Bảo đảm quyền được TGPL tại các Bộ luật, Luật tố tụng và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015

30/11/2015
Trong các ngày 25 và 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua các Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam (2015). Theo nội dung các Bộ luật, luật nêu trên thì quyền được trợ giúp pháp lý (miễn phí) trong tố tụng đã được bảo đảm.

Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự đã ghi nhận Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự  (Điều 72, Điều 83 và Điều 84 của Bộ luật). Bộ luật tố tụng hình sự cũng chia sẻ trách nhiệm thực hiện bào chữa theo án chỉ định cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Theo đó tại Điều 72 của Bộ luật thì đối với người thuộc diện được trợ giúp pháp lý là: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người chưa thành niên thì Trung tâm phải cử người bào chữa cho họ theo chỉ định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự quy định trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền được trợ giúp pháp lý: trong trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Việc thông báo, giải thích phải được ghi vào biên bản (Điều 71 của Bộ luật).

Ngoài ra, việc đề xuất đưa vào Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 4/7/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao  hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng đối với: trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối – nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan khi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thể hiện nguyện vọng đồng ý hoặc từ chối người bào chữa chưa được liên ngành chấp nhận lúc đó thì nay đã được ghi nhận tại Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 77).

Lần đầu tiên, tại Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 9 và Điều 48), Luật tố tụng hành chính (Điều 19 và Điều 38), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cũng (Điều 8 và Điều 9) đều đã quy định nguyên tắc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý, nghiêm cấm cản trở quyền được trợ giúp pháp lý, giải thích hướng dẫn cho người bị tạm giữ, tạm giam, các đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý bên cạnh việc tiếp tục khẳng định Trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Việc Quốc hội thông qua các Điều luật bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý tại các Bộ luật, Luật tố tụng và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 đã khẳng định vị trí, vai trò của công tác trợ giúp pháp lý trong đời sống xã hội, là một công cụ quan trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp 2013, phù hợp với định hướng đổi mới công tác trợ giúp pháp lý lấy nhiệm vụ thực hiện trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực tố tụng là trọng tâm, là khâu đột phá của trợ giúp pháp lý.

Với việc giải thích quyền được trợ giúp pháp lý, thông báo, chỉ định thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ khắc phục tình trạng bỏ sót nhu cầu trợ giúp pháp lý của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, nhất là với người sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí pháp lý hạn chế chưa thể nhận biết, tiếp cận với thông tin, hoạt động trợ giúp pháp lý.

                              Cù Thu Anh