I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin: Ngày 8-5, tại Hà Nội, phía Mỹ đã công bố thiết kế sơ bộ hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường bằng phương pháp khử hấp thu nhiệt sẽ được sử dụng để làm sạch dioxin, khắc phục hậu quả chất da cam tại khu vực sân bay Đà Nẵng. Dự tính tổng chi phí cho dự án này khoảng 43 triệu USD.
Tại Hội thảo xem xét lần đầu thiết kế kỹ thuật công nghệ khử hấp thu nhiệt được đề xuất để xử lý chất da cam/dioxin tại sân bay Đà Nẵng, ông Donald Steinberg, Phó Giám đốc toàn cầu Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho biết, phương pháp kỹ thuật khử hấp thu nhiệt hay còn gọi là IPTD là một công nghệ tiên tiến được áp dụng ở Mỹ, châu Âu và châu Á để làm sạch các bãi chất thải nguy hại và bảo đảm môi trường sạch cho hàng triệu người và cho các thế hệ sau.
Tháng 9-2009, USAID và văn phòng 33 ký bản ghi nhớ thiết lập khung hành động cho dự án sân bay Đà Nẵng. Từ tháng 10-2009 đến tháng 4 vừa qua, đã có ba đợt lấy mẫu để đánh giá sân bay Đà Nẵng và các kỹ thuật xử lý. Trong khoảng thời gian này, đã có 55 cuộc hội thảo với các bên liên quan.
Tháng 6-2010, USAID đã tiến hành đánh giá môi trường tại sân bay Đà Nẵng và xem xét một số công nghệ phù hợp để xử lý ô nhiễm ở đây. Tiêu chí lựa chọn là công nghệ phải an toàn và hiệu quả nhất để đất bị nhiễm dioxin trở nên vô hại. Và phương pháp khử hấp thu nhiệt đã được lựa chọn.
Chương trình Xử lý môi trường và chăm sóc y tế của USAID tập trung hỗ trợ tẩy độc các khu vực nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng, nơi lưu trữ chất da cam/dioxin trong chiến tranh Việt Nam và chăm sóc y tế cho cộng đồng dân cư gần đó. Tới nay, Quốc hội Hoa Kỳ đã cung cấp 34,9 triệu USD cho hoạt động tẩy độc môi trường và 6,4 triệu USD cho chăm sóc y tế.
Ngoài sân bay Đà Nẵng, sau chiến tranh, sân bay Biên Hòa và Phù Cát cũng được coi là những “điểm nóng” dioxin do tồn dư hóa chất trong đất. Đại diện USAID cho biết sẽ tiếp tục hỗ trợ xây dựng Việt Nam trong việc xử lý môi trường tại các địa bàn này.
2. Báo Quân đội nhân dân Online đưa tin: Sáng 8-5, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã tổ chức họp báo giới thiệu các hoạt động ngày môi trường thế giới 5-6 và Năm Quốc tế về năng lượng bền vững 2012.
Tại buổi họp báo, đại diện Bộ TN&MT cho biết, Liên Hợp Quốc đã tuyên bố năm 2012 là Năm Quốc tế về Năng lượng bền vững, trong đó ghi nhận “việc tiếp cận với các dịch vụ năng lượng hiện đại với giá cả phải chăng ở nước ta đang phát triển là điều cần thiết cho việc đạt được các mục tiêu phát triển toàn cầu, trong đó có các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Phát triển bền vững”. Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc lựa chọn chủ đề Ngày Môi trường thế giới 5-6-2012 là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của Bạn”, nhấn mạnh rằng, để xây dựng nền Kinh tế Xanh thì chúng ta cần suy nghĩ lại về cách phát triển kinh tế nếu muốn tạo ra một tương lai tươi sáng. Các hoạt động quốc tế kỷ niệm Ngày Môi trường thế giới năm nay được tổ chức tại Rio de Janeiro, Braxin chỉ vài tuần trước khi diễn ra Hội nghị Rio +20 (từ ngày 20 đến 26-6-2012).
3. Báo Dân trí có bài Thanh tra Chính phủ đánh giá vụ thu hồi đất tại Hà Nam phức tạp. Bài báo cho biết: Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ cho thấy, việc khiếu nại của gia đình ông Lê Hồng Ngọc, trú tại xóm 2 thôn Lão Cầu, xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là vụ việc phức tạp.
