Chuyên đề: Các nghề tư pháp ở cộng hoà Pháp

03/03/2009
Cộng hòa Pháp là một trong những quốc gia có truyền thống lập pháp từ rất lâu đời. Cùng với sự hình thành sớm của hệ thống pháp luật thực định là sự ra đời của các nghề tư pháp (từ thời La Mã cổ đại). Những chủ thể này đã và đang chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì công lý, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Pháp.

Do khái niệm “các nghề tư pháp” đang còn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu, nên trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin không đề cập đến nội hàm của khái niệm này mà chỉ tập trung giới thiệu các nghề sau đây ở Pháp: thẩm phán, thừa phát lại, công chứng viên, luật sư, giám định viên trên các phương diện: điều kiện tuyển dụng/bổ nhiệm, cơ chế quản lý, phương thức hành nghề, trách nhiệm pháp lý…

I. Nghề Thẩm phán:

Thuật ngữ “thẩm phán” ở Cộng hòa Pháp được hiểu bao gồm cả công tố viên (vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập kỹ trong phần cuối của mục này).

1. Bổ nhiệm thẩm phán:

Xuất phát từ quan niệm của Pháp coi thẩm phán là một loại nghề đặc biệt, nên việc bổ nhiệm thẩm phán phải tuân thủ những nguyên tắc chặt chẽ  như sau:

- Bổ nhiệm suốt đời, có nghĩa là về nguyên tắc, từ lúc bổ nhiệm đến khi nghỉ hưu[1] thì thẩm phán không thể bị miễn nhiệm, trừ khi có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Nguyên tắc này là nền tảng pháp lý đảm bảo cho thẩm phán có được tính độc lập trong hoạt động của mình;

- Không cho phép có thu nhập ngoài lương, có nghĩa là Nhà nước chỉ cho phép thẩm phán có thu nhập từ lương mà không được phép có bất kỳ một khoản thu nhập nào khác từ hoạt động kinh doanh, kể cả từ cổ phiếu (trừ khi được thừa kế). Nhà nước trả lương cho thẩm phán ngay khi mới được tuyển vào Trường đào tạo thẩm phán. Nguyên tắc này cũng nhằm bảo đảm cho thẩm phán toàn tâm, toàn ý với công việc, không chịu bất kỳ một sự tác động nào từ bên ngoài có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động xét xử. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, Nhà nước Pháp trả lương cho thẩm phán rất cao (theo chúng tôi được biết thì mức lương khởi điểm dành cho thẩm phán ở Pháp khi mới vào nghề là 1.400 euro, tương đương 28 triệu đồng Việt Nam/tháng);

- Tuyển chọn thông qua thi tuyển. Nguyên tắc này bảo đảm tính dân chủ, công bằng và độc lập trong việc tuyển chọn thẩm phán. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, Nhà nước cho phép tuyển chọn thẩm phán thông qua chế độ cử tuyển (chủ yếu trong trường hợp các giáo sư, luật sư có uy tín).

Các điều kiện để được bổ nhiệm làm thẩm phán bao gồm:

Thứ nhất, phải là người có quốc tịch Pháp. Theo quan điểm của Pháp thì tẩm phán là người duy trì công lý cho chế độ xã hội, do đó không thể tuyển dụng người nước ngoài làm thẩm phán nước mình;

Thứ hai, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;

 Thứ ba, chưa từng có tiền án;

Thứ tư, có phẩm chất đạo đức tốt;

Thứ năm, có sức khỏe tốt. Tuy nhiên, trên thực tế đã có trường hợp Pháp tuyển chọn một số người tàn tật nhưng có trình độ luật uyên bác làm thẩm phán.

Thứ sáu, có trình độ từ đại học trở lên.

Trong việc thi tuyển, để phân hóa nhằm phù hợp với từng loại đối tượng, hàng năm, Pháp thường tổ chức ba kỳ thi tuyển khác nhau: kỳ thi dành cho sinh viên, dành cho công chức và dành cho người đang làm việc trong khu vực tư nhân. Kỳ thi dành cho sinh viên ường mang tính chọn lọc cao với tỷ lệ chọi thường là 1/18 (khó tương đương với kỳ thi vào Học viện Hành chính quốc gia là trường danh tiếng hàng đầu ở Pháp).

* Thủ tục bổ nhiệm thẩm phán:

Đối với thẩm phán làm nhiệm vụ công tố thì việc bổ nhiệm thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp (Vụ quản lý tòa án). Trong trường hợp này, Bộ Tư pháp tham khảo ý kiến của Hội đồng thẩm phán tối cao[2], sau đó trình lên Tổng thống ra quyết định bổ nhiệm;

            Đối với thẩm phán xét xử thì Hội đồng thẩm phán tối cao có quyền đề xuất bổ nhiệm các thành viên của Tòa Tư pháp tối cao, Chánh án các Tòa Phúc thẩm và Chánh án các Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng (tổng cộng khoảng 350 vị trí), sau đó trình Tổng thống quyết định. Các trường hợp còn lại (thẩm phán sơ cấp và phúc thẩm), thì Bộ Tư pháp tham khảo ý kiến của Hội đồng thẩm phán tối cao trước khi ra Quyết định bổ nhiệm (tuy nhiên ý kiến của Hội đồng thẩm phán tối cao trong trường hợp này lại có giá trị ràng buộc đối với Bộ Tư pháp, tức là Bộ Tư pháp không thể bổ nhiệm một người làm thẩm phán nếu như có sự phản đối từ phía Hội đồng thẩm phán tối cao).

