I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang VnEconomy có bài Nhận định kinh tế - xã hội của Chính phủ bị xem là “hồng”. Bài báo phản ánh: Tại phiên họp toàn thể của Ủy ban Kinh tế Quốc hội sáng 14/5, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cao Viết Sinh cho biết, báo cáo bổ sung tình hình hình kinh tế xã hội năm 2011 và triển khai kế hoạch năm 2012 của Chính phủ được Ủy ban thẩm tra tại đây là bản báo cáo chính thức trình Quốc hội. Bản báo cáo này đã tiếp thu ý kiến tại cuộc họp thường trực Ủy ban Kinh tế mở rộng, có sự tham dự của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, sẽ không có bổ sung gì nữa, ông Sinh nói.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, cần phải có tiếp thu, chỉnh sửa, không chỉ ở những con số “vênh” với các báo của các bộ, ngành. Mà còn ở nhận định, phân tích đánh giá tình hình và xác định giải pháp.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sỹ Kiêm đề nghị bỏ hai chữ “tích cực” tại phần đánh giá chung “tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2012 đã có chuyển biến, đạt được những kết quả tích cực bước đầu, đúng hướng” ở báo cáo của Chính phủ. Đã có chuyển biến thì đúng rồi nhưng tích cực thì chưa, nhìn vào phần “tuy nhiên” thì sẽ thấy tình hình ngược lại với nhận xét trên, ông Kiêm so sánh và điểm mặt các “khuyết điểm” được nêu tại chính báo cáo. Đó là lãi suất còn ở mức cao, dư nợ tín dụng giảm, tăng trưởng công nghiệp thấp, tồn kho tăng cao, số doanh nghiệp ngừng sản xuất hoặc giải thể cao, tốc độ tăng nhập khẩu giảm mạnh ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và sản xuất, kinh doanh... Nhấn mạnh là chỉ căn cứ vào số liệu tại báo cáo thôi, ông Kiêm nhận xét, “nhìn các chỉ tiêu này mà bảo là tích cực thì nghe chướng, tích cực sao còn một loạt vấn đề kinh khủng như vậy”.
Nhấn mạnh yêu cầu tìm lời giải cho bài toán khó của quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát của năm 2012, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Tp.HCM, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Trần Du Lịch quan ngại về nguy cơ trì lạm nếu tăng trưởng quý 2 chỉ được khoảng 4,5% như dự báo của Chính phủ. Bởi, CPI giảm có nguyên nhân rất quan trọng là do sức mua giảm.
Theo một số phân tích mức tăng trưởng 6 - 6,5% là rất khó, vậy từ 5,5 - 6% có được không, và tăng trưởng mức đó thì CPI ở cỡ nào, vấn đề quan trọng hiện nay cần bàn, theo đại biểu Lịch chính là mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và tài khóa. Bởi thực tế ngân hàng thừa tiền nhưng tín dụng không tăng vì ngân hàng đang tập trung giải quyết vấn đề nợ xấu. Tuy nhiên, báo cáo lại chưa có giải pháp để có thể tăng tín dụng 15 – 16%, đảm bảo mức tăng trưởng hợp lý nhưng vẫn không làm tăng nợ xấu.
Vẫn liên quan đến mức tăng trưởng hợp lý để đảm bảo an sinh xã hội và không làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, đại biểu Lịch nói, ông không tin vào con số gần 1,6 triệu người được tạo việc làm của năm 2011, vì "kinh tế thế nào cũng tạo việc làm chừng đó". Cũng không tin vào các con số liên quan đến giảm nghèo, song vị đại biểu này lại đặc biệt nhấn mạnh tái nghèo, giảm nghèo đang là vấn đề rất lớn cần được quan tâm.
