Quy định mới về giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại (Phần VIII)

26/11/2009
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như việc kiểm sát hoạt động của TPL là một trong những vấn đề còn rất mới cả về lý luận cũng như thực tiễn ở Việt Nam. Do đó, để bảo đảm hoạt động của TPL tuân thủ đúng pháp luật, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan trong quan hệ giao dịch với TPL, văn phòng TPL, trên cơ sở quy định chung của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, kiểm sát hoạt động tư pháp và quy định của Luật THADS năm 2008, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP đã có những quy định mang tính nguyên tắc về khiếu nại, tố cáo và kiểm sát hoạt động của TPL trong giai đoạn thực hiện thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1. Về giải quyết khiếu nại đối với việc thực hiện công việc tống đạt và THADS của TPL

Xuất phát từ phạm vi và tính chất công việc mà TPL được giao thực hiện mà pháp luật đã quy định các tranh chấp phát sinh giữa TPL, văn phòng TPL với các bên có liên quan sẽ được giải quyết theo các phương thức khác nhau, có thể bằng hình thức khiếu nại hành chính, yêu cầu bồi thường dân sự hay khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

Văn phòng TPL là tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Hoạt động của TPL là hoạt động dịch vụ tư, do vậy về nguyên tắc, những khiếu nại đối với việc thực hiện công việc của TPL không thực hiện theo trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo như trong hoạt động hành chính bởi TPL không phải là công chức. Nếu bên yêu cầu không đồng ý với công việc TPL làm cho mình, thì có thể tự thoả thuận giải quyết hoặc có thể khởi kiện ra Toà để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, phạm vi công việc giao cho TPL làm gồm việc tống đạt quyết định, giấy tờ của Toà án và Cơ quan THA; lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức THA các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. TPL không tổ chức THA các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan THADS chủ động ra quyết định THA trực tiếp THA. Đó không chỉ là mối quan hệ giữa người dân (người yêu cầu THA đã ký hợp đồng THA) với TPL mà còn có mối quan hệ ngoài hợp đồng là người không yêu cầu THA hoặc người có liên quan đến việc THA với TPL; công việc TPL thực hiện liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân (đương sự), đến sự đúng đắn, khách quan, kịp thời trong hoạt động tư pháp nói chung và THADS nói riêng.

Mặt khác, trong một số hoạt động (tống đạt, THADS), theo pháp luật hiện hành việc giải quyết khiếu nại không thông qua Toà án. Ví dụ: Trong lĩnh vực THADS, hiện nay Cơ quan THA không thuộc Toà án và chúng ta không có Toà hay Thẩm phán chuyên trách về THA như một số quốc gia khác, nên nếu chuyển các vụ việc khiếu nại về THA cho Toà án giải quyết thì sẽ gây nên tình trạng quá tải của Toà án và làm chậm quá trình THA[1].

Do đó, Điều 45 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP đã quy định về giải quyết khiếu nại đối với việc thực hiện công việc tống đạt và THADS của TPL như sau:

- Đương sự và những người liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của TPL trong việc trực tiếp THADS và tống đạt, nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của mình.

Quy định này phù hợp với quy định về quyền khiếu nại trong THADS tại khoản 1 Điều 140 Luật THADS năm 2008, đó là đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

- Việc giải quyết khiếu nại được thực hiện như sau:

+ Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại của đương sự trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

+ Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết khiếu nại trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp là quyết định giải quyết cuối cùng và có hiệu lực thi hành.

Đối với việc lập vi bằng, nếu có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 46 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP). Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Do đó, nó là hình thức của giao dịch dân sự, là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa cá nhân, tổ chức với Trưởng văn phòng TPL về các vấn đề như nội dung cần lập vi bằng; địa điểm, thời gian lập vi bằng; chi phí lập vi bằng và các thoả thuận khác (nếu có).

Viện Kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS theo quy định của pháp luật. Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.