2. Quản lý thẩm phán:

Như trên đã nói, thuật ngữ thẩm phán ở Pháp được hiểu bao gồm thẩm phán xét xử (thẩm phán ngồi) và thẩm phán Thẩm phán  công tố (thẩm phán đứng). Thẩm phán xét xử có nhiệm vụ áp dụng pháp luật và đưa ra phán quyết, trong khi đó thẩm phán  công tố (thẩm phán đứng) có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, thực hiện chức năng công tố và yêu cầu áp dụng pháp luật. Nói cách khác, thẩm phán công tố chính là công tố viên.

Theo Bộ luật tổ chức tư pháp của Pháp, thì hai lực lượng này được tổ chức thống nhất: cùng đào tạo một trường, cùng ràng buộc bằng lời tuyên thệ như nhau và có thể thuyên chuyển vị trí của nhau một cách dễ dàng (chỉ có một hạn chế duy nhất là khi thuyên chuyển thì không được thụ lý lại vụ việc đã từng thụ lý trước đây). Khác nhau duy nhất giữa hai lực lượng này chính là tính độc lập. Nếu như các thẩm phán xét xử được tổ chức không tuân theo thứ bậc, thì các thẩm phán công tố được tổ chức theo thứ bậc hành chính, tuân thủ nguyên tắc thủ trưởng chế, đứng đầu là Chưởng ấn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Xuất phát từ sự khác nhau này mà chế độ quản lý đối với mỗi loại thẩm phán có những đặc thù riêng.

2.1. Chức năng quản lý của Bộ Tư pháp:

Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán, trừ các thành viên của Tòa Tư pháp tối cao, Chánh án các Tòa Phúc thẩm và Chánh án các Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng như đã nói ở trên. Để thực hiện chức năng này, Bộ Tư pháp đã thành lập Vụ quản lý tòa án trực thuộc Bộ Tư pháp.

2.2. Chức năng quản lý của Hội đồng thẩm phán tối cao:

Đối với các thẩm phán công tố, Hội đồng chỉ có thẩm quyền tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong việc bổ nhiệm.

Riêng đối với thẩm phán xét xử, Hội đồng có thẩm quyền xem xét việc trình Tổng thống bổ nhiệm đối với các thành viên của Tòa Tư pháp tối cao, Chánh án các Tòa Phúc thẩm và Chánh án các Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng.

2.3. Phân công công việc trong nội bộ Tòa án:

Hệ thống Tòa án Pháp hoạt động theo chế độ hai thủ trưởng là Chánh án và Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa án. Mọi công việc quản lý chung trong nội bộ Tòa án đều phải do hai nhân vật này thống nhất quyết định. Ngoài ra, trong phạm vi thẩm quyền của mình, Chánh án có quyền phân công công việc cho thẩm phán xét xử, trong khi đó Viện trưởng Viện Công tố có quyền phân công công việc cho thẩm phán công tố.

3. Đào tạo thẩm phán:

Việc đào tạo thẩm phán ở Pháp (cả về lý thuyết lẫn thực hành), đều do Trường Đào tạo thẩm phán quốc gia thực hiện. Hiệu trưởng Trường này do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Có hai loại hình đào tạo sau:

3.1. Đào tạo cơ bản:

Sau khi thi đỗ kỳ thi như đã trình bày ở trên, các học viên được đào tạo tại Trường này trong thời gian 03 năm. Nội dung giảng dạy bao gồm những kiến thức lý thuyết và các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản như kỹ năng viết bản án, kỹ năng viết bản cáo trạng, kỹ năng viết báo cáo… Sau đó, các học viên đi thực tập tại các Tòa án hoặc các cơ quan khác như sở cảnh sát, văn phòng luật sư, trại giam, các doanh nghiệp (cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước). Phần thực tập được coi là trọng tâm trong chương trình đào tạo cơ bản.

3.2. Đào tạo thường xuyên (bồi dưỡng):

Mỗi năm, tất cả các thẩm phán đều phải trải qua khóa đào tạo ngắn ngày ít nhất là 01 tuần. Trong mỗi Tòa Phúc thẩm ở Pháp có một thẩm phán chuyên phụ trách vấn đề bồi dưỡng chuyên môn đối với thẩm phán. Hình thức đào tạo này nhằm mở rộng hoặc cập nhật những kiến thức pháp lý cho các thẩm phán đang hành nghề.

4. Kỷ luật thẩm phán:

Đối với thẩm phán xét xử, Hội đồng thẩm phán tối cao là cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật. Việc xử lý này được thực hiện theo nguyên tắc công khai và tranh tụng. Quyết định xử lý kỷ luật của Hội đồng thẩm phán tối cao có thể bị khiếu kiện ra Tham chính viện (Tòa Hành chính tối cao của Pháp).

Còn đối với thẩm phán công tố, Bộ trưởng Bộ Tư pháp là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật (Hội đồng thẩm phán tối cao trong trường hợp này đóng vai trò tư vấn). Quyết định xử lý kỷ luật của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng có thể bị khiếu kiện ra Tham chính viện.

Theo thống kê, mỗi năm ở Pháp có khoảng 10 trường hợp thẩm phán bị xử lý kỷ luật (với các lỗi thường là: thiếu năng lực nghiêm trọng, lạm dụng quyền hạn, không trung thực, sử dụng giấy tờ giả, làm lộ thông tin, trốn nộp thuế…).

