Sau 10 năm thực hiện Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ, cùng với việc củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy, hoạt động trợ giúp pháp lý đã không ngừng phát triển, ngày càng đi vào chiều sâu. Số lượng vụ việc được thực hiện năm sau cao hơn năm trước, chất lượng vụ việc từng bước được bảo đảm nên đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, góp phần ổn định tình hình trật tự xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, bảo đảm để người được trợ giúp pháp lý được thụ hưởng dịch vụ pháp lý với chất lượng tốt nhất thì việc tăng cường kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là đối với các vụ việc do các cộng tác viên trợ giúp pháp lý thực hiện là biện pháp hiệu quả. Tuy nhiên, do chưa có các tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể để đánh giá nên việc giám sát, quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý tại các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cũng như các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý còn chưa được quan tâm đúng mức và thiếu tính thống nhất, chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí có địa phương còn mang tính hình thức, chiếu lệ, qua loa, đại khái. Việc kiểm tra, đánh giá chất lượng chủ yếu được thực hiện khi có những thắc mắc, kiến nghị cụ thể của người được trợ giúp pháp lý hoặc phản ánh, kiến nghị của các cơ quan, phương tiện thông tin, truyền thông.
Để khắc phục tình trạng này, đồng thời tiếp tục nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, tại Điều 43 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (sau đây gọi là Nghị định số 07/2007/NĐ-CP) đã quy định về các tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Cũng tại khoản 3 Điều này, Chính phủ đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Ngoài ra, việc ban hành và tổ chức thực hiện Bộ tiêu chuẩn cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp được quy định tại Điều 46 Luật Trợ giúp pháp lý và điểm b khoản 1 Điều 44 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP.
Có thể nói, việc ban hành Bộ tiêu chuẩn để bảo đảm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP là rất cần thiết, không chỉ tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý, mà còn là công cụ pháp lý để tăng cường công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; góp phần hạn chế bồi thường thiệt hại, tạo điều kiện cho người dân, trực tiếp là người được trợ giúp pháp lý tham gia vào việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, Bộ tiêu chuẩn phải lượng hoá các tiêu chuẩn thể hiện chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, tạo thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, các cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc kiểm tra, đánh giá về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; nâng cao chất lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Đồng thời, phải xác lập cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, bảo đảm tính bao quát, ngắn gọn, không gây ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Với những yêu cầu đó, ngày 29/12/2008 Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 11/2008/QĐ-BTP ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (sau đây gọi là Bộ tiêu chuẩn) với những nội dung cơ bản sau đây:
1. Về những vấn đề chung:
Bộ tiêu chuẩn đã làm rõ các vấn đề liên quan đến phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, mục đích điều chỉnh, xác định vụ việc trợ giúp pháp lý có chất lượng và trách nhiệm bảo đảm và giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý.
Một là, để phân định phạm vi điều chỉnh với các văn bản khác có liên quan, Bộ tiêu chuẩn này đã xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ tiêu chuẩn bao gồm quy định về tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (Điều 1).
Đối tượng điều chỉnh của Bộ tiêu chuẩn bao gồm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp và tổ chức chủ quản của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý (Điều 2)
Hai là, việc xác định một vụ việc trợ giúp pháp lý như thế nào là có chất lượng cũng được khẳng định tại Điều 4. Theo đó, vụ việc trợ giúp pháp lý có chất lượng khi đáp ứng các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn về hình thức trợ giúp pháp lý (quy định tại Chương II Bộ tiêu chuẩn này). Vụ việc cũng có chất lượng khi nội dung tư vấn, quan điểm bào chữa, đại diện, quan điểm hoà giải đúng pháp luật, được thể hiện trong hồ sơ vụ việc mà không được người có yêu cầu chấp nhận hoặc không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận nhưng là căn cứ để yêu cầu xem xét lại vụ việc hoặc phù hợp với kết quả giải quyết cuối cùng hoặc nội dung trợ giúp pháp lý là căn cứ để kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
Ba là, trách nhiệm bảo đảm và giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được xác định là thuộc về: người thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý (Điều 5).
