồ  sơ đều không có biên bản tổng hợp ý  kiến, giải trình của các đơn vị liên quan góp ý vào dự thảo quyết định. Điều này cho thấy Sở Tư pháp mới chỉ làm nhiệm vụ thẩm định về hình thức văn bản, còn nội dung văn bản đã không được thẩm định kỹ. Đoàn giám sát đề nghị Sở Tư pháp phải nghiêm túc thực hiện đúng quy trình, cách thức thẩm định, làm tốt vai trò tham mưu hơn nữa của mình trong quá trình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của UBND TP.
2. Báo Người lao động có bài Luật chưa bảo vệ được người tố cáo tham nhũng. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã nói như vậy khi trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động về việc xây dựng bộ luật bảo vệ các nhân chứng tố cáo tham nhũng.
* Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, qua thực tế chống tham nhũng cho thấy tội phạm tham nhũng có thể trở nên rất nguy hiểm, có những hành vi manh động đối với nhân chứng phát giác họ tham nhũng?
- Bộ trưởng Hà Hùng Cường:Tôi cho rằng bảo vệ nhân chứng tố cáo tham nhũng là một việc làm rất quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng. Tuy nhiên, đây còn là một lỗ hổng trong hệ thống luật pháp hiện nay. Luật pháp về vấn đề này chưa rõ ràng. Sắp tới phải đề xuất Quốc hội ban hành một bộ luật riêng để bảo vệ các nhân chứng tố cáo tham nhũng.
* Xây dựng một bộ luật riêng z?về việc bảo vệ nhân chứng tố cáo tham nhũng là cách để bịt lỗ hổng pháp lý hiện nay?
- Đúng vậy, cần xây dựng một bộ luật riêng về vấn đề này. Theo tôi, Bộ Công an nên đứng ra đề xuất về bộ luật này. Sắp tới, trong khi bàn về chương trình xây dựng luật pháp của Quốc hội khóa XIII, nên đưa ra việc xây dựng một bộ luật bảo vệ nhân chứng tố cáo tham nhũng.
* Thưa Bộ trưởng, trong Bộ Luật Tố tụng hình sự hay Luật Phòng, chống tham nhũng đã có những điều khoản nói về việc bảo vệ nhân chứng song chưa cụ thể nên khó triển khai trên thực tế?
- Thực ra, trong Bộ Luật Tố tụng hình sự cũng chỉ đề cập một cách chung chung, chưa có quy định cụ thể. Quy định chung chung như vậy là chưa rõ trách nhiệm. Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục như có những tố giác đúng song cũng có những tố giác sai. Vấn đề là phải có quy định để phân biệt bởi nếu chạy theo những tố giác sai thì rất khó khăn.
* Nhưng khi nhận thông tin tố cáo tham nhũng, rồi điều tra ban đầu thấy có cơ sở và nếu thấy nhân chứng có thể bị nguy hiểm thì phải tính tới biện pháp bảo vệ?
- Tôi cho rằng phải có biện pháp bảo vệ nhân chứng tố cáo tham nhũng.
* Bộ trưởng nhìn nhận ra sao trước thực tế một số địa phương đã tính tới việc ban hành những quy định để bảo vệ nhân chứng?
- Tôi cho rằng đó là những sáng kiến tốt. Nhưng họ khó có thể ban hành được các quy định nếu không có các văn bản pháp luật cao hơn. Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có quy định rõ các cơ quan có thẩm quyền đến đâu trong việc ban hành các văn bản pháp luật. Trong trường hợp này theo tôi phải có văn bản của Trung ương.
* Nhưng các địa phương có thể căn cứ theo Bộ Luật Tố tụng hình sự và Luật Phòng, chống tham nhũng để ban hành các quy định bảo vệ nhân chứng tố cáo tham nhũng một cách phù hợp?
- Tôi hiện chưa có thông tin đầy đủ về dự kiến hay dự thảo của các địa phương. Khi có mới xem xét được tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản này. Nếu hợp hiến và hợp pháp thì Bộ Tư pháp hoan nghênh.
* Từ góc độ của mình, Bộ Tư pháp có kiến nghị nên sớm ban hành luật bảo vệ các nhân chứng tố cáo tham nhũng?
- Hiện chúng tôi đang chuẩn bị triển khai sơ kết Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị về cải cách hệ thống pháp luật đến năm 2020. Cụ thể là sơ kết 5 năm qua và đề xuất cho 10 năm tới để báo cáo Bộ Chính trị. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này để đề xuất đưa vào nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng cải cách hệ thống pháp luật đến năm 2020.