Về trách nhiệm vật chất: nguyên tắc chung là Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do thẩm phán gây ra trong hoạt động nghề nghiệp. Sau đó thẩm phán có nghĩa vụ hoàn lại đối với Nhà nước toàn bộ hoặc một phần khoản bồi thường này tùy theo mức độ lỗi.

II. Nghề Thừa phát lại (Chấp hành viên):

Ở Pháp, quy chế của thừa phát lại cũng gần giống với quy chế của công chứng viên, vì thừa phát lại vừa là ủy viên t­ư pháp, lại vừa là ng­ười hành nghề độc lập. Hai chức năng này của thừa phát lại kết hợp hài hoà với nhau để đảm bảo hiệu quả và an toàn trong công tác thi hành án dân sự.

1. Bổ nhiệm thừa phát lại:

Để đ­ược bổ nhiệm làm thừa phát lại, ứng cử viên phải có bằng đại học luật, phải đã thi đỗ trong kỳ thi kiểm tra chuyên môn sau hai năm thực tập trong một văn phòng thừa phát lại, có quốc tịch Pháp và có đạo đức tốt. Người có thẩm quyền bổ nhiệm thừa phát lại là Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Trong các điều kiện trên, quan trọng nhất là điều kiện về năng lực chuyên môn. Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập, thừa phát lại phải làm việc với những quy định pháp luật quốc gia cũng như­ quốc tế rất phức tạp. Do đó, trư­ớc khi ra quyết định bổ nhiệm, Bộ Tư pháp phải kiểm tra năng lực chuyên môn của ứng cử viên.

2. Hoạt động của thừa phát lại:

Sau khi đ­ược bổ nhiệm, thừa phát lại hoạt động trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Việc phân bổ hoạt động nghề nghiệp của thừa phát lại ở Pháp gắn liền với việc xác định phạm vi hoạt động theo lãnh thổ. Thừa phát lại làm việc trong mỗi đơn vị lãnh thổ cấp quận. Thẩm quyền của thừa phát lại bị giới hạn về mặt lãnh thổ. Điều đó đảm bảo cho thừa phát lại hiểu rõ về khu vực địa lý nơi mình hoạt động. Trong một đơn vị lãnh thổ, có thể có nhiều văn phòng thừa phát lại nên các văn phòng phải cạnh tranh với nhau. Do vậy, yêu cầu về hiệu quả và đảm bảo trong công tác thi hành án đư­ợc đặt ra. Thừa phát lại không đư­ợc hoạt động v­ượt quá phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền của mình. Số l­ượng các thừa phát lại ở Pháp là hạn chế, do Bộ trư­ởng Bộ Tư­ pháp ấn định như­ng cũng ngày càng tăng do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội.

Thừa phát lại hành nghề độc lập vì trên thực tế ở Pháp, thừa phát lại tự tổ chức văn phòng của mình nh­ư một doanh nghiệp nhỏ. Thừa phát lại tuyển dụng nhân viên, quản lý nhân viên theo quy định pháp luật lao động, quản lý văn phòng, giải quyết các công việc thư­ờng ngày của mình như một chủ doanh nghiệp. Đi liền với nguyên tắc này, thừa phát lại tự trả l­ương cho nhân viên của mình. Cần lưu ý rằng thừa phát lại không đ­ược Nhà n­ước trả bất kỳ một khoản lương hay trợ cấp nào. Nói cách khác, thừa phát lại tự đảm bảo thu chi trong hoạt động của mình. Đây là điểm khác biệt lớn nhất so với các chấp hành viên ở Việt Nam.

Tuy hành nghề độc lập như một nghề tự do, nhưng thừa phát lại lại là một ủy viên tư­ pháp, do đó, hoạt động của thừa phát lại có những đặc thù riêng. Hoạt động của thừa phát lại gắn liền với quyền lực công cộng, do đó trong hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, pháp luật cho phép thừa phát lại có thể yêu cầu lực l­ượng công quyền hỗ trợ khi thực hiện nhiệm vụ (chủ yếu là hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành án).

3. Quản lý thừa phát lại:

Việc quản lý thừa phát lại do Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa án thực hiện (người đại diện của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Viện trưởng Viện Công tố có quyền kiểm tra hoạt động và chất l­ượng của công việc do thừa phát lại thực hiện. Việc kiểm tra, giám sát này là liên tục trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của thừa phát lại. Đối tượng của việc kiểm tra này là các tài liệu kế toán; các khoản tiền mà thừa phát lại thu được khi làm nhiệm vụ thi hành án; các khoản tiền, tài sản mà thừa phát lại quản lý tại văn phòng của mình; các trình tự, thủ tục do thừa phát lại tiến hành, chất l­ượng của những văn bản mà thừa phát lại soạn ra, phư­ơng thức làm việc của thừa phát lại, lệ phí mà thừa phát lại thu được. Riêng về lệ phí, pháp luật quy định khi thừa phát lại thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực dịch vụ công thì phải áp dụng một chế độ thu lệ phí thống nhất, không phụ thuộc vào nơi thừa phát lại hành nghề, do đó, thừa phát lại không được tuỳ tiện đặt ra các loại hoặc mức phí khác nhau.