Cho rằng không thể yên tâm với các con số từ báo cáo (theo báo cáo của Chính phủ năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,44% - PV), ông Lịch đề nghị Quốc hội cần ưu tiên ngân sách cho vấn đề giảm nghèo. Ngay đầu kỳ họp thứ ba tới đây, Chính phủ nên trình Quốc hội ngay một số giải pháp mạnh liên quan đến thuế, đến an sinh xã hội để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nhân dân ở tầm Quốc hội quyết để triển khai từ tháng 6, bởi “thực tế cuộc sống đang đòi hỏi, không chờ chúng ta bàn lâu được”, đại biểu Lịch sốt ruột đề nghị.
Cũng chỉ ra không ít số liệu "chỏi nhau", Phó chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, ông Danh Út tỏ rõ sự băn khoăn số liệu giảm nghèo sau khi đi giám sát thực tế thấy "căng lắm". Cả 2011 có 21 tỉnh xin cứu đói, năm nay mới 4 tháng có 33 tỉnh xin gạo cứu đói, ông so sánh.
Đề nghị Chính phủ phân tích sâu hơn nguyên nhân chủ quan của những yếu kém, một số ý kiến khác cũng có nhận xét, báo cáo "hồng" hơn thực tế.
"Hứa" sẽ tiếp thu và chính xác hóa lại một số số liệu, song Thứ trưởng Cao Viết Sinh cũng "thanh minh" rằng dùng từ "tích cực bước đầu" cho cả nền kinh tế thì hơi hồng, nhưng đánh giá này là dựa vào mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát của Quốc hội.
Trong bối cảnh khó khăn của quý 1/2012 duy trì được tăng trưởng 4% là cố gắng rất lớn rồi, ông Sinh tái khẳng định.
2. Trang vtv.vn có bài “Quy hoạch sân golf và vấn đề kinh tế sân golf”. Bài báo đưa tin: Bộ Kế hoạch Đầu tư vừa tổ chức tọa đàm về “Quy hoạch sân golf và vấn đề kinh tế sân golf”. Đông đảo các chuyên gia trong ngành, các chủ đầu tư trong và ngoài nước đã tham dự.
Trong những năm gần đây, việc phát triển sân golf đã tạo ra những ý kiến trái chiều: Ý kiến ủng hộ thì cho rằng, sân golf góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển dulịch, cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết việc làm cho người dân địa phương. Các ý kiến phản đối thì lại cho rằng, việc phát triển quá nhiều sân golf đang gây lãng phí đất nông nghiệp, ô nhiễm môi trường và gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Theo Chỉ thị số 11 của Thủ tướng về việc tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch sân golf, sẽ không có chuyện mở rộng quy hoạch sân golf đến năm 2020 như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất. Hiện tại, toàn quốc đã có 29 sân golf đi vào hoạt động, tới thời điểm này đã giải ngân được 224,1 triệu USD và giải quyết được khoảng hơn 10.000 lao động.
Tại hội thảo, đã có nhiều ý kiến trái chiều được bày tỏ và tranh luận: Có đại biểu băn khoăn về việc tại sao trước đây đã có quyết định cho tạm dừng 79 dự án sân golf thì tới đầu năm nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại đề xuất đưa thêm 12 sân golf vào? Có đại biểu lại cho rằng, căn cứ vào đâu mà bản Quy hoạch đến năm 2020 chỉ duyệt có 90 sân golf, như vậy đã là đủ chưa so với các nước trong khu vực?
Theo ông Hoàng Ngọc Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tới đây sẽ có các đoàn kiểm tra các dự án sân golf đã có trong quy hoạch nhưng chưa triển khai thực hiện, nếu vi phạm theo giấy phép đầu tư thì sẽ thu hồi.
Trang này cũng có bài Chính thức mời WHO xem xét “bệnh da lạ”. Bài báo phản ánh: Tại buổi họp báo về hội chứng viêm da dày sừng, Bộ Y tế cho biết đã chính thức mời Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Cơ quan kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ tham gia nghiên cứu căn bệnh này.
