Trong buổi sáng ngày 24/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 23-12, kết thúc hội thảo “Những vấn đề đặt ra với giáo dục đại học ở VN”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục – Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội Lê Văn Học khẳng định, sẽ kiến nghị những vấn đề của GDĐH lên Quốc hội trong năm 2010.
Nhiều vấn đề “nóng” được quan tâm tại hội thảo như giao quyền tự chủ cho trường ĐH, quản trị tài chính, thành lập hội đồng trường trong trường ĐH, xây dựng trường ĐH vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận… sẽ được báo cáo lên Quốc hội nhằm xây dựng chính sách phù hợp cho chất lượng GDĐH phát triển, đủ sức cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập.
Ông Lê Văn Học cho rằng, cần có luật riêng cho GDĐH làm cơ sở pháp lý. Những vấn đề cụ thể như đất đai, ưu tiên vay vốn cho trường ĐH, quyền tự chủ của trường công lập và ngoài công lập chưa được giải quyết đúng mức, chưa có chế tài cụ thể bằng luật.
Báo cũng phản ánh: Ngày 23-12, Ngân hàng Thế giới (WB) đã thông qua khoản cho vay lớn nhất từ trước tới nay dành cho Việt Nam trị giá 500 triệu USD, để hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế và cải cách đầu tư công.
Ông James Adams, Phó Chủ tịch WB khu vực Đông Á - Thái Bình Dương cho biết: “Đây là một mốc quan trọng cho Việt Nam, một quốc gia đã chuyển dịch từ vị trí “quốc gia nghèo, nợ nhiều” sang vị thế một quốc gia có thu nhập trung bình trong vòng chưa đến 7 năm”. Theo WB, đây là khoản cho vay đầu tiên của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển thuộc nhóm WB chuyên cho vay lãi suất thấp nhằm giảm nghèo ở các nước có thu nhập trung bình, hoặc các quốc gia nghèo hơn nhưng có uy tín tín dụng. Đây cũng là khoản cho vay đầu tiên trong hai khoản cho vay nhằm hỗ trợ các chương trình kích cầu của Việt Nam để đối phó với khủng hoảng kinh tế.
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc WB tại Việt Nam cho biết: “Khoản cho vay được thông qua nhờ vào quyết tâm của Chính phủ Việt Nam củng cố hoạt động đầu tư công. Chất lượng phát triển của Việt Nam trong tương lai sẽ phụ thuộc vào những cải cách này”.
Các lĩnh vực được cải thiện trong khuôn khổ chương trình cải cách bao gồm rà soát về môi trường cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn công, quản lý môi trường, chuẩn bị và thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý tài chính công, khuôn khổ pháp luật cho khối tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng và giám sát, đánh giá dự án.
2. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Tại buổi tiếp Tổng thư kí ASEAN ngày 23-12, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam coi trọng và sẽ phấn đấu cao nhất để đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, là năm bản lề trong 5 năm để ASEAN xây dựng Cộng đồng vào năm 2015; đồng thời cũng là dịp kỉ niệm 15 năm Việt Nam tham gia ASEAN.
Thủ tướng cho rằng, để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, điều quan trọng hàng đầu là ASEAN phải đẩy mạnh các hành động và hiện thực hóa những bước đi và lộ trình đã xác định. Do đó, Việt Nam đã chủ trương đề xuất và được các nước đồng tình, lấy năm 2010 là năm hành động của ASEAN, với chủ đề xuyên suốt là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động”.
Năm Chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam sẽ bắt đầu bằng Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, Hội nghị Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN và Hội nghị Hội đồng Điều phối ASEAN dự kiến sẽ được tổ chức tại Đà Nẵng từ 13 đến 14-1-2010.
3. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Bộ trưởng NN&PTNT và Bộ trưởng Y tế chiều 23/12 đã thống nhất ban hành ngay Thông tư liên tịch để chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ còn “giao thoa” giữa hai cơ quan, đảm bảo triển khai có hiệu quả công tác quản lý chất lượng thực phẩm ngay từ đầu năm 2010.
Tại buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát và Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu về công tác quản lý VSATTP, ông Phát cho biết, giữa hai Bộ vẫn còn một số tồn tại và bất cập, nhất là phân công công việc chồng chéo. Bộ trưởng Cao Đức Phát lấy ví dụ mặt hàng rau, quả nhập khẩu: nếu để ăn tươi thì là sản phẩm đã thành thực phẩm thuộc trách nhiệm của Bộ Y tế nhưng nếu sử dụng làm nguyên liệu để chế biến thì thuộc trách nhiệm lại thuộc về Bộ NN&PTNT.