* Thế còn việc đưa vào chương trình làm luật của Quốc hội?
- Tôi e rằng khó đưa bộ luật về bảo vệ nhân chứng vào chương trình làm luật năm 2010 vì chương trình này đã được Quốc hội thông qua. Chương trình làm luật 5 năm của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII cũng đã được thông qua và chương trình còn rất nặng từ nay đến cuối nhiệm kỳ nên bổ sung bộ luật này vào chương trình làm luật năm tới là rất khó. Ngoài ra, còn phải phụ thuộc vào công tác chuẩn bị vì mỗi dự án luật cần phải trình bày rõ sự cần thiết. Bộ luật bảo vệ nhân chứng có thể thấy là cần thiết nhưng chính sách, chủ trương, “phân vai” các bộ, ngành liên quan trong luật như thế nào... cần phải làm rõ. Cũng cần phải có tổng kết thực tiễn thời gian qua về vấn đề này. Vì thế, tôi cho rằng khả thi nhất là năm tới sẽ báo cáo Quốc hội để Quốc hội chuẩn bị cho nhiệm kỳ sau. Nếu được Quốc hội chấp thuận, có thể đưa ra xem xét thông qua vào năm 2011, đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Buộc phải khảo sát nhà liền kề là gây khó. Bài báo phản ánh: Như báo Pháp Luật TP.HCM đã thông tin, Bộ Xây dựng vừa ban hành Thông tư 39 hướng dẫn quản lý chất lượng xây dựng nhà ở riêng lẻ. Theo đó, trước khi sửa chữa hay xây dựng nhà, chủ hộ xây dựng cần kiểm tra hiện trạng các nhà lân cận.
Cơ cấu đô thị hiện nay cho thấy nhà liền kề chiếm tỉ trọng cực kỳ lớn. Việc thi công xây dựng các công trình nhà ở liền kề lại thường phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Xét về mục đích, quy định nói trên của Bộ Xây dựng được cho là rất tích cực trong việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Tuy nhiên, những ràng buộc trong quy định lại thiếu hợp lý, không thả thi.
Thứ nhất, việc kiểm tra nhà liền kề (bao gồm tình trạng nghiêng, nứt, thấm dột và các biểu hiện bất thường khác) có thể do chủ công trình tự thực hiện hoặc thuê tổ chức, cá nhân có năng lực thực hiện. Nhưng theo tâm lý chung, các chủ nhà lân cận khó chấp nhận việc ghi nhận hiện trạng nhà của mình theo hướng bất lợi và càng không chấp nhận việc này do chủ công trình thực hiện. Chưa kể trên thực tế, công tác kiểm tra này không đơn giản, không thể kiểm tra bằng cách quan sát bằng mắt thường hoặc ghi nhận đơn thuần bằng quay phim, chụp ảnh.... Trong rất nhiều trường hợp, việc kiểm tra đó phải do đơn vị tư vấn có năng lực thực hiện, nôm na là kiểm định. Chi phí cho công tác kiểm định hoàn toàn không nhỏ. Mặc dù không muốn rắc rối xảy ra với mình, song hầu hết chủ nhà khi sửa chữa, xây dựng lại đều muốn hạn chế đến mức thấp nhất các chi phí phát sinh, đặc biệt là những chi phí không liên quan trực tiếp đến công trình, trong đó có chi phí kiểm định trên.
Thứ hai, việc buộc các chủ nhà lân cận phải chấp nhận việc khảo sát căn nhà của mình nếu không sẽ bị xem là bất hợp tác liệu có phù hợp các quy định của pháp luật về quyền của cá nhân đối với tài sản được sở hữu hợp pháp? Ngoài ra, pháp luật về dân sự cho phép người dân được đòi bồi thường thiệt hại miễn sao có chứng cứ chứng minh. Tại sao thông tư lại phủ nhận việc này với quy định “mọi chứng cứ về hư hỏng công trình liền kề, lân cận do chủ công trình này đưa ra khi không có sự thống nhất với chủ nhà sẽ không được công nhận khi có tranh chấp xảy ra”?
Nên nhớ tất cả các công trình xây dựng đều được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Xây dựng theo nguyên tắc “ai có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Vậy có cần thiết phải đặt ra những ràng buộc nêu trên vì có thể gây khó cho không chỉ một bên chủ công trình?


File đính kèm