4. Trách nhiệm của thừa phát lại:

Trách nhiệm của thừa phát lại cũng là một yếu tố nâng cao hiệu quả và đảm bảo trong hoạt động của thừa phát lại. Thừa phát lại chịu trách nhiệm về các văn bản mà mình tống đạt. Ngoài ra, thừa phát lại chịu trách nhiệm về mặt tài chính đối với công việc của mình hoặc những sai lầm có thể mắc phải. Nếu nhiều thừa phát lại hành nghề chung thì các thừa phát lại phải liên đới chịu trách nhiệm. Cũng t­ương tự như­ công chứng viên, thừa phát lại có nghĩa vụ đóng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong tr­ường hợp mức bồi thường trách nhiệm nghề nghiệp v­ượt quá phí bảo hiểm, thì các thừa phát lại liên đới chịu trách nhiệm và trong mọi tr­ường hợp phạm lỗi, tất cả các thừa phát lại đều phải bồi th­ường thiệt hại.

5. Kỷ luật thừa phát lại:

Đi liền với quyền hạn tương đối rộng, pháp luật cũng quy định trong trường hợp phạm lỗi, thì thừa phát lại phải bị xử phạt. Các biện pháp xử phạt đối với thừa phát lại rất nghiêm khắc và do Hội đồng kỷ luật hoặc Tòa án tiến hành.

Hội đồng thừa phát lại cấp tỉnh tập hợp toàn bộ các thừa phát lại hoạt động trên địa bàn tỉnh. Hội đồng thừa phát lại tỉnh có nhiệm vụ đảm bảo kỷ luật đối với toàn bộ thừa phát lại trong phạm vi của tỉnh. Thừa phát lại có thể bị xử lý kỷ luật trước Hội đồng thừa phát lại cấp tỉnh trong trường hợp vi phạm ở mức độ nhẹ. Trong trường hợp vi phạm pháp luật ở mức độ nặng, thì Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng là cơ quan có thẩm quyền xử lý. Trong trường hợp gây thiệt hại thì thừa phát lại còn phải chịu trách nhiệm dân sự (bồi thường thiệt hại) như đã nói ở trên.

            III. Công chứng viên:

1. Bổ nhiệm công chứng viên

Các điều kiện để có thể trở thành công chứng viên là (i) phải có quốc tịch Pháp, (ii) đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức, (iii) có các tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn cần thiết đ­ược xác nhận qua một khoá đào tạo nghề nghiệp.

Về trình độ, ứng cử viên phải có bằng tốt nghiệp đại học, nghĩa là ít nhất phải có 4 năm đại học luật. Sau đó, phải trải qua một khoá đào tạo chuyên môn cả về lý thuyết lẫn thực hành, đ­ược tổ chức tại các trung tâm đào tạo nghề nghiệp hoặc ngay tại những tr­ường đại học đã ký hợp đồng đào tạo về công chứng[3]. Sau khoá đào tạo, học viên phải qua một kỳ thi và nếu đỗ thì đ­ược cấp bằng về công chứng. Kỳ thi này tương đối khó (ví dụ tại Tr­ường đại học Ly-ông, tỷ lệ học viên thi đỗ là 25/600 ng­ười).

Những ngư­ời đư­ợc cấp bằng về công chứng, nh­ưng khi ch­ưa được bổ nhiệm làm công chứng viên thì có thể hoạt động với t­ư cách là trợ lý công chứng viên. Với t­ư cách này, họ hoạt động nh­ư ng­ười làm công ăn l­ương trong một phòng công chứng tr­ước khi quyết định hoạt động nh­ư một công chứng viên. Sau khi đã có bằng về công chứng và đã đáp ứng các điều kiện cần thiết, ứng cử viên sẽ đư­ợc Bộ tr­ưởng Bộ Tư­ pháp bổ nhiệm là công chứng viên hành nghề với tư cách cá nhân hoặc trong khuôn khổ một công ty dân sự nghề nghiệp.

Trong mọi trư­ờng hợp, khi bắt đầu hoạt động, công chứng viên phải tuyên thệ tại Toà án và phải tuyên thệ lại tại Hội nghị toàn thể công chứng viên, và đ­ược Nhà n­ước cấp con dấu để hành nghề.

Cơ cấu tổ chức nghề nghiệp của công chứng viên dựa trên cơ cấu tổ chức tư pháp. Có Hội đồng công chứng tỉnh đại diện cho công chứng của tỉnh, Hội đồng công chứng vùng đại diện cho công chứng ở cấp Toà phúc thẩm, và cuối cùng là Hội đồng công chứng tối cao đại diện cho công chứng trên phạm vi toàn quốc. Tất cả thành viên của các Hội đồng này do các công chứng viên bầu ra và giữ chức năng đại diện của công chứng viên, đảm bảo tôn trọng kỷ luật nghề nghiệp, tổ chức công tác đào tạo, công tác thanh tra, kiểm tra trên cơ sở phối hợp với Viện Công tố.

2. Chức năng của công chứng viên:

Nhiệm vụ cơ bản của công chứng viên là chứng thực các hợp đồng. Trong trường hợp này, công chứng viên xác nhận có sự thoả thuận giữa các bên, xác minh tính hợp pháp của thoả thuận đó, xác minh các bên giao kết (có đúng những ng­ười có mặt chính là đại diện của các bên để ký hợp đồng không?), xác minh thẩm quyền, năng lực pháp luật của các bên (kiểm tra xem trong hợp đồng có chứa những điều khoản có nội dung mà pháp luật cấm không) và cuối cùng là kiểm tra xem việc ký kết hợp đồng có tuân thủ tất cả các trình tự, thủ tục cần thiết không. Ngoài ra, công chứng viên còn phải ký vào hợp đồng, ghi vào hợp đồng ngày tháng chính xác của việc ký kết, thừa nhận giá trị chứng cứ của hợp đồng, hiệu lực thi hành của hợp đồng.