Trên thực tế, hiện Bộ NN&PTNT đang kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất nhưng việc chứng nhận cơ sở đủ điều kiện đảm bảo VSATTP lại là Bộ Y tế. Hơn nữa, Nghị định số 79/2008/NĐ-CP ngày 18/7/2008 quy định Bộ Y tế chủ trì thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về VSATTP đối với sản phẩm có nguồn gốc sản xuất trong nước và nhập khẩu đã thành thực phẩm lưu thông trên thị trường; Bộ NN&PTNT quản lý về VSATTP trong nhập khẩu động vật, thực vật, nguyên liệu dùng cho nuôi, trồng, chế biến hoặc tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh. Do vậy, ông Phát đề nghị hai Bộ cần thống nhất xem Bộ nào chủ trì thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Nếu giao Bộ NN&PTNT làm thì Bộ Y tế nhận "vai” phối hợp hoặc ngược lại. Trong trường hợp này, cơ quan nào đứng ra nhận cũng đều là “gánh nặng” nhưng đây là việc cấp thiết, bắt buộc phải làm ngay.
Sau khi xem xét, thảo luận, ngoài việc thống nhất sớm ban hành Thông tư liên tịch để thống nhất chỉ đạo thực hiện các nội dung nhiệm vụ còn “giao thoa”, hai Bộ trưởng cũng nhất trí các nội dung phối hợp về công tác phòng chống dịch cúm A/H5N1 trên gia cầm và cúm H1N1 trên người; công tác tổ chức Hội nghị cấp Bộ trưởng toàn cầu về cúm động vật và đại dịch, dự kiến diễn ra tại Hà Nội vào 4/2010.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong có bài ĐBSCL: Dịu sóng chồng ngoại. Bài báo phản ánh: Số cô gái ĐBSCL kết hôn với người nước ngoài đã giảm vài năm nay. Làn sóng lấy chồng ngoại một thời khuấy động vùng sông nước, có vẻ đã lắng dịu. Ở tỉnh Hậu Giang, trước đây mỗi năm có hàng ngàn cô gái lấy chồng xứ Đài, xứ Hàn, nay đã giảm hẳn. Năm 2007 là 1.873 cô, năm 2008 còn 1.308 cô và năm 2009 chỉ còn 702 cô (giảm 62,5% so với năm 2007). Ở TP Cần Thơ, năm 2009 có 388 cô lấy chồng ngoại, giảm 41% so với năm 2007. Ở tỉnh Tiền Giang, số cô gái lấy chồng ngoại cũng giảm một nửa. Năm 2007 toàn tỉnh có 418 cô thì năm 2009 chỉ còn 217 cô (giảm 48%). Một cán bộ tư pháp tỉnh Tiền Giang giải thích: “Rể ngoại dù trẻ hay già đều chỉ chọn cô dâu 8X, 9X trẻ đẹp, nhiều người còn đòi học vấn cao, qua nhiều năm địa phương cũng cạn nguồn”. Năm 2009, tỉnh Bạc Liêu có 140 cô gái lấy chồng nước ngoài, giảm 52 cô so với năm 2008 (27%) và 130 cô so với năm 2007 (48%).
Theo Sở Tư pháp tỉnh Bạc Liêu, nguyên nhân giảm mạnh một phần do có nhiều cô dâu bất hạnh, bị ngược đãi ở xứ người, thất vọng trở về. Vì vậy, nhiều cô được cảnh tỉnh, không nhắm mắt đưa chân như trước. Ở tỉnh Vĩnh Long, năm 2007 có 717 cô gái xuất ngoại thì năm 2009 chỉ có 240 cô (giảm 66,5%). Bà Lê Thanh Thủy, cán bộ Hội LHPN Vĩnh Long, cho biết, trong nhiều nguyên nhân giảm lấy chồng ngoại, thì kinh tế là chính. Đời sống được cải thiện và có nhiều cơ hội việc làm trong nước khiến nhiều cô gái không mạo hiểm với chồng ngoại nữa. Trước đây, thời điểm sốt chồng ngoại, nhiều cô làm thủ tục kết hôn, xin sao y sẵn vài bộ hồ sơ, phòng khi phải ly hôn cho thuận tiện và nhanh chóng. Không ít trường hợp tiếp tục xuất ngoại sau lần đầu thất bại.