Ngày 8/4/2011, ông Nguyễn Văn Thanh - Phó Tổng Thanh tra Chính phủ ký công văn số 759/BC-TTCP báo cáo Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng nêu rõ:
Từ 2 năm nay, ông Lê Hồng Ngọc và con gái là Lê Thị Anh trú tại thôn Lão Cầu, xã Tân Tiên, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam rất nhiều lần gửi đơn đến các cơ quan Trung ương, đến Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan ngôn luận và trực tiếp nhiều lần đến Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước với thái độ bức xúc khiếu nại việc năm 2009 địa phương giải tỏa thu hồi 5.038m2 tại xứ đồng Leo Bãi Cát, thôn Lão Cầu, xã Tân Tiên để xây dựng tuyến đường trục xã Tân Tiên, nhưng việc đền bù hỗ trợ giải tỏa thực hiện không đúng chính sách.
Vụ việc khiếu nại của gia đình ông Lê Hồng Ngọc đã được UBND huyện Duy Tiên và UBND tỉnh Hà Nam ban hành quyết định giải quyết. Cả 2 quyết định của UBND huyện Duy Tiên và UBND tỉnh Hà Nam đều bác đơn khiếu nại của ông Ngọc.
Theo ông Ngọc, việc UBND tỉnh Hà Nam căn cứ lý do giao khoán không đền bù cho gia đình ông là không thỏa đáng vì không có hợp đồng nào thể hiện việc giao khoán. Trong khi đó hàng năm gia đình ông Ngọc vẫn nộp thuế nông nghiệp cho phần diện tích trồng lúa 4,68ha và nộp nông sản cho hợp đồng giao thầu diện tích ao 5,7ha.
Đã nhiều lần gia đình ông Ngọc gửi đơn khiếu nại tới Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Trung ương. Các cơ quan Trung ương đã có nhiều văn bản gửi về địa phương đề nghị giải quyết, nhưng đến nay chưa được giải quyết dứt điểm.
Qua kiểm tra sơ bộ tại địa phương, Thanh tra Chính phủ nhận thấy việc khiếu nại của gia đình ông Ngọc là vụ việc phức tạp; gia đình thường xuyên đi cùng với đoàn công dân xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đến các cơ quan Trung ương khiếu nại.
Để giải quyết dứt điểm vụ việc trên, Thanh tra Chính phủ kính báo cáo và kiến nghị Phó Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Hà Nam và các cơ quan chức năng thành lập đoàn kiểm tra xem xét, giải quyết và trả lời công dân chấm dứt khiếu nại.
Mới đây, ngày 3/4/2012, ông Mai Tiến Dũng, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam đã ban hành công văn số 125/GM-UBND gửi Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ về làm việc để UBND tỉnh Hà Nam báo cáo cụ thể vụ việc khiếu nại trên.
Trước đó, ngày 15/3/2012, Văn phòng Chính phủ có công văn số 1655/VPCP-KNTN gửi các Bộ ngành liên quan giải quyết việc khiếu nại của ông Lê Hồng Ngọc.
Cụ thể: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ và Văn phòng Chính phủ kiểm tra, kết luận khiếu nại; việc giải quyết khiếu nại của ông Lê Hồng Ngọc và tình trạng đơn, thư khiếu nại ở xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; tổ chức đối thoại công khai; báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Trao đổi với PV Dân trí vào ngày 6/5, ông Lê Hồng Ngọc cho biết, mặc dù đã gần 2 tháng trôi qua kể từ khi Văn phòng Chính phủ ban hành văn bản trên, gia đình ông vẫn chưa hề nhận được kết quả giải quyết vụ việc. Hiện gia đình ông Ngọc đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ pháp lý liên quan đến vụ việc để sẵn sàng cung cấp đến các cơ quan chức năng làm sáng tỏ vụ việc này.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng trong thi hành án. Bài báo đưa tin: Ngày 8-5, Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) đã tổ chức hội nghị sơ kết sáu tháng đầu năm 2012.
Theo báo cáo, sáu tháng đầu năm, ngành thi hành án đã thụ lý gần 450.000 việc. Kết quả thi hành xong gần 150.000 việc.
Báo cáo nêu công tác thi hành án dân sự vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể, việc xây dựng các đề án, văn bản còn chậm. Công tác quản lý, điều hành có lúc có nơi còn chưa sâu sát, kịp thời. Kỷ luật, kỷ cương trong toàn ngành còn nhiều hạn chế; cấp dưới không chấp hành chỉ đạo của cấp trên… Ngày càng có nhiều đương sự lợi dụng quyền công dân khiếu nại nhiều lần, khiếu nại vượt cấp nhằm cản trở thi hành án. Một số vụ việc phức tạp kéo dài liên quan đến nhiều bộ, ban ngành nên cơ quan thi hành án địa phương chưa thể dứt điểm.