Cũng trong buổi họp báo chiều 14/5, ông Nguyễn Thanh Long, Thứ trưởng Bộ Y tế thông báo: Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân tại huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi không phải là bệnh truyền nhiễm và chưa tìm thấy bằng chứng lây từ người sang người. Tuy nhiên, nguyên nhân gây ra hội chứng này vẫn chưa có kết luận cuối cùng.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân có bài Nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở Bắc Hà. Bài báo phản ánh: Sau một thời gian dài thưa vắng, nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Hà (Lào Cai) đang xuất hiện trở lại và có chiều hướng gia tăng. Ðây là một nguyên nhân làm suy giảm chất lượng dân số ở địa phương.
Theo thống kê của hai cơ quan là Trung tâm DS - KHHGÐ và Phòng Tư pháp huyện Bắc Hà, đến nay, huyện này có 108 cặp vợ chồng tảo hôn (không đủ tuổi, tự về ở với nhau, không đăng ký kết hôn), 12 cặp hôn nhân cận huyết thống. Trong đó nhiều nhất là ở các xã: Thải Giàng Phố, Lùng Cải, Bản Liền, Hoàng Thu Phố, Cốc Lầu... Nguyên nhân là do đời sống kinh tế khó khăn, trình độ dân trí và nhận thức pháp luật hạn chế, hủ tục lạc hậu trói buộc. Rất nhiều phụ nữ bị lừa gạt sa vào tệ nạn xã hội hoặc tự bỏ đi nơi khác, những yếu tố này tác động tâm lý của các phụ huynh dẫn đến tình trạng cha mẹ cho các em kết hôn sớm hoặc hôn nhân cận huyết thống. Nguy hại nhất là hôn nhân cận huyết thống, vì nó làm suy giảm giống nòi, giảm chất lượng dân số. Trẻ em sinh ra từ hôn nhân cận huyết thống thường mắc các bệnh di truyền như: mù màu, bạch tạng, da vảy cá, còi cọc, đao hoặc kém phát triển về trí não...
Mặt khác, do còn có vướng mắc trong chế tài pháp luật, gây khó khăn cho việc xử lý tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Trưởng phòng Tư pháp huyện Bắc Hà Mã Ngọc Dung, cho biết, đối với trường hợp tảo hôn chỉ có thể áp dụng xử phạt hành chính, mức cao nhất là 200 nghìn đồng theo thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã, nên không đủ sức răn đe. Còn Ðiều 148, Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 quy định về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn: Người nào có một trong các hành vi sau đây đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm: Tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn; cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của tòa án buộc chấm dứt quan hệ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, các cặp tảo hôn đều không trình báo đăng ký kết hôn mà tự về ở với nhau. Còn dù biết là vợ chồng tảo hôn nhưng tòa án cũng không có căn cứ để xử ly hôn vì không có đơn của vợ hoặc chồng. Ðây là những vướng mắc cần khắc phục để nâng cao hiệu lực pháp luật, nhằm phòng, chống nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng cao hiệu quả.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Góp ý sửa đổi Luật Luật sư: Hạn chế miễn thời gian đào tạo nghề. Bài báo phản ánh: Một điều tra viên có thể giỏi trong điều tra hình sự nhưng các lĩnh vực khác thì làm sao rành rẽ để có thể hành nghề ngay? Nên miễn thời gian đào tạo nghề luật sư cho những ai? Đối với nghề luật sư, uy tín và đạo đức nghề nghiệp có vai trò như thế nào? Đó là những vấn đề gây chú ý tại hội thảo góp ý sửa đổi Luật Luật sư do Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM vừa tổ chức.