Một cán bộ tư pháp tỉnh Tiền Giang cho biết: Ngày càng có nhiều cuộc hôn nhân có tình yêu, gái trai xứng đôi vừa lứa, có thời gian tìm hiểu nhau trước khi cưới, đám cưới được tổ chức tại nhà gái đúng lễ nghi truyền thống. Quan điểm của Sở Tư pháp Tiền Giang là không cản trở, không kỳ thị, mà cố gắng trang bị kiến thức văn hóa, pháp luật cho các cô dâu trước khi về nhà chồng. Sở Tư pháp Tiền Giang thường làm lễ trao giấy chứng nhận kết hôn cho các cặp dâu Việt chồng ngoại ở các ấp xã khá long trọng để động viên họ hướng tới hôn nhân hạnh phúc. Phường Cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt, Cần Thơ) từng được mệnh danh “đảo Đài Loan”. Bà Nguyễn Thị Huệ, Chủ tịch Hội LHPN phường cho biết, phần lớn các cô lấy chồng nước ngoài ở Tân Lộc bây giờ là qua giới thiệu của người thân, khác hẳn trước đây qua mai mối. “Bây giờ con gái Tân Lộc xuất ngoại ít nhưng chắc ăn, không còn cảnh bị bóc lột, ngược đãi nữa. Ai cũng tìm được hạnh phúc và có điều kiện giúp đỡ gia đình”, bà Huệ khẳng định.
Chủ tịch UBND phường Hà Văn Tiếu thống kê: Cả phường hiện có trên 700 cô lấy chồng nước ngoài. Rể của cù lao ở khắp Hàn Quốc, Mỹ, Canada, Úc... nhiều nhất là Đài Loan. Trong số các cô lấy chồng ngọai, có 20% không hạnh phúc, còn 80% có tiền gửi về giúp gia đình, nhiều nhà trở nên giàu có. Các hoạt động phúc lợi và xây dựng cơ sở hạ tầng, gia đình có rể ngoại đóng góp rất tích cực, phường cũng bớt được nhiều gánh nặng.
2. Báo điện tử VnMedia có bài Gần 7.000 người được nhận trở lại làm việc nhờ tư vấn pháp luật. Bài báo phản ánh: Đó là số liệu được đưa ra tại Hội thảo góp ý vào “Đề án đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của tổ chức công đoàn Việt do Nam” Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện có 46 liên đoàn lao động tỉnh, thành phố và công đoàn ngành Trung ương thành lập được các trung tâm và văn phòng tư vấn pháp luật và 569 tổ tư vấn pháp luật. Trong 5 năm (2004-2009), hệ thống các trung tâm, văn phòng tư vấn pháp luật công đoàn đã tư vấn pháp luật cho trên 178.000 người. Hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý công đoàn đã góp phần giải quyết cho 6.743 người lao động được nhận trở lại làm việc...
Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá những ưu điểm cũng như nhìn nhận các tồn tại, hạn chế trong hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của Công đoàn trong thời gian qua, đồng thời để ra nhiều giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Do vậy, để hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của công đoàn đạt hiệu quả thiết thực, cần làm tốt việc củng cố, hoàn thiện tổ chức các trung tâm, văn phòng tư vấn pháp luật của công đoàn. Cần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn làm công tác tư vấn pháp luật; tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động tư vấn pháp luật. Công đoàn làm tốt công tác phối hợp với các đoàn thể, cơ quan chức năng nhà nước trong hoạt động trợ giúp pháp lý; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, tư vấn pháp luật cho người lao động ở cơ sở...
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online trên mục Diễn đàn có bài Lại một công văn sửa nghị định. Bài báo phản ánh: Sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (năm 2005) có hiệu lực, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hết hiệu lực thi hành. Việc thành lập doanh nghiệp có vốn của nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Về việc thành lập doanh nghiệp của tổ chức, cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, khoản 3 điều 9 Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ “Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp” quy định: “Tổ chức, cá nhân người nước ngoài lần đầu tiên đầu tư thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam được thực hiện như sau: a) Trường hợp doanh nghiệp dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hơn 49% vốn điều lệ thì phải có dự án đầu tư và thực hiện đăng ký đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật về đầu tư. Trong trường hợp này, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (sau đây gọi tắt là giấy chứng nhận đầu tư);
b) Trường hợp doanh nghiệp dự định thành lập có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49% vốn điều lệ thì việc thành lập doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29-8-2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh (sau đây gọi tắt là Nghị định số 88/2006/NĐ-CP). Việc đăng ký đầu tư trong trường hợp này áp dụng theo quy định tương ứng đối với dự án đầu tư trong nước”.