2. Các tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn theo từng hình thức trợ giúp pháp lý cụ thể:
Căn cứ vào quy định tại Điều 43 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP, Bộ tiêu chuẩn quy định về các tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, theo đó, một vụ việc trợ giúp pháp lý được thực hiện có kết quả và chất lượng khi đáp ứng 07 tiêu chuẩn chung và một số tiêu chuẩn riêng sau đây:
2.1. Các tiêu chuẩn chung bao gồm:
Một là, tiêu chuẩn tạo điều kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý tiếp xúc, trình bày và cung cấp thông tin về vụ việc trợ giúp pháp lý. Tiêu chuẩn này đặt ra các yêu cầu đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc bảo đảm các điều kiện cần thiết để người được trợ giúp pháp lý được tiếp xúc, trình bày, cung cấp thông tin về vụ việc yêu cầu trợ giúp pháp lý (Điều 6).
Hai là, tiêu chuẩn về tính khách quan, toàn diện và kịp thời. Tiêu chuẩn này đòi hỏi người thực hiện trợ giúp pháp lý đã nghiên cứu kỹ lưỡng, thu thập đầy đủ và chính xác các thông tin, tài liệu, các chứng cứ pháp lý có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý, đến người được trợ giúp pháp lý để hiểu rõ về bản chất, nội dung yêu cầu trợ giúp pháp lý; về các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật có liên quan đến vụ việc; và tính kịp thời, bảo đảm về thời hiệu của việc thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 7).
Ba là, tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Theo tiêu chuẩn này, người được trợ giúp pháp lý được giải thích về quyền và nghĩa vụ theo pháp luật về trợ giúp pháp lý và các quy định khác của pháp luật có liên quan; các quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; vướng mắc pháp luật của người được trợ giúp pháp lý được giải toả và được nâng cao về nhận thức pháp luật và người được trợ giúp pháp lý hài lòng về thái độ phục vụ, nội dung và cách thức thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 8).
Bốn là, tiêu chuẩn tuân thủ và phù hợp với pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tiêu chuẩn này đòi hỏi người thực hiện trợ giúp pháp lý khi thực hiện trợ giúp pháp lý phải tuân thủ và phù hợp với quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý; tuân thủ và phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan đến quá trình giải quyết vụ việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Các nhận định, giải pháp đưa ra trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý phải chính xác, trên cơ sở pháp luật và phù hợp với pháp luật và nội dung trợ giúp pháp lý phải phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc và không trái đạo đức xã hội (Điều 9).
Năm là, tiêu chuẩn đáp ứng các yêu cầu về trình tự, thủ tục. Tiêu chuẩn này đòi hỏi việc trợ giúp pháp lý đối với từng hình thức cụ thể bảo đảm tuân thủ các yêu cầu về trình tự, thủ tục thực hiện vụ việc theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 10).
Sáu là, tiêu chuẩn kiểm soát được hậu quả pháp lý phát sinh từ nội dung trợ giúp pháp lý. Tiêu chuẩn này đòi hỏi người thực hiện trợ giúp pháp lý phải cung cấp đầy đủ thông tin và dự báo được những rủi ro, những hậu quả pháp lý sẽ phát sinh khi đưa ra quan điểm, nhận định để người được trợ giúp pháp lý lựa chọn hoặc đề xuất cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng pháp luật và đề xuất được các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục rủi ro, hậu quả bất lợi (Điều 11).
Bảy là, tiêu chuẩn hồ sơ vụ việc trợ giúp pháp lý. Theo tiêu chuẩn này, hồ sơ vụ việc đã được lập, quản lý theo đúng quy định của pháp luật, được sắp xếp theo thứ tự thời gian, dễ tra cứu, khai thác và sử dụng. Hồ sơ đã thể hiện đầy đủ, chính xác, trung thực quá trình thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý theo hình thức, trình tự thời gian, nội dung khách quan của vụ việc và kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 12).