Theo Thẩm phán Vũ Phi Long (Phó Chánh tòa Hình sự TAND TP.HCM), việc liệt kê đối tượng được miễn thời gian đào tạo nghề như dự thảo là quá nhiều và mang tính… “mặt trận”. Giới luật sư đều muốn vị thế của mình được nâng cao, địa vị pháp lý được coi trọng thì bắt buộc họ phải khẳng định mình bằng việc đào tạo cơ bản. Tại sao khi họ muốn làm các chức danh tư pháp khác thì phải đào tạo khó khăn mà trở thành luật sư lại thông thoáng thế? Chưa kể nếu bị lạm dụng thì việc trở thành luật sư sẽ quá dễ dàng. Từ đó, ông Long đề xuất phải siết chặt lại việc miễn thời gian đào tạo nghề luật sư. Chẳng hạn như điều tra viên, dù họ được đào tạo chuyên sâu để điều tra hình sự nhưng các lĩnh vực khác như chứng khoán, dân sự… thì làm sao họ rành rẽ? Hoặc như thẩm phán, kiểm sát viên buộc phải nghỉ việc vì cơ quan kỷ luật do vi phạm pháp luật (nhưng chưa đến mức xử lý hình sự) thì ưu tiên miễn thời gian đào tạo nghề và nhận họ làm luật sư ngay rõ ràng là không ổn.
Một chuyện khác cũng được quan tâm không kém là uy tín, đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Đây cũng là khởi nguồn cho một vấn đề cũ mà đến nay vẫn còn đang gây tranh cãi: Có nên cho người từng bị kết án làm luật sư hay không?
Theo dự thảo, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xóa án tích về tội phạm do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng do cố ý; đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, kể cả trường hợp đã được xóa án tích thì không được hành nghề luật sư.
Phản đối quy định này, luật sư Nguyễn Văn Hậu (Đoàn Luật sư TP.HCM) nói xét về một góc độ nào đó, việc đóng cửa nghề hoàn toàn đối với một số người đã từng có “vết” là vi hiến. Bởi lẽ theo tinh thần của Hiến pháp, người đã được xóa án tích coi như chưa bị kết án và có đầy đủ quyền, nghĩa vụ như công dân bình thường. Nó cũng vênh với pháp luật hình sự (đã xóa án thì coi như chưa phạm tội) và pháp luật về lý lịch tư pháp (khi được xóa án thì trong lý lịch tư pháp ghi “chưa có án tích”). Nghề luật sư cũng như nhiều nghề khác đều cần phải có đạo đức tốt nhưng không vì lý do đó mà ngăn cản những người đã được xóa án.
Tuy nhiên, giảng viên Lê Vũ Nam (khoa Luật Trường ĐH Kinh tế-Luật TP.HCM) lại ủng hộ dự thảo. Ông Nam lý giải: Việc đã từng vi phạm pháp luật là một tiêu chí quan trọng đánh giá đạo đức của một con người. Chuyện đã từng có án tích phải được ghi nhận vì uy tín đã bị ảnh hưởng. Hơn nữa, nghề luật sư là nghề bảo vệ công lý, lẽ phải nên trước khi hành nghề, luật sư phải từng là người tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Luật sư muốn sống được bằng nghề của mình thì cần nhất là uy tín, khách hàng sẽ nghĩ sao khi biết luật sư của mình từng có tiền án? Đó là chưa kể luật sư ấy đã từng phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý thì làm sao có thể như người sống lương thiện chưa từng phạm tội được?
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Bắt cai nghiện nhầm còn hơn bỏ sót? Bài báo phản ánh: Hôm qua (4/5), Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản qui phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) Lê Hồng Sơn cho biết: Quy chế cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện của UBND TP.Đà Nẵng có nguy cơ “dễ dẫn đến oan sai, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” vì không phù hợp với qui định của pháp luật về phòng chống ma túy hiện hành.
Trước đó, ngày 15/5, Sở Tư pháp TP.Đà Nẵng đã phải trả lời về quá trình thẩm định, tự kiểm tra và xem xét tính hợp pháp của Quy chế cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện trên địa bàn TP.Đà Nẵng (ban hành kèm theo Quyết định số 40/2010/QĐ-UBND ngày 3/12/2010 của UBND TP.Đà Nẵng).