2. Về việc giải quyết tố cáo hành vi trái pháp luật của TPL

Điều 47 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định mang tính nguyên tắc về giải quyết tố cáo hành vi trái pháp luật của TPL như sau: việc tố cáo hành vi trái pháp luật của TPL của công dân, thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và văn bản liên quan. Như vậy, có thể hiểu là ngoài quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì việc tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi trái pháp luật của TPL sẽ được áp dụng chủ yếu theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về THADS, cụ thể đó là Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005; Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định của những văn bản này thì việc giải quyết tố cáo trong lĩnh vực THADS có những điểm mới cơ bản sau đây:

Một là, Luật THADS năm 2008 đã bổ sung mới về người có quyền tố cáo làm cơ sở pháp lý cho việc xác định ai là người có quyền tố cáo; cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thẩm quyền tiếp nhận tố cáo; nội dung tố cáo trong lĩnh vực THADS, v.v…cụ thể, Điều 154 của Luật đã quy định: Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV và công chức khác làm công tác THADS gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

Hai là, Luật THADS năm 2008 đã đưa vào trong Luật và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo. Nhìn chung, về cơ bản thì những quy định này không khác nhiều so với các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo đã được quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005, chỉ bổ sung thêm nghĩa vụ của người tố cáo phải cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo (điểm a khoản 2 Điều 155 Luật THADS năm 2008). Tuy nhiên, việc đưa quy định này vào trong Luật THADS sẽ tạo thuận lợi hơn cho các bên có liên quan và cho cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS trong việc áp dụng pháp luật giải quyết tố cáo về THADS. Mặt khác, quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo trong Luật THADS sẽ góp phần hạn chế tình trạng các đương sự lợi dụng quyền tố cáo của công dân tố cáo sai sự thật nhằm trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ THA. Theo đó, Điều 155 Luật THADS đã quy định về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo như sau:

- Người tố cáo có các quyền sau đây:

+ Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;

+ Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;

+ Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.

- Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:

+ Trình bày trung thực, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;

+ Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;

+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.

Theo quy định tại Điều 156 Luật THADS năm 2008 thì quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo được quy định như sau:

- Người bị tố cáo có các quyền sau đây:

+ Được thông báo về nội dung tố cáo;

+ Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;

+ Được khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.

- Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:

+ Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;

+ Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;

+ Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.

Ba là, Luật THADS năm 2008 đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn thẩm quyền giải quyết tố cáo về THADS. Theo quy định tại Điều 59 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì thẩm quyền giải quyết tố cáo được quy định một cách chung chung như sau: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

Để thể hiện rõ hơn thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan THADS, cơ quan quản lý THADS trong việc giải quyết tố cáo phù hợp với chủ trương cải cách tổ chức bộ máy nhà nước trong đó đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, khoản 1 và khoản 2 Điều 157 Luật THADS đã quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo như sau:

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.

- Trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng cơ quan THADS thì Thủ trưởng cơ quan THADS cấp trên trực tiếp hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm giải quyết.

Về thời hạn giải quyết tố cáo, Luật THADS năm 2008 vẫn tiếp tục quy định như Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đó là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày.

Về thủ tục giải quyết tố cáo, Luật THADS tiếp tục quy định được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Bốn là, Luật THADS năm 2008 bổ sung mới, làm rõ hơn quy định về trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, cụ thể Điều 158 của Luật này quy định:

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.

- Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Năm là, Luật THADS năm 2008 bổ sung mới quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tố cáo về THADS. Để góp phần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết tố cáo trong lĩnh vực THADS, bảo đảm việc giải quyết tố cáo về THADS được kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, Điều 159 Luật THADS năm 2008 đã quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS như sau: Viện Kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS theo quy định của pháp luật. Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.

3. Về kiểm sát hoạt động của TPL

Mặc dù là loại hình dịch vụ tư nhưng một số công việc của TPL hoạt động trong lĩnh vực tư pháp (tống đạt giấy tờ của Toà án, Cơ quan THADS và trực tiếp THADS), là loại hình dịch vụ mới, trực tiếp liên quan đến quyền, lợi ích của các bên và sự đúng đắn, khách quan, kịp thời của hoạt động tư pháp, nên cần có sự quản lý, giám sát chặt chẽ. Việc quy định hoạt động của TPL chịu sự giám sát của Viện Kiểm sát nhân dân sẽ giảm thiểu những thiếu sót, sai phạm trong hoạt động này. Tuy nhiên, đối với những công việc của TPL mà hiện nay không thuộc quyền kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân sẽ không thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với lĩnh vực hoạt động đó.

Viện Kiểm sát nhân dân các cấp có thẩm quyền kiểm sát hoạt động THADS để bảo đảm cho hoạt động này được đúng pháp luật. Việc kiểm sát có thể được thực hiện thường xuyên thông qua việc trực tiếp tham gia vào hoạt động thi hành án cụ thể hoặc thông qua việc tiến hành hoạt động kiểm sát theo kế hoạch. Trường hợp phát hiện sai phạm trong hoạt động này thì phải ban hành kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng, CHV cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới theo quy định.