Với quy định trên, nhiều doanh nghiệp có thành viên góp vốn là nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài chiếm dưới 50% vốn điều lệ đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngày 18-3-2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 1752/BKH-PC gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ban quản lý các khu công nghiệp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn về thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh trong trường hợp bên nước ngoài chiếm dưới 49% vốn điều lệ.
Công văn số 1752/ BKH-PC ghi rõ: khoản 1, điều 50 Luật Đầu tư quy định “Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” và tại khoản 3, điều 56 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư quy định: “Trường hợp nhà đầu tư góp vốn để đầu tư thì phải làm thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư”. Theo đó, khi có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn với nhà đầu tư Việt Nam thành lập doanh nghiệp liên doanh, trong đó bên nước ngoài chiếm không quá 49% vốn điều lệ thì đề nghị UBND các tỉnh và các ban quản lý yêu cầu nhà đầu tư phải có dự án đầu tư và phải làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Tại cuộc tọa đàm về Kết quả rà soát thủ tục hành chính ưu tiên (giai đoạn 1) do Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính thuộc Văn phòng Chính phủ tổ chức tại Hà Nội ngày 20-11-2009, nhiều ý kiến của các luật sư, luật gia, các nhà doanh nghiệp đã đề nghị cần chấm dứt hiệu lực của Công văn số 1752 nêu trên vì những lý do sau:
Thứ nhất, Công văn số 1752 đã công khai xóa bỏ hiệu lực của khoản 3(b) điều 9 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP. Việc dẫn chiếu khoản 1 điều 50 Luật Đầu tư và khoản 3, điều 56 Nghị định số 108/NĐ-CP để áp dụng cho trường hợp này là không đúng. Bởi lẽ, Nghị định 108/NĐ-CP ban hành ngày 22-9-2006, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ban hành ngày 5-9-2007. Như vậy, quy định của văn bản ban hành trước không thể phủ định hiệu lực của văn bản ban hành sau. Với Công văn 1752, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ giải thích như thế nào về khoản 3(b) Nghị định số 139/2007/NĐ-CP trong khi chính Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng là cơ quan chủ trì soạn thảo nghị định này?
Thứ hai, công văn 1752 hướng dẫn về thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh. Khái niệm “doanh nghiệp liên doanh” không tồn tại trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 mà chỉ tồn tại trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã hết hiệu lực. Một văn bản hướng dẫn thủ tục thành lập một loại hình doanh nghiệp không còn tồn tại nữa sao có thể có hiệu lực thi hành?
Thứ ba, Nghị định 139/2007/NĐ-CP đang có hiệu lực thi hành và tạo ra môi trường thông thoáng trong thu hút đầu tư nước ngoài. Song, công văn số 1752 ban hành và chặn đứng dòng vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào việc thành lập và nhận chuyển nhượng vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bởi lẽ, trên thực tế, không phải trường hợp nào việc góp vốn thành lập doanh nghiệp hay nhận chuyển nhượng vốn để trở thành đồng sở hữu của những doanh nghiệp đã thành lập cũng gắn liền với dự án đầu tư. Chẳng hạn, một hoặc một số nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng vốn trong một công ty TNHH đã thành lập, đang hoạt động và quản lý một khách sạn. Dự án xây dựng khách sạn này chủ doanh nghiệp Việt Nam đã lập và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Vậy, nhà đầu tư phải lập dự án gì?
Thứ tư, công văn dù của bất kỳ cấp nào cũng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, sử dụng công văn để sửa Nghị định của Chính phủ là việc làm trái luật. Hơn nữa, với Công văn 1752, nhà đầu tư nước ngoài sẽ suy nghĩ gì về tình trạng “tiền hậu bất nhất” của hệ thống pháp luật Việt Nam?
Để bảo đảm môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh, minh bạch và đúng pháp luật, nhiều ý kiến tại buổi tọa đàm nói trên đã đề nghị Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thu hồi Công văn số 1752 nêu trên.