Ngoài ra, công chứng viên còn có một số nhiệm vụ bổ sung khác, cụ thể như sau:  

Thứ nhất, công chứng viên có nghĩa vụ tư­ vấn một cách công minh cho các bên giao kết hợp đồng, l­ưu ý họ về phạm vi, các hệ quả, rủi ro có thể phát sinh từ hợp đồng để bảo vệ lợi ích của tất cả các bên trong hợp đồng, dù đó là bên bán hay bên mua. Với nghĩa vụ tư­ vấn này, công chứng viên không chỉ làm nhiệm vụ cùng ký vào hợp đồng, xác nhận ý chí của các bên trong hợp đồng, mà còn có nhiệm vụ giúp đỡ các bên thể hiện ý chí đó trong hợp đồng, lựa chọn các thể thức ký kết hợp đồng phù hợp tuỳ thuộc vào mục đích của hợp đồng, vào các quy định pháp luật áp dụng cho hợp đồng, thông tin cho các bên biết về những hệ quả pháp lý, thuế khoá có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng[4]. Như­ vậy, công chứng viên giữ một vai trò mang tính xã hội vì công chứng viên phải có trách nhiệm quan tâm đến các lợi ích vật chất, kinh tế cũng như­ tinh thần của khách hàng dù khách hàng là một cá nhân, hộ gia đình hay một doanh nghiệp.

Thứ hai, công chứng viên có nhiệm vụ hoà giải sự bất đồng về quan điểm của các bên trong quá trình soạn thảo hợp đồng, để đảm bảo sự công bằng trong hợp đồng, đảm bảo tôn trọng quyền lợi chính đáng của mỗi bên giao kết. Yêu cầu về hợp đồng công bằng là một yêu cầu rất quan trọng của công chứng, do vậy, công chứng viên thực sự giữ vai trò trọng tài và hoà giải các bên. Điều này nhằm mục đích phòng ngừa xảy ra tranh chấp hợp đồng sau này.

Thứ ba, công chứng viên có nhiệm vụ bảo quản các văn bản. Công chứng viên phải cấp bản sao có chứng thực của các văn bản do mình ký. Các văn bản do công chứng viên lập là các văn bản công, không thuộc sở hữu của công chứng viên cũng như các bên mà thuộc về kho l­ưu trữ của Nhà n­ước.

Thứ tư, công chứng viên có nhiệm vụ thu thuế. Khi nhận một văn bản, công chứng viên có trách nhiệm tính mức thuế áp dụng đối với hợp đồng, thu tiền từ khách hàng và nộp khoản thu đó cho cơ quan thuế. Để làm nhiệm vụ này, công chứng viên phải hiểu biết rất rõ các quy định pháp luật về thuế. Nếu công chứng viên tính toán nhầm lẫn thì phải chịu trách nhiệm thay cho khách hàng trư­ớc cơ quan thuế.

3. Quản lý công chứng viên:

Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền quản lý công chứng viên thông qua việc bổ nhiệm, ấn định số l­ượng các phòng công chứng, nơi đặt trụ sở phòng công chứng, quyết định việc thành lập phòng công chứng, việc chuyển nh­ượng, giải thể, sát nhập phòng công chứng. Để thực hiện những nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp thành lập một đơn vị trong Bộ có tên là Uỷ ban phân bổ công chứng viên trực thuộc Bộ T­ư pháp. Đứng đầu Uỷ ban này là một thẩm phán, thành viên là các thẩm phán, giáo sư luật, công chứng viên và đại diện của Bộ Tài chính.

Bộ Tư pháp thực hiện việc kiểm tra, giám sát công chứng viên không chỉ ở giai đoạn bổ nhiệm mà còn trong suốt hoạt động nghề nghiệp. Ở Pháp, về nguyên tắc, tất cả các phòng công chứng đều bị thanh tra ít nhất một lần một năm. Viện Công tố (đại diện của Bộ T­ư pháp) chịu trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên.

4. Nghĩa vụ của công chứng viên:

Công chứng viên không được nhận chứng thực các văn bản mà mình có quyền và lợi ích liên quan; không đ­ược can thiệp vào các vụ việc liên quan đến các giao dịch th­ơng mại, chứng khoán, ngân hàng và tuyệt đối không đ­ược quảng cáo dịch vụ của mình với khách hàng (bằng cách tự ý giảm tiền thù lao chẳng hạn).

Công chứng viên có nghĩa vụ lập các văn bản, nghĩa là nhận các văn bản nếu đ­ược yêu cầu, điều này không phụ thuộc vào tầm quan trọng của văn bản, hay giá trị của văn bản.

Về thù lao, công chứng viên có nghĩa vụ tuân thủ biểu giá do Nhà nước quy định, không thể tự ý tăng hay giảm lệ phí. Công chứng viên còn có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đảm bảo trong phạm vi trách nhiệm nghề nghiệp của mình, nghĩa vụ nộp các khoản tiền đã thu tại phòng công chứng, dù là tiền thu cho mình hoặc thu cho khách hàng, tại Ngân hàng Nhà n­ước của Pháp hoặc Quỹ ký gửi.