Để bảo đảm quyền lợi của công dân, Cục Kiểm tra Văn bản qui phạm pháp luật có công văn (ngày 3/5) đề nghị Sở Tư pháp Đà Nẵng tổ chức việc xem xét quá trình thẩm định, tự kiểm tra và tham mưu cho UBND TP.Đà Nẵng sửa đổi qui định về đối tượng đưa vào trung tâm cai nghiện và quản lý sau cai nghiện cho phù hợp với pháp luật hiện hành, đảm bảo tính hợp pháp của quy chế.
4. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Đường dây bán đất “ảo” gây chấn động Bình Dương. Bài báo phản ánh: Từ hàng loạt đơn tố cáo của nạn nhân, sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bắt tạm giam Nguyễn Thanh Bình cùng ba “chiến hữu” chạy xe ôm: Lâm Văn Dũng, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Sơn. Một chủ lò gạch là Hồ Tấn Phong cũng bị khởi tố tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ông Nguyễn Văn On (SN 1964, ngụ P.Phú Mỹ, thị xã Thủ Dầu Một) mang hai sổ đỏ thế chấp vay 80 triệu đồng, lãi suất 10%/tháng. Là chỗ quen biết, Bình hứa giúp ông On vay 200 triệu đồng từ ngân hàng với lãi suất rất “mềm”. Tin lời, ông On đưa cho Bình hai sổ đỏ kèm theo hộ khẩu, CMND và giấy kết hôn của ông On (với bà Lý Xuân). Bình không đến ngân hàng mà lấy tiền cá nhân đưa cho ông On ba lần, tổng cộng 110 triệu đồng. “Ảo thuật” đầy đủ hồ sơ, làm giả “hợp đồng ủy quyền” của vợ chồng ông On cho Bình được quyền định đoạt phần diện tích đất trong hai sổ đỏ, Bình mang đến Phòng công chứng số 3, TPHCM công chứng ngày 23-9-2008. Ngày 19-12-2008 Bình đến Phòng công chứng số 1, tỉnh Bình Dương ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất của hai sổ đỏ cho bà Nguyễn Thị Ngọc Yến (SN 1954, ngụ P. Bình Trị Đông, Q. Bình Tân, TPHCM) lấy 1,8 tỷ đồng. Bà Yến đến UBND thị xã Thủ Dầu Một làm thủ tục sang tên vào ngày 4-5-2009 thì bị vợ chồng ông On ngăn chặn và làm đơn tố cáo.
Sau khi Bình sa lưới, hàng chục nạn nhân khác tiếp tục làm đơn tố cáo gửi Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương cho biết sẽ làm rõ từng đơn tố cáo của các nạn nhân để xử lý sau. Riêng tám nạn nhân bị lừa chiếm đoạt hơn 6,8 tỷ đồng đã được cơ quan điều tra kết luận, Viện kiểm sát tỉnh Bình Dương ra cáo trạng ngày 9-4-2012. Dự kiến vụ án sẽ được TAND tỉnh Bình Dương đưa ra xét xử ngày 23-5-2012.
Vụ án sắp được đưa ra xét xử nhưng còn nhiều vấn đề mang tính mấu chốt chưa được làm rõ khiến dư luận quan tâm. Cụ thể như những đối tượng cùng Bình và đồng bọn làm giả hàng loạt tài liệu rất nguy hiểm cho xã hội vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật; trách nhiệm của các phòng công chứng nhà nước, văn phòng công chứng tư trong việc ký công chứng có dấu hiệu giúp sức, tạo điều kiện cho Bình chiếm đoạt tài sản; trách nhiệm của cán bộ UBND huyện Tân Uyên, UBND thị xã Thủ Dầu Một trong việc cấp sổ đỏ “ảo”...