Tại hội nghị, nhiều lãnh đạo cơ quan thi hành án địa phương cho rằng cần giải quyết tình trạng án tồn đối với đương sự chấp hành án tù mà không có điều kiện thi hành án. Tình trạng chấp hành viên, lãnh đạo cơ quan thi hành án bị khởi tố có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, cần phân tích rõ nguyên nhân, có biện pháp phòng tránh, đánh giá đầy đủ công tác phòng, chống tham nhũng trong thi hành án, xác định rõ các khâu dễ phát sinh tham nhũng.
Bên cạnh đó, một số ý kiến còn cho rằng do chưa có hướng dẫn cụ thể việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án, việc bán đấu giá tài sản thi hành án, việc phân chia tài sản chung, xác định quyền sở hữu tài sản… dẫn đến chuyện nhiều tòa thụ lý không đúng đơn của đương sự kiện cơ quan thi hành án. Việc tòa án đưa cơ quan thi hành án vào làm bị đơn dân sự đã tạo tâm lý bất an cho chấp hành viên cũng như lãnh đạo cơ quan thi hành án.
2. Báo Người cao tuổi có bài Tranh chấp lối đi ở TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai: Án có hiệu lực, sao không thi hành dứt điểm?. Bài báo phản ánh: Gia đình chị Nguyễn Thị Trúc Ly ở số 189/4 Phan Đình Phùng là hàng xóm với gia đình bà Phạm Thị Liên, số 189/5 Phan Đình Phùng, KP2, phường Quang Vinh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo hồ sơ nhà đất kê khai vào năm 1990, trước nhà 189/5 là phần đất trống diện tích 34m2 làm sân và lối đi chung. Năm 1997, khi đăng kí kê khai nhà đất, bà Tuyết (mẹ chị Ly) không kê khai phần sân chung, mà bà Liên kê khai phần sân chung để xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do không đi xác minh thực tế, ngày 28-12-1999, chính quyền tỉnh Đồng Nai đã cấp quyền sử dụng đất ở theo sơ đồ thửa đất (số 52, tờ bản đồ số 14) và mặt bằng có các điểm (2,3,4,5,6,7,8-3,93m2 =34m2) cho nhà bà Liên, bao gồm cả phần đất của lối đi chung. Sau đó, bà Liên xây quán tạp hóa trên phần sân chung (diện tích khoảng 3,5m x 5m, ảnh), chỉ chừa lại bên hông phải quán khoảng 1,5m và phía trước quán tạp hóa hơn 1m làm đường đi ra hẻm Phan Đình Phùng, gây cản trở cho việc đi lại. Chị Ly khởi kiện bà Liên tại TAND TP Biên Hòa, yêu cầu bà Liên tháo dỡ quán tạp hóa để trả lại lối đi chung.
Bản án số 67/DSST ngày 9-3-2004 của TAND TP Biên Hòa công nhận quyền sử dụng diện tích lối đi chung cho hộ chị Ly, thừa nhận phần sân chung (con hẻm) thuộc quyền sử dụng của hộ bà Liên; buộc chị Ly trả hơn 6 triệu đồng cho bà Liên; bác yêu cầu của chị Ly về việc yêu cầu bà Liên tháo dỡ quán tạp hóa để trả lại lối đi chung. Chị Ly, bà Liên cùng kháng cáo bản án sơ thẩm.
Ngày 16-8-2004, TAND tỉnh Đồng Nai ra bản án phúc thẩm số 162/DSPT, tuyên: chấp nhận cho chị Ly được sử dụng lối đi chung; ghi nhận việc nhà chị Ly tự nguyện trả 746.700 đồng cho giá trị lối đi chung (con hẻm); hủy một phần của Quyết định số 4701040449 ngày 28-12-1999 theo sơ đồ thửa đất (số 52, tờ bản đồ số 14 và mặt bằng lô đất có các điểm (2,3,4,5,6,7,8-3,93m2 =34m2. Ngoài ra, bản án phúc thẩm kiến nghị UBND tỉnh Đồng Nai thu hồi phần đất đã cấp cho bà Liên theo sơ đồ thửa đất và mặt bằng nhà có ghi các điểm sau (2,3,4,5,6,7,8-3,93m2 =34m2) số 4701040449 ngày 28-12-1999.