Điều 48 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định mang tính nguyên tắc về kiểm sát hoạt động của TPL như sau: Việc kiểm sát hoạt động của TPL thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và quy định pháp luật liên quan. Các quy định pháp luật có liên quan được áp dụng trong việc kiểm sát hoạt động của TPL chủ yếu đó là pháp luật về THADS mà cụ thể là Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật khác. Luật THADS năm 2008 đã tiếp tục quy định những nội dung mới về kiểm sát hoạt động THADS. Theo đó, Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp luật về THA của cơ quan THADS, CHV, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc THA nhằm bảo đảm việc THA kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật. Trên cơ sở kế thừa quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 đã sửa đổi, bổ sung mới một số nội dung về hoạt động kiểm sát THADS thông qua việc sửa đổi, bổ sung quy định về kháng nghị và giải quyết kháng nghị về THADS, bao gồm:

Một là, bổ sung nội dung về quyền kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân. Trước đây theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 thì thẩm quyền kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân chỉ quy định kháng nghị đối với các quyết định THA, cụ thể Điều 64 pháp lệnh quy định như sau: Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị đối với các quyết định của Thủ trưởng cơ quan THA, CHV cơ quan THA cùng cấp và cấp dưới theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Khắc phục hạn chế này của Pháp lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008 bổ sung quy định việc kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân không chỉ đối với quyết định mà còn cả đối với hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới. Theo đó, khoản 1 Điều 160 Luật THADS về quyền kháng nghị của Viện Kiểm sát được quy định như sau: Viện Kiểm sát kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.

Hai là, bổ sung trách nhiệm thực hiện kháng nghị của các cơ quan THADS trong trường hợp chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát. Pháp lệnh THADS năm 2004 chưa quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan THADS trong việc thực hiện kháng nghị nếu kháng nghị của Viện Kiểm sát được chấp nhận. Do đó, đoạn 2 khoản 1, Điều 161 Luật THADS năm 2008 đã quy định bổ sung về trách nhiệm thực hiện kháng nghị như sau: Trường hợp chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có văn bản trả lời kháng nghị, Thủ trưởng cơ quan THADS phải thực hiện kháng nghị của Viện Kiểm sát.

Ba là, tăng thời gian trả lời kháng nghị của Thủ trưởng các cơ quan THADS cấp tỉnh.  Khoản 2 Điều 65 Pháp lệnh THADS năm 2004 quy định: Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan THA cấp huyện không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát thì phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh phải xem xét trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, thời hạn 15 ngày để Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh xem xét trả lời là quá ngắn đặc biệt đối với những vụ việc THA phức tạp cần phải có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các văn bản có liên quan. Do đó, Luật THADS năm 2008 đã quy định tăng lên 30 ngày thay vì 15 ngày để Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh xem xét, trả lời báo cáo của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện đối với các quyết định, hành vi bị kháng nghị. Cụ thể điểm b khoản 2 Điều 161 Luật THADS năm 2008 quy định: Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện nơi có quyết định, hành vi bị kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh phải xem xét, trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.

Bốn là, bổ sung quy định mới về việc xem xét văn bản trả lời kháng nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, cơ quan THA cấp quân khu; Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng. Điều 65 Pháp lệnh THADS năm 2004 mới chỉ quy định việc trả lời kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân như sau:

- Thủ trưởng cơ quan THA có trách nhiệm trả lời kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân đối với quyết định về THA của mình hoặc của CHV thuộc cơ quan THA của mình trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị.

- Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan THA cấp huyện không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát thì phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh và Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh phải xem xét trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.

- Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát thì phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Tư pháp và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Tư phápxem xét và trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.

- Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan THA cấp quân khu không nhất trí với kháng nghị của Viện Kiểm sát thì phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng và Viện Kiểm sát quân sự trung ương. Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng có hiệu lực thi hành.

Tuy nhiên, nếu các văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Tư pháp, Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng mà không có căn cứ thì Pháp lệnh THADS năm 2004 chưa quy định biện pháp giải quyết. Do đó, để khắc phục những hạn chế này của Pháp lệnh THADS năm 2004, khoản 3 Điều 161 Luật THADS năm 2008 đã quy định: “Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị được quy định tại khoản 2 Điều này không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan THA cấp quân khu, Thủ trưởng cơ quan quản lý THA thuộc Bộ Quốc phòng". (Còn nữa).

Nguyễn Quang Minh 


[1] Xem Phần III, Mục III, khoản 3.4 Đề án thực hiện thí điểm chế định TPL tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009