5. Báo điện tử Infonet có bài Hành trình gian nan đòi nợ bằng “thi hành án dân sự”. Bài báo phản ánh: Vừa qua, Báo điện tử Infonet đã nhận được đơn kêu cứu của tập thể cổ đông, người lao động tại Công ty Cổ phần Vận tải biển Trường Xuân (Cty Trường Xuân) có trụ sở tại Số 219 Khu 8 Thị trấn Diêm Điền - Thái Thụy - Thái Bình "tố" Công ty CP CNTT Hải Dương (Khu 10 Phường Ngọc Châu- Tp Hải Dương) chiếm dụng không chịu trả số tiền gần 6 tỉ đồng, khiến công ty Trường Xuân và người lao động lâm vào cảnh khó khăn. Sự việc kéo dài đã 5 năm, trải qua nhiều lần giải quyết trong đó có quyết định giải quyết của tòa và quyết định thi hành án nhưng Công ty CP CNTT Hải Dương (Công ty Hải Dương) vẫn chây ì chưa chịu trả.
Sự việc bắt đầu từ Hợp đồng số 234/HĐKT ngày 26/9/2007 giữa Công ty Hải Dương và Công ty Trường Xuân. Theo đó, Công ty Trường Xuân đặt đóng mới một tàu thủy 2.000 tấn với giá hơn 14 tỉ đồng. Đến tháng 4 năm 2008, công ty Trường Xuân đã thanh toán cho Công ty Hải Dương tổng cộng 7,7 tỉ đồng. Nhưng do, phía Công ty Hải Dương chậm tiến độ không thực hiện hợp đồng, công ty Trường Xuân đòi hủy hợp đồng yêu cầu Công ty Hải Dương hoàn trả tiền. Đến tháng 2/2010 Công ty Hải Dương đã chuyển trả nhiều đợt nhỏ giọt với tổng cộng 4,5 tỉ đồng. Số tiền theo dư nợ còn 3,2 tỉ đồng.
Sau đó, Công ty Trường Xuân đã nhiều lần đòi nợ nhưng vẫn không được, cực chẳng đã Công ty Trường Xuân phải đệ đơn lên TAND TP. Hải Dương- Tỉnh Hải Dương kiện đòi nợ và đòi những chi phí phát sinh do hợp đồng không thực hiện, phạt hợp đồng. Sau một thời gian thụ lý, Tòa án đã tiến hành hòa giải thành công và ra Quyết định số 05/2010/QDST-KDTM ngày 30/09/2010 công nhận việc này. Theo Quyết định này, Công ty Hải Dương sẽ phải trả Công ty Trường Xuân số tiền là hơn 5 tỉ đồng. Trong quyết định ghi rõ, nếu Công ty Hải Dương chậm trả thời gian tính lãi suất bắt đầu tính từ ngày người được thi hành án có yêu cầu.
Ngay khi có quyết định tại tòa án, công ty Trường Xuân đã gửi đơn đến Chi Cục Thi hành án Dân sự TP. Hải Dương. Ngày 05/11/2010, Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự Tp Hải Dương, Phạm Quang Hạo đã ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, từ đó đến nay đã hơn 7 tháng, quyết định đó vẫn chỉ nằm trên giấy chưa được thực thi.
Ngay sau đó, Công ty Trường Xuân đã gửi 2 văn bản đến Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam- Vinashin, Tổng công ty CNTT Bạch Đằng (Công ty mẹ có vốn trực tiếp tại Công ty Hải Dương), nhưng câu trả lời vẫn là: “Công ty Hải Dương là pháp nhân độc lập nên phải tự chịu trách nhiệm về việc ký kết và thực hiện hợp dồng và quyết định thi hành án”. Tổng công ty CNTT Bạch Đằng còn viện ra những khó khăn của công ty CNTT Hải Dương và cho biết: “Hiện Công ty Hải Dương đang xây dựng phương án khôi phục hoạt động tàu Vinashin Orient, khi tàu đi vào hoạt động có nguồn thu, Tổng công ty sẽ chỉ đạo trả nợ.” Theo ông Vũ Đức Then, Giám đốc công ty Trường Xuân, thì ngày đó xa vời lắm, khi đó công ty ông đã phá sản mất rồi.