Trên thực tế, công chứng viên thực sự là một chủ doanh nghiệp, thu nhập của công chứng viên là tiền thù lao do công chứng viên thu từ khách hàng. Công chứng viên tổ chức văn phòng theo cách riêng của mình, tuyển dụng nhân viên, thuê trụ sở, sắp đặt tài liệu, trang thiết bị văn phòng theo cách riêng. Công chứng viên phải hành nghề một cách độc lập, hoặc với t­ư cách cá nhân, hoặc trong khuôn khổ một công ty dân sự nghề nghiệp. Các loại hình công ty dân sự nghề nghiệp của công chứng viên đư­ợc pháp luật quy định rất chặt chẽ.

Một điểm độc đáo nữa trong pháp luật công chứng của Pháp là quy chế hành nghề tự do trao cho công chứng viên có quyền tài sản đối với doanh nghiệp của mình. Giống như­ luật s­ư, bác sỹ, công chứng viên có quyền chuyển nh­ượng văn phòng của mình và đ­ược thanh toán khoản tiền chuyển nh­ượng. Thậm chí, công chứng viên còn có quyền đề xuất Bộ tr­ưởng Bộ T­ư pháp bổ nhiệm ngư­ời kế nhiệm của mình.

Bên cạnh đó, công chứng viên còn có thể là ng­ười làm công ăn l­ương. Trong trường hợp này, công chứng viên bị ràng buộc bởi một hợp đồng lao động ký với phòng công chứng nh­ưng vẫn có một con dấu riêng do Nhà nước cấp cho. Công chứng viên này nhận làm các văn bản và phải chịu trách nhiệm với tư cách cá nhân.

Về phía khách hàng, quy chế tự do của công chứng viên chính là nền tảng cho niềm tin của khách hàng và tạo điều kiện cho khách hàng có thể tự do lựa chọn công chứng viên, tạo môi tr­ường cạnh tranh giữa các công chứng viên với nhau, chủ yếu là dựa trên các tiêu chí về năng lực, khả năng sẵn sàng cung cấp dịch vụ và chất l­ượng dịch vụ công chứng.

IV. Luật sư:

1. Các phương thức trở thành luật sư:

Có 3 phư­ơng thức gia nhập nghề luật sư: văn bằng, thi tuyển bên ngoài và phư­ơng thức hành nghề của luật sư­ n­ước ngoài.

1.1.  Qua các văn bằng:

Theo Bộ luật tổ chức tư pháp quy định, thì muốn trở thành luật sư phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Là ng­ười Pháp hoặc công dân của một n­ước thành viên của Liên minh Châu Âu hoặc một n­ớc có quan hệ với Pháp trên cơ sở một hiệp định song phương về hoạt động luật s­ư;

          - Có bằng cử nhân luật, nghĩa là đã qua 4 năm đại học luật hoặc có văn bằng t­ương đ­ương do Chính phủ quy định (ví dụ bằng tốt nghiệp Tr­ường thuế quốc gia, bằng tốt nghiệp một tr­ường đại học n­ớc ngoài đ­ược quy định là điều kiện cần thiết để có thể hoạt động trong một nghề pháp luật đư­ợc quy định ở nư­ớc cấp bằng;

- Phải có Chứng chỉ xác nhận khả năng hành nghề luật sư­, mà ở Pháp gọi là CAPA[5]. Chứng chỉ CAPA này do một trung tâm đào tạo nghề nghiệp của vùng cấp cho những sinh viên sau khi đã hoàn thành 4 năm đào tạo đại học và tốt nghiệp tại Trung tâm này. Hội đồng giám khảo kỳ thi vào Trung tâm bao gồm một thẩm phán, một giáo viên luật và một luật s­ư. Sau khi được nhận vào Trung tâm, học viên sẽ trải qua thời gian học về đạo đức nghề nghiệp luật sư và thời gian thực tập 01 năm tại văn phòng luật sư­, Tòa án, doanh nghiệp…, Cần lưu ý một điểm là học viên không đ­ược tham dự kỳ thi lấy chứng chỉ CAPA quá hai lần.

1.2. Thi tuyển bên ngoài:

Theo quy định của Nghị định năm 1991, thì một số ngư­ời hành nghề pháp luật và t­ư pháp đ­ược miễn chứng chỉ CAPA, bao gồm thẩm phán của Tham chính viện và các Tòa án hành chính, các giáo sư­ luật, các thẩm phán của các Tòa Tư­ pháp, các luật s­ư lâu năm trong nghề, giảng viên các tr­ường đại học (với điều kiện phải có bằng tiến sỹ về luật hoặc khoa học kinh tế), công chứng viên, thừa phát lại, quản trị viên t­ư pháp, ủy nhiệm viên t­ư pháp...Ngoài ra, một số công chức thuộc nhóm A hoặc các công chức thuộc nhóm t­ương đ­ương đã hoạt động trong lĩnh vực pháp luật từ 8 năm trở lên, luật gia của doanh nghiệp đã làm việc ở bộ phận pháp lý từ 8 năm trở lên  cũng có thể trở thành luật sư­ mà không cần phải có chứng chỉ CAPA.