Ngày 20-10-2004, UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định số 5034/QĐ-CTUB thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và sử dụng đất ở số 4701040449, ngày 28-12-1999 đã cấp cho nhà bà Liên; yêu cầu các cơ quan, các bên liên quan phải thi hành theo quyết định này. Tuy nhiên, quyết định của UBND tỉnh Đồng Nai vẫn chưa được thi hành?!
Chị Ly khiếu nại đến nhiều cơ quan yêu cầu thi hành bản án phúc thẩm, nhưng không có kết quả nên làm đơn khiếu nại gửi TAND tối cao. TAND tối cao có Công văn số 47/2007/TA-TDS ngày 22-1-2007 kiến nghị UBND tỉnh Đồng Nai thực hiện việc cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trên lối đi chung (quán tạp hóa).
Việc chị Ly yêu cầu nhà bà Liên trả lại con hẻm làm lối đi chung là có cơ sở pháp lí và đã được Tòa án và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận. Theo Luật Thi hành án Dân sự năm 2008, thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo quyết định thi hành án; hết thời hạn quy định này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Trong trường hợp này, lẽ ra sau khi có bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai, chính quyền các cấp của tỉnh Đồng Nai và cơ quan thi hành án phải nhanh chóng phối hợp thi hành Bản án số 162/DSPT và quyết định thu hồi đất (con hẻm) đối với nhà bà Liên.
Tại sao án có hiệu lực chưa được thi hành dứt điểm?
3. Báo Đại đoàn kết có bài Vụ “Mua bán người” tại Tây Ninh: Thi hành bản án chưa có hiệu lực pháp luật. Bài báo phản ánh: Mặc dù bản án sơ thẩm đang bị kháng cáo đến Toà phúc thẩm Toà án Nhân dân Tối cao, chưa có hiệu lực pháp luật nhưng một "quan toà” tỉnh Tây Ninh vẫn hạ bút ký quyết định cho thi hành án. Việc làm khác thường này khiến người dân dễ bị oan và dư luận địa phương không khỏi nghi ngại tiêu cực...
Theo bản án sơ thẩm số 80/2011/HSST ngày 28-12-2011 của TAND tỉnh Tây Ninh thì Nguyễn Thị Vân (SN 1957), Phan Thuỵ Tường Vy (SN 1989) và Lê Thị Re (SN 1960) đã phạm tội "Mua bán người”. Theo đó, vào khoảng năm 2008, Nguyễn Thị Vân quen biết với một đối tượng tên Hai (không xác minh được địa chỉ) tại TP. Hồ Chí Minh. Ông Hai bàn với Vân tuyển một số thiếu nữ tại tỉnh Tây Ninh có nhu cầu lấy chồng nước ngoài để bán sang Malaysia, ông Hai trả tiền công cho Vân 300.000 đồng/người. Một trong những người nhờ Vân là bà Lê Thị Re. Bà Re có con gái lấy chồng Đài Loan sống ổn định, hạnh phúc nên cháu bà Re là Cao Thị Ngọc Giàu cũng muốn xuất ngoại lấy chồng. Bà Re nhờ Vân giúp đỡ, Vân đồng ý và nhờ lại bà Re giới thiệu các cô gái khác muốn lấy chồng Malaysia cho Vân. Cáo trạng cho rằng bà Re đã giới thiệu cho Vân ba thiếu nữ gồm Huỳnh Thị Ngọc Hà, Nguyễn Thị Bé Ly và Văn Thị Ngọc Linh (đều ngụ Tây Ninh). Để lấy chồng ngoại, các cô gái phải đóng cho Vân 8 triệu đồng/người để làm thủ tục xuất cảnh, mua vé máy bay. Sau đó, Vân trực tiếp đưa Hà - Ly - Linh xuống TP. Hồ Chí Minh giao cho Hai. Vân khai đưa cho Hai 16 triệu đồng, bà Re 12 triệu (3 triệu đồng/phụ nữ), còn 4 triệu đồng Vân hưởng.