2.2. Các tiêu chuẩn theo hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm:
Tuỳ theo từng hình thức trợ giúp pháp lý mà các yêu cầu đối với việc thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý lại khác nhau. Do đó, ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, việc xác định vụ việc trợ giúp pháp lý có chất lượng còn phải căn cứ vào các tiêu chuẩn riêng gồm các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục, nội dung trợ giúp pháp lý... trong các vụ việc cụ thể như: tiêu chuẩn chất lượng vụ việc tư vấn pháp luật (Điều 13); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc tham gia tố tụng hình sự (Điều 14); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc tham gia tố tụng dân sự (Điều 15); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc tham gia tố tụng hành chính (Điều 16); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc đại diện ngoài tố tụng (Điều 17); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc hoà giải (Điều 18); tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại (Điều 19).
3. Về vấn đề đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý
Ngoài yếu tố định lượng là các tiêu chuẩn nêu trên, việc đánh giá về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý còn dựa trên cơ sở những yêu cầu thể hiện tính chất của vụ việc như: mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; mức độ tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý; mức độ hài lòng của người được trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về nội dung trợ giúp pháp lý; mức độ tham gia của người được trợ giúp pháp lý vào quá trình quyết định các vấn đề có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý và mức độ tác động của vụ việc trợ giúp pháp lý đối với người được trợ giúp pháp lý, với quá trình thực thi pháp luật và đối với xã hội (Điều 22).
Ngoài ra, Bộ tiêu chuẩn cũng quy định cụ thể các vấn đề có liên quan đến báo cáo kết quả đánh giá, kết luận đánh giá; xử lý vụ việc trợ giúp pháp lý không đạt chất lượng và xử lý hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện trong quá trình đánh giá (từ Điều 29 đến Điều 32).
4. Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong tổ chức thực hiện Bộ tiêu chuẩn:
Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác kiểm tra chất lượng vụ việc; quản lý, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện việc đánh giá mức độ chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; hướng dẫn nghiệp vụ đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc (Điều 33).
Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm: chỉ đạo Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và hướng dẫn tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định tại Bộ tiêu chuẩn này; quyết định thành lập Đoàn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý tại các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc quyền quản lý; trực tiếp hoặc kiến nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các vấn đề liên quan đến người thực hiện trợ giúp pháp lý và các giải pháp bảo đảm chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong địa bàn (Điều 34).
Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm: xây dựng kế hoạch đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo định kỳ; thực hiện đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do người thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc Cộng tác viên của tổ chức mình thực hiện; áp dụng các biện pháp cần thiết phù hợp pháp luật để bảo đảm chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện kết luận đánh giá của người có thẩm quyền; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo kết quả đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý gửi Cục Trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp và cơ quan quản lý theo quy định của pháp luật (Điều 35).
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức chủ quản của tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý có trách nhiệm: chỉ đạo việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Bộ tiêu chuẩn này; có kế hoạch phối hợp, thực hiện chế độ báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trong quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (Điều 36).
Đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm: kịp thời tự đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đối với các vụ việc trợ giúp pháp lý đã hoàn thành do mình thực hiện theo quy định của Bộ tiêu chuẩn này; tuân thủ và có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp, cộng tác với người tiến hành đánh giá, Đoàn đánh giá trong việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do mình thực hiện; thực hiện việc báo cáo kết quả tự đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định (Điều 37).
Như vậy, Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được ban hành vào thời điểm hiện tại có ý nghĩa rất quan trọng. Một mặt, thực hiện Bộ tiêu chuẩn này góp phần nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở cho người có yêu cầu trợ giúp pháp lý được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí với chất lượng tốt nhất. Mặt khác, việc quy định cụ thể nhất các vấn đề liên quan đến chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã tạo cơ sở pháp lý để người thực hiện trợ giúp pháp lý tự đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý do mình thực hiện hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; để cơ quan, tổ chức và nhân dân giám sát việc thi hành pháp luật về trợ giúp pháp lý. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm, năng lực của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý để xác định mức độ trách nhiệm trong trường hợp có sai sót và có biện pháp bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao năng lực của người thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý./.
Đỗ Hương