1.3. Ng­ười n­ước ngoài:

Người nước ngoài cũng có thể hành nghề luật sư­ ở Pháp. Cần phân biệt hai loại đối tư­ợng sau:

- Luật sư­ đến từ một nư­ớc thành viên của Liên minh Châu Âu đư­ợc miễn chứng chỉ CAPA nếu có bằng đại học của nư­ớc mà mình mang quốc tịch;

- Luật sư đến từ các nước không phải là thành viên của Liên minh Châu Âu: phải trải qua kỳ thi để lấy chứng chỉ CAPA như đối với công dân của Pháp muốn trở thành luật sư.

2. Hành nghề của luật sư:

Sau khi được cấp chứng chỉ CAPA và đã tuyên thệ, luật sư­ phải đi thực tập khoảng 2 năm trong một văn phòng luật sư­ để học nghề và trong thời gian này, luật sư thực tập đ­ược thực hiện tất cả các chức năng của một luật s­ư bình thường.

Luật sư­ có thể hành nghề theo từng chuyên ngành luật. Ở Pháp, có 15 chuyên ngành khác nhau và luật sư­ có thể hành nghề nhiều nhất là trong hai chuyên ngành (ví dụ: vừa hành nghề trong lĩnh vực luật hình sự, vừa hành nghề trong lĩnh vực luật lao động). Đương nhiên, luật sư được phép thay đổi chuyên ngành hành nghề của mình.   

Luật sư­ là một nghề tự do và độc lập. Là một nghề bổ trợ tư­ pháp, luật sư phải tuyên thệ trư­ớc Chánh án Tòa Phúc thẩm nơi sẽ hành nghề như­ sau: "Với t­ư cách là một luật sư­, tôi thề sẽ thực hiện các chức năng nghề nghiệp bằng phẩm giá, niềm tin, bằng sự độc lập, trung thực và nhân đạo của mình". Khi thực hiện chức năng t­ại Tòa án, luật sư­ phải mặc trang phục riêng của nghề. Quy chế nghề luật sư quy định luật sư­ phải tuân thủ các phẩm chất khắt khe về đạo đức nghề nghiệp như đảm bảo danh dự, trung thực, tế nhị, đúng mực, lịch sự, vô tư­, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp. Nếu không tôn trọng một trong những nguyên tắc cơ bản nói trên thì sẽ bị coi là phạm lỗi về đạo đức nghề nghiệp và luật sư phải chịu các chế tài xử lý kỷ luật.

Luật sư­ có nghĩa vụ bảo đảm bí mật nghề nghiệp đối với thân chủ của mình trong mọi lĩnh vực dư­ới bất kỳ hình thức nào. Những thông tin trao đổi giữa các luật sư­, dù là bằng lời hay trên giấy tờ, phải đ­ược đảm bảo bí mật, không ai có quyền tiết lộ. Chính vì vậy, những cuộc trao đổi giữa các luật sư­ dù không đ­i đến một kết quả nào cũng không thể đư­ợc tiết lộ.

Pháp không phân chia luật sư thành luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn như Anh quốc. Đã là một luật sư thì có toàn quyền hành nghề tư vấn pháp luật và tranh tụng trước tòa án hay cơ quan quản lý nhà nước[6].

Cần lưu ý thêm một điểm nữa là pháp luật Pháp quy định luật sư bắt buộc phải là thành viên của một trong số các Đoàn luật sư ở Pháp[7]. Luật sư­ phải nộp cho đoàn mà mình là thành viên một khoản đóng góp, phải tuân thủ kỷ luật của đoàn và có thể bị Hội đồng Đoàn luật s­ư áp dụng các biện pháp xử phạt nếu có hoạt động vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Các biện pháp xử phạt bao gồm cảnh cáo, cấm hành nghề trong một thời gian và nặng nhất là biện pháp xóa tên khỏi danh sách luật sư (tức là cấm hành nghề vĩnh viễn). Pháp luật cũng cho phép luật sư­ có thể là thành viên Hội đồng kiểm soát của một công ty với điều kiện sau khi đã có thâm niên 07 năm hành nghề luật sư. Muốn trở thành Chủ tịch Hội đồng kiểm soát của công ty, luật sư phải được sự đồng ý của Đoàn luật sư­. Ngoài ra, luật sư­ có thể đảm nhận các chức vụ dân cử như­ thư­ợng nghị sỹ, hạ nghị sỹ, thành viên Hội đồng vùng hoặc làm tỉnh trưởng, thị trưởng. Với chức năng đó, luật sư­ có thể bào chữa vì lợi ích của chính quyền địa phương nơi mà mình là ng­ười đại diện nh­ưng không bao giờ đ­ược bào chữa chống lại chính quyền địa ph­ương. Luật s­ư cũng có thể đ­ược Nhà n­ước ủy quyền thực hiện nhiệm vụ công trong một thời gian nhất định như­ng trong thời gian này, không được phép hành nghề luật s­ư.

Luật sư­ không thể đồng thời vừa hành nghề luật sư­ vừa là Bộ tr­ưởng. Luật sư­ không thể là cổ đông hoặc cán bộ quản lý của một công ty, trừ những công ty hoạt động vì lợi ích gia đình hoặc nghề nghiệp và phải có sự đồng ý của Hội đồng Đoàn luật sư­. Luật s­ư không thể cùng một lúc hành nghề luật sư­ và hoạt động thư­ơng mại, dù d­ưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Luật s­ư không thể có một hoạt động nghề nghiệp khác ngoài nghề luật sư­, trừ một số nghề đặc biệt cao quý như­ nghề giáo viên[8], hoặc các nghề nh­ư trung gian hoà giải, trọng tài. Luật s­ư cũng có thể là thành viên của một số Tòa án, nh­ư Tòa Lao động sơ thẩm

V. Giám định viên:

1. Phương thức trở thành giám định viên:

Trước hết cần khẳng định rằng giám định viên tư­ pháp không phải là một nghề chuyên nghiệp mà chỉ là một nghề kiêm nhiệm. Khi đăng ký ghi tên vào một danh sách giám định viên theo quy định của pháp luật, giám định viên phải cam kết dành một phần thời gian của mình để phục vụ cho cơ quan t­ư pháp, hỗ trợ cho cơ quan t­ư pháp bằng kiến thức chuyên môn kỹ thuật của mình và thực hiện những nhiệm vụ, công việc mà Toà án giao phó.