Tháng 7-2011, ba cô gái khác gồm Lê Thị Huyền Linh, Hồ Thị Ngọc và Nguyễn Thị Yến (đều ngụ Tây Ninh) đến gặp Nguyễn Thị Vân nhờ giúp lấy chồng nước ngoài. Vân đồng ý và nhận chi phí 9,5 triệu đồng. Vân gọi con ruột là Phan Thụy Tường Vy đang du lịch ở Malaysia về dẫn các cô gái "xuất ngoại”. Vy thoả thuận với một đối tượng tên là Tuyết sẽ giao các cô gái cho Tuyết với giá 100USD/người. Ngày 23-7-2011, Vy đưa Linh ra sân bay xuất cảnh thì bị bắt quả tang. Ngay sau đó, công an bắt giữ Nguyễn Thị Vân. Từ lời khai của Vân, Cơ quan điều tra khởi tố bà Lê Thị Re vào ngày 2-9-2011.
Bản án nhận định Vân là người chủ mưu thực hiện tích cực nhất, sau đó đến con Vân là Phan Thuỵ Tường Vi. Hai bị cáo trên đã khai nhận tội trạng. Đối với bị cáo Lê Thị Re, tại toà bị cáo nhất mực kêu oan. Bị cáo Re không thừa nhận đã tham gia tuyển chọn các cô gái, không nhận tiền của Vân. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm dựa vào lời Vân khai có thoả thuận sẽ cho tiền bà Re khi giới thiệu các cô gái muốn lấy chồng ngoại là 1 triệu đồng/người để quy buộc bà Re phạm tội. Toà tuyên phạt bị cáo Vân 7 năm tù, bị cáo Vy 3 năm tù và bị cáo Re 5 năm tù. Bà Re đã làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, tiếp tục kêu oan đến Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Do việc bà Lê Thị Re kháng cáo dẫn đến án sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên ngày 30-1-2012, Chánh án TAND tỉnh Tây Ninh vẫn ra quyết định thi hành án phạt tù số 13, yêu cầu trong thời hạn 7 ngày kể từ khi nhận được quyết định, bà Re phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh để chấp hành án. Nếu qua thời hạn trên mà bà Re không có mặt thì sẽ bị áp giải đến trại giam để chấp hành bản án 5 năm tù giam. Bà Re tá hoả trước quyết định của "quan toà” vì bà đã gửi đơn kháng cáo bản án sơ thẩm đúng thời hạn pháp luật vào ngày 30-12-2011, tức là chỉ 2 ngày sau toà tuyên án. Bà Re khiếu nại, yêu cầu làm rõ việc ra quyết định thi hành án trái pháp luật.
Ngày 8-2-2012, ông Nguyễn Hoà Hiệp, Chánh án TAND tỉnh Tây Ninh ký văn bản số 07/TA-THA thừa nhận cán bộ trong khâu tiếp nhận và xử lý đơn có "thiếu sót”, "không tốt” dẫn đến việc Toà ra quyết định thi hành án không đúng. Ông Hiệp xin rút lại quyết định thi hành án phạt tù và "xin cáo lỗi đến bà Re”, chờ Toà phúc thẩm xét xử lại vụ án. Bà Re nức nở: "Việc thi hành án phạt tù ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, quyền tự do công dân nhưng "quan toà” Tây Ninh đã thực thi bằng những sơ suất khó hiểu. Việc làm án "không tốt” như cách nói của ông Chánh án còn thể hiện ở việc buộc tội tôi không dựa trên chứng cứ, không bằng sự thật khách quan diễn ra tại phiên toà”. "Biên bản phiên toà sơ thẩm” cho thấy việc kết án bị cáo Re chưa dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà. Các lời khai của những người bị hại gồm Hà, Ly, Giàu trước toà thể hiện bà Re không dẫn các cô đi gặp bị cáo Vân. Thế nhưng, bản án sơ thẩm lại căn cứ vào những lời khai mâu thuẫn của ba cô tại cơ quan điều tra để quy kết bà Re phạm tội là thiếu thuyết phục. Bản án sơ thẩm dựa vào lời khai của Vân cho rằng có đưa tiền cho bà Re để kết tội bà Re, trong khi đó bà Re khẳng định không nhận tiền. Người làm chứng duy nhất trong vụ án là bà Lê Thị Trao khai tại toà xác nhận "không biết việc bị cáo Vân chia cho bà Re 1 triệu đồng/người”. Án sơ thẩm bỏ qua lời khai quan trọng của nhân chứng tại phiên toà để kết tội bà Re là thiếu khách quan, khiến bị cáo liên tục kêu oan. Những sai sót trong việc đánh giá chứng cứ liên quan đến việc buộc tội bà Re cần được cấp phúc thẩm làm rõ.