Báo cũng có bài “Trăm đường khó cho doanh nghiệp”. Bài báo phản ánh: trong phạm vi bài viết này tác giả đề cập trở lại những vướng mắc của doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư 2006. Những khó khăn của nhà đầu tư đã được nêu “rầm rộ” trên nhiều diễn đàn, tuy nhiên những vướng mắc không có giải pháp này vẫn đang ảnh hưởng đến nỗ lực của Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước nhằm xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi.
Với tất cả nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài của chúng ta, ngay từ khi có ý định đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài đã gặp những trở ngại khi không rõ tư cách và địa vị pháp lý của mình. Thế nào là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) vẫn đang được định nghĩa ở nhiều văn bản, với cách hiểu, giải thích không thống nhất khiến cho việc áp dụng các quy định liên quan trở nên phức tạp và không đồng nhất tại các bộ, ngành, hay từng địa phương.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo điều 3.6 Luật Đầu tư được xác định gồm (1) doanh nghiệp được thành lập bởi nhà đầu tư nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc (2) doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. Như vậy nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước sẽ trở thành nhà đầu tư nước ngoài khi bên nước ngoài sở hữu trên 1% vốn thậm chí một cổ phần. Đã là “nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKKD)”. Như vậy các công ty như FPT, Pacific Airlines, PVFC... đều bị xem là nhà đầu tư nước ngoài và khi phát hành cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài sẽ phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD!?
Chưa bàn đến việc nếu các công ty trong nước có hoạt động phân phối có vốn từ nhà đầu tư nước ngoài phải xin “Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa” theo Luật Thương mại và Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12-2-2007. Bên cạnh đó, trong một thời gian dài, hàng trăm doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam, sở hữu dưới 49% vốn đã thực hiện theo thủ tục đăng ký kinh doanh lại long đong với tư cách pháp lý của mình bởi không biết áp dụng quy định nào. Khi thực hiện các thủ tục tái cơ cấu, chuyển nhượng vốn, cổ phần hay chia tách, sáp nhập bởi mọi động thái đều bị coi là “có vốn đầu tư nước ngoài” xin mời thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp GCNĐT.
Một doanh nghiệp như vậy nếu đã thực hiện rất nhiều hoạt động đầu tư kinh doanh và dự án tại Việt Nam khi tiến hành chia, tách hoặc đầu tư mở rộng thì phải xin cấp GCNĐT khi dự án đang thực hiện, thậm chí đã thực hiện xong!? Đối với các trường hợp như đã nêu, cộng với việc các bộ, ngành, địa phương có cách hiểu, hướng dẫn áp dụng khác nhau, thậm chí không biết áp dụng thế nào, rồi chờ xin ý kiến... nếu không có sự điều chỉnh các quy định liên quan, doanh nghiệp sẽ “tắc đường”, câu chuyện khởi sự của nhà đầu tư vẫn sẽ gian nan.
Theo Quyết định số 55/2009 của Thủ tướng Chính phủ ngày 15-4-2009 về tỷ lệ tham gia của Nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam và Quyết định số 88/2009 của Thủ tướng ngày 18-6-2009 về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam đều xác định nhà đầu tư nước ngoài là “tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%”. Theo hai quyết định này thì doanh nghiệp có bên nước ngoài tham gia góp vốn từ 1% đến dưới 49% sẽ không được coi là nhà đầu tư nước ngoài. Với những vướng mắc từ việc áp dụng Luật Đầu tư (có hiệu lực cao hơn, là cơ sở pháp lý cho việc ban hành hai quyết định này) như đã nêu trên thì việc áp dụng hai quyết định này vẫn tiếp tục gặp khó khăn.
Theo Quyết định số 55/2009, nhà đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại chúng. Nếu áp dụng quy định của Luật Đầu tư, tất cả những công ty niêm yết hoặc công ty có cổ phần bán ra công chúng là nhà đầu tư nước ngoài sẽ phải có dự án đầu tư để thực hiện thủ tục xin cấp GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD, rõ ràng quy định này không thể thực hiện được trên thực tế. Ngoài ra trong trường hợp các công ty này có lĩnh vực hoạt động thương mại, dịch vụ hay mua bán hàng hóa thuộc lĩnh vực hạn chế tiếp cận thị trường của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ rất khó kiểm soát và cũng không thể xin giấy phép kinh doanh theo Nghị định 23/2007 ngày 12-2-2007.
