Chú trọng bảo vệ quyền lợi của người dân khi sửa đổi một số quy định về lý lịch tư pháp

23/03/2017
Chú trọng bảo vệ quyền lợi của người dân khi sửa đổi một số quy định về lý lịch tư pháp
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long vừa chủ trì cuộc họp Ban soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) năm 2009 để nghe báo cáo nội dung cơ bản của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung. Qua thảo luận, ý kiến của các thành viên Ban soạn thảo cho thấy, việc sửa đổi một số quy định về LLTP sẽ chú trọng hơn nữa vào bảo vệ quyền lợi của người dân.
Cá nhân có quyền tiếp cận thông tin LLTP
Sau hơn 6 năm thi hành, Luật LLTP năm 2009 đã tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao để triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP, chủ động xóa án tích cho những người đã từng bị kết án có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, tái hòa nhập cộng đồng. Thông qua việc triển khai thi hành Luật LLTP, nhận thức của xã hội về ý nghĩa, giá trị của LLTP ngày càng được nâng lên, qua đó LLTP trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân tư pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp lý, dân sự, bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ. LLTP cũng phát huy vai trò là công cụ quan trọng hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước trong quản lý dân cư, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho thấy, cá nhân yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 ngày càng gia tăng. Đơn cử, tại Sóc Trăng, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2016 có đến 60% hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2. Có điều, cá nhân yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 không xuất phát từ yêu cầu của cá nhân muốn biết về nội dung LLTP của mình theo quy định của Luật LLTP mà xuất phát từ yêu cầu của các cơ quan, tổ chức giải quyết các giao dịch dân sự, thương mại, chủ yếu là để bổ túc hồ sơ xin thị thực nhập cảnh, kết hôn… tại cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài; xin việc làm tại một số doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam; xin cấp giấy phép hoạt động, cung cấp dịch vụ… tại một số tổ chức của Việt Nam.
Thực trạng này đã ảnh hưởng tới quyền được pháp luật bảo đảm bí mật cá nhân và chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự của Nhà nước ta, ảnh hưởng đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án, đặc biệt là những người đã được xóa án tích. Theo phản ánh của công dân, khi Phiếu LLTP số 2 được cấp và sử dụng công khai có thể dẫn đến hệ lụy cho cá nhân khi tái hòa nhập cộng đồng, khó khăn, thậm chí mất cơ hội khi đi du học, xin việc làm, xuất cảnh…
Theo Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Sơn, nhiều văn bản pháp luật hiện nay có quy định về LLTP nên việc sửa đổi, bổ sung Luật LLTP cần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Chẳng hạn, Luật LLTP đã quy định, thông tin LLTP bao gồm thông tin về án tích, tình trạng thi hành án, về cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã thì nếu một cá nhân có thông tin LLTP về cấm đảm nhiệm chức vụ liệu có được phép thành lập doanh nghiệp hay không. Một cá nhân đã được xóa án tích thì khi cấp Phiếu LLTP, phần thông tin về tình trạng án tích được ghi là “không có án tích”, nhưng với cơ quan Tòa án khi xét xử thì đây là cơ sở để xác định nhân thân. Vì thế, trong công tác LLTP, cái khó là khó với người tốt, chứ với những người có “tỳ vết” lại vẫn cần có thông tin về cá nhân đó.
Về tình trạng lạm dụng cấp Phiếu LLTP số 2, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương Ngô Quang Giáp phản ánh, thực tiễn địa phương cho thấy ngày càng có nhiều nước yêu cầu công dân nộp Phiếu LLTP số 2 như gần đây có thêm cả Hàn Quốc hay các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước cũng có yêu cầu. Không những thế, với nhiều trường hợp đã được xóa án tích, đủ điều kiện tái hòa nhập cộng đồng nhưng do Phiếu LLTP số 2 vẫn ghi đầy đủ nên rất cản trở người dân trong các giao dịch dân sự, thương mại bình thường, mà điển hình nhất là gặp bất lợi khi định nhập cư nước ngoài.