Theo một số chuyên gia pháp luật, điểm bất hợp lý của việc thi hành án dân sự hiện nay chính là người được thi hành án phải tự mình xác định người phải thi hành có đủ điều kiện thi hành án hay không. Nhưng việc xem xét, thúc đẩy thi hành án lại là quyền của chấp hành viên thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, nếu xét về điều kiện thi hành án thì công ty Hải Dương đang hoạt động bình thường và có doanh thu, có đơn hàng. Bằng chứng là tháng 2/2011, trên trang web của Tổng công ty CNTT Bạch Đằng đăng thông tin về Công ty Hải Dương đồng loạt đóng mới và sửa chữa tàu. Nhưng không hiểu vì lý do gì, việc đòi tiền kéo dài gần 5 năm, đã có quyết định thi hành án 7 tháng mà công lý vẫn chưa được thực thi?
III. CÁC THÔNG TIN KHÁC
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đề án VKSND khu vực ở TP.HCM: Phải tăng khoảng 1.000 biên chế mới. Bài báo phản ánh: VKSND TP.HCM đang hoàn tất đề án xây dựng VKSND khu vực theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
Theo đề án, toàn ngành VKSND TP sẽ cần 1.750 biên chế, trong đó cấp TP là 350 người (280 kiểm sát viên); cấp khu vực là 1.400 người (1.120 kiểm sát viên). Trong khi đó, tính đến ngày 15-3-2012 thì VKSND TP mới được cơ quan quản lý giao 791 biên chế (trên thực tế toàn ngành hiện chỉ mới có 707 biên chế, thiếu 84 người vì nhiều lý do khác nhau).
Về mô hình VKSND khu vực, đề án đưa ra hai phương án: Phương án một là sẽ có 24 VKSND khu vực, mỗi cấp huyện là một khu vực; phương án hai là 23 khu vực (chỉ sáp nhập hai huyện Nhà Bè và Cần Giờ vào với nhau). Về cơ cấu tổ chức bộ máy, VKSND khu vực được bố trí theo hướng phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng (gồm bộ phận thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; bộ phận tham mưu, tổng hợp, tổ chức, thống kê tội phạm; bộ phận hậu cần, tài chính, văn phòng). Mỗi VKSND khu vực sẽ có từ ba đến năm phòng, dưới các phòng là các bộ phận nghiệp vụ kiểm sát và nghiệp vụ khác.
Ông Phạm Văn Gòn, Viện trưởng VKSND TP.HCM, cho biết để đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành thì việc tăng nhân sự theo đề án là rất cần thiết. Bởi lẽ với cơ cấu nhân sự và chất lượng cán bộ, công chức như hiện tại thì không thể đáp ứng được chất lượng công tố theo mô hình VKSND khu vực. Về mô hình VKSND khu vực, ông Gòn cho biết VKSND TP đang phối hợp với TAND TP để thống nhất lại số lượng các khu vực cụ thể, hai phương án trong đề án chỉ là dự tính ban đầu. Cạnh đó, một vấn đề cũng tiếp tục được nghiên cứu kỹ là mối quan hệ giữa VKSND khu vực với cơ quan điều tra cấp quận, huyện.
Về mặt cơ sở vật chất, hiện đã có 15 VKSND quận, huyện tại TP xây mới trụ sở, một đơn vị đang xây, ba đơn vị đang chuẩn bị xây, ba nơi đang chuẩn bị đầu tư, chỉ còn hai đơn vị dùng trụ sở tạm. Tuy nhiên, các trụ sở này quy mô đều còn nhỏ nên khi trở thành VKSND khu vực thì cần phải mở rộng diện tích hoặc xây mới lại.