Tương tự như vậy, với Quyết định 88/2009 cho phép nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam với mức không hạn chế, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam có thể mua lại toàn bộ một công ty cổ phần hoặc TNHH mà không cần có dự án đầu tư để thực hiện thủ tục xin cấp GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD!? Quy định này có trái với Luật Đầu tư? Với những quy định vừa mở vừa khóa nêu trên, không có những sửa đổi, điều chỉnh thích hợp sẽ không thể thực hiện được trên thực tế.
Trước hết, cần hệ thống lại toàn bộ các quy định hạn chế, điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài (kể cả trực tiếp và gián tiếp) trong một nghị định thống nhất bao gồm: (i) các cam kết hạn chế, mở cửa thị trường, tỷ lệ góp vốn và hình thức đầu tư của Việt Nam với WTO, BTA và các hiệp định song phương, đa phương khác chỉ áp dụng cho DNĐTNN; (ii) các lĩnh vực đầu tư có điều kiện quy định ở các luật chuyên nghành hiện nay như lĩnh vực tác động đến quốc phòng, an ninh quốc gia, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, văn hóa thông tin, báo chí xuất bản, truyền hình, viễn thông, vận tải, bất động sản, khoáng sản, giáo dục, y tế, pháp lý...; (iii) điều kiện thành lập doanh nghiệp để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp như góp vốn, mua cổ phần, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư; (iv) các điều kiện khác phù hợp với lợi ích quốc gia trong từng thời kỳ và lộ trình mở cửa thị trường...
Trên cơ sở đó, nhà đầu tư nước ngoài có năng lực đầu tư thực sự sẽ tham chiếu các điều kiện có thể đáp ứng thực hiện thủ tục đầu tư trực tiếp hay gián tiếp để tiến hành các hoạt động đầu tư:
Thứ nhất, đối với nhà đầu tư vào lĩnh vực không có điều kiện, không bị hạn chế sẽ thực hiện đăng ký thành lập công ty như doanh nghiệp trong nước hiện nay để tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh. Cần phải nói thêm, theo lộ trình các cam kết, thì loại doanh nghiệp này sẽ tăng hàng năm.
Thứ hai, đối với nhà đầu tư vào lĩnh vực có điều kiện hoặc hạn chế đầu tư, nhà đầu tư chỉ cần căn cứ vào danh mục đó tự xác định điều kiện có thể đáp ứng mà không gặp trở ngại nào đáng kể như áp dụng các quy định hiện nay. Trường hợp có thể đáp ứng, nhà đầu tư tiến hành thủ tục đề nghị chấp thuận dự án theo trình tự, thủ tục thẩm tra đầu tư hiện nay và chi tiết tại các luật chuyên ngành song song với việc đăng ký thành lập công ty. Các cơ quan quản lý nhà nước đối chiếu, áp dụng các điều kiện đã xác định thẩm tra để quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận dự án đầu tư. Trường hợp dự án được chấp thuận, doanh nghiệp sẽ được cấp GCNĐKKD, (hoặc GCNĐKĐT đồng thời là GCNĐKKD nếu không sửa đổi quy định này trong Luật Đầu tư). Các doanh nghiệp đã đăng ký và hiện không đáp ứng điều kiện sẽ phải bổ sung, điều chỉnh trong thời hạn hợp lý. Trường hợp dự án, hoặc hoạt động đầu tư không đáp ứng điều kiện nhà đầu tư sẽ phải rút dự án đề nghị.
Thứ ba, đối với hoạt động đầu tư gián tiếp như góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp, hoặc với nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán... thì nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước thuộc đối tượng chuyển nhượng vốn, bán cổ phần, chỉ cần căn cứ vào đó để hạn chế nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong trường hợp tỷ lệ sở hữu sẽ vi phạm các điều kiện đã được xác định. Các trường hợp còn lại được giao dịch bình thường và sở hữu dưới 49% cổ phần theo quy định hiện nay.
Để có một cuộc “đại phẫu” về mặt thủ tục đầu tư cũng không thể một sớm một chiều nhưng phải có những “Đề án 30” trong thủ tục đầu tư để giải quyết các tồn tại, tạo một hành lang ổn định, thuận lợi tận dụng cơ hội để đột phá trong việc thu hút đầu tư sau khủng hoảng kinh tế, thiết nghĩ là việc cần làm ngay.