Báo cáo tại cuộc họp Ban soạn thảo Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật LLTP năm 2009, Giám đốc Trung tâm LLTP quốc gia Hoàng Quốc Hùng cho biết sẽ quy định chặt chẽ hơn về việc tiếp cận, sử dụng Phiếu LLTP số 2 để bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Theo đó, để tránh tình trạng lạm dụng Phiếu LLTP số 2 cấp theo yêu cầu của cá nhân trong thực tiễn hiện nay, Dự thảo Luật sửa đổi quy định Phiếu LLTP số 2 chỉ cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng, không cấp cho cá nhân. Tuy nhiên, cá nhân vẫn có quyền tiếp cận thông tin LLTP được quản lý trong cơ sở dữ liệu LLTP theo quy định của Luật LLTP.
Định kỳ rà soát các trường hợp đủ điều kiện xóa án tích đương nhiên
Đề cập tới khó khăn trong xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích của các Sở Tư pháp, ông Hùng chia sẻ khó khăn lớn nhất của các Sở Tư pháp là không có đủ thông tin về bản án hoặc người bị kết án đã chấp hành đầy đủ quyết định của Tòa án trong bản án chưa. Cụ thể như người đó đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sự, thông tin về việc phạm tội mới trong thời hạn để đương nhiên được xóa án tích không, đặc biệt là đối với thông tin có trước ngày 1/7/2010. Nhiều trường hợp bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án hay trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Đó là chưa nói đến công việc này được thực hiện rất khó khăn trong tình hình nhân lực thiếu, kinh phí hạn hẹp hiện nay.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, toàn bộ việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP sẽ do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP thực hiện. Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định một trong những điều kiện đương nhiên được xóa án tích là người bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn Bộ luật này quy định (khoản 2, khoản 3 Điều 70). Trong khi ấy, Luật LLTP chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp để xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đã bị kết án.
Vì vậy, ông Hùng cho biết, để bảo đảm thực hiện chế định đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Dự thảo Luật bổ sung Điều 32a theo hướng định kỳ 6 tháng, cơ quan quản lý LLTP và Sở Tư pháp thực hiện rà soát các trường hợp người đủ điều kiện về thời gian để đương nhiên được xóa án tích mà Bộ luật Hình sự quy định cũng như thực hiện xác minh thông tin về hành vi phạm tội mới. Việc xác minh được thực hiện tại UBND xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú. Trường hợp cần thiết, thực hiện xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan.
Đối với quy định về xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương Ngô Quang Giáp cho rằng cần nghiên cứu quy định cách thức, quy trình thật chặt chẽ bởi việc xác minh không đơn giản, có những vụ kéo dài tới 6 – 8 tháng trong khi lại chưa có cơ chế bảo đảm trách nhiệm phối hợp thực hiện giữa các cơ quan. Chẳng hạn, tại địa phương tôi, có những thông tin án tích từ năm 2010, năm 2011 nhưng gần đây mới được chuyển cho Sở Tư pháp. Dự thảo Luật quy định định kỳ 6 tháng rà soát một lần rất hay song sẽ gặp khó khăn trong thực tiễn, nhất là xác minh thông tin về hành vi phạm tội mới.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Chính phủ) Nguyễn Phước Thọ, chúng ta cho rằng đang gặp khó khăn trong xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích. Tuy nhiên, nếu cứ quy định như hiện nay thì vẫn không giải quyết được vướng mắc mà phải làm sao đổi mới được cơ chế phối hợp, đảm bảo công khai, minh bạch, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long kết luận, Dự thảo Luật có bổ sung Điều 32a về xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cập nhật vào cơ sở dữ liệu LLTP thì cần phải nhận thức rõ đây là xác minh các trường hợp cụ thể được xóa án tích đương nhiên. Nhưng so với Bộ luật Hình sự, nội dung này còn quy định khá đơn giản về nhiệm vụ của VKSND, cần thiết phải gia cố thêm trách nhiệm của VKSND trong cung cấp thông tin để cơ quan quản lý LLTP tiến hành xác minh. Bên cạnh đó, theo phản ánh của địa phương về thời hạn đương nhiên xóa án tích thì cần tính toán thêm nhằm đảm bảo tính khả thi cho cán bộ trực tiếp làm công tác LLTP.
Bộ trưởng đề nghị cân nhắc thêm một số ý kiến về nguồn thông tin đầu vào của cơ sở dữ liệu LLTP như quyết định đặc xá, đại xá; quyết định tổng hợp của nhiều bản án; quyết định giảm thời gian thử thách án treo. Ngoài ra, nghiên cứu các quy định về trách nhiệm, thời hạn, kết nối và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan liên quan thì việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP sẽ hoàn thiện thêm một bước nữa.
H.Thư