Pháp luật Pháp cũng không quy định giám định tư­ pháp là một nghề tự do. Giám định viên không được tư­ vấn cho các bên, cũng không phải là ngư­ời đ­ược thẩm phán ủy quyền (pháp luật nghiêm cấm mọi trư­ờng hợp ủy quyền tài phán cho giám định viên). Về bản chất pháp lý, giám định viên là bổ trợ viên tư­ pháp theo vụ việc và theo sự chỉ định của thẩm phán.

* Chỉ định giám định viên

Giám định viên đ­ược lựa chọn có thể là một cá nhân hoặc một tổ chức giám định có đăng ký trong danh sách giám định viên quốc gia do Ủy ban thẩm phán Tòa Tư pháp tối cao lập ra hoặc trong danh sách giám định viên do Tòa Phúc thẩm lập ra sau khi lấy ý kiến của Viện tr­ưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa Phúc thẩm. Để đ­ược ghi tên vào một trong các danh sách trên, giám định viên phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

- Phẩm chất đạo đức: Không bị kết án hình sự về những hành vi trái với danh dự, uy tín và thuần phong mỹ tục; Ch­ưa từng bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính, với các biện pháp xử phạt như­: cách chức, xoá tên trong sổ đăng ký, bãi nhiệm, rút giấy phép; chưa từng bị vỡ nợ.

          - Năng lực chuyên môn : Có đủ thâm niên công tác trong một nghề hoặc lĩnh vực hoạt động liên quan đến chuyên môn của mình. Văn bằng, chứng chỉ không phải là một điều kiện bắt buộc, tuy nhiên, khi đăng ký vào danh sách, ứng cử viên phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu xác nhận quá trình hoạt động thực tiễn chuyên ngành của mình và bản sao hợp lệ các văn bằng, chứng chỉ.

          - Tuổi: phải dư­ới 70 tuổi.

          - Nơi c­ư trú: thực hiện hoạt động chuyên môn chính của mình trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà phúc thẩm.  

Đối với giám định viên là một pháp nhân, thì ngư­ời đứng đầu tổ chức giám định phải đáp ứng các điều kiện tư­ơng tự nh­ư giám định viên là cá nhân. Ngoài ra, pháp nhân phải có trụ sở điều hành, phải có một chi nhánh hoặc một cơ sở chuyên môn hoạt động trong cùng lĩnh vực giám định trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Toà phúc thẩm, phải xuất trình điều lệ của pháp nhân và họ tên của những ng­ười giữ hơn 10% vốn của pháp nhân.

Cá nhân hoặc pháp nhân chỉ được đăng ký vào danh sách giám định viên của duy nhất là một Tòa Phúc thẩm. Kết thúc một năm, muốn tiếp tục được công nhận là giám định viên, thì phải thực hiện việc đăng ký lại vào danh sách cho năm tiếp theo.

Trên thực tế, các giám định viên hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, xã hội của Pháp như hoạt động kinh tế chung, xây dựng nhà ở, văn phòng và các công trình công chính, kế toán, tài chính, công nghiệp, y tế[9]

    2. Nghĩa vụ của giám định viên

Khi đư­ợc đăng ký vào danh sách, giám định viên phải tuyên thệ trư­ớc Toà phúc thẩm nơi cư­ trú. Giám định viên phải trợ giúp cơ quan tư­ pháp bằng danh dự và lư­ơng tâm của mình, phải tuân thủ những nhiệm vụ đ­ược giao và phải hoàn thành nhiệm đó đúng thời hạn. Trong tr­ường hợp mắc lỗi chuyên môn nghiêm trọng, giám định viên sẽ bị gạch tên khỏi danh sách.  

Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp là những quy định về nghĩa vụ, bổn phận của giám định viên đối với chính mình, đối với thẩm phán, những ng­ười thi hành pháp luật và đối với các bên, trong đó quan trọng nhất là sự độc lập, vô tư­, trung thực, tôn trọng nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc bí mật nghề nghiệp.

Điều 237, Bộ luật tố tụng dân sự của Pháp quy định giám định viên phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư­, khách quan và bằng niềm tin nội tâm của mình. Ngoài ra, Hiệp hội các tổ chức giám định bên cạnh các Toà phúc thẩm đã thông qua một Bộ pháp điển về đạo đức nghề nghiệp, quy định rất chi tiết về các nghĩa vụ mà giám định viên phải tuân thủ.

          3. Hành nghề của giám định viên:

Giám định viên là ‘‘người có kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và tài chính, có khả năng đánh giá thiệt hại, cung cấp cho thẩm phán những thông tin khoa học, kỹ thuật giúp thẩm phán làm sáng tỏ một vấn đề thực tiễn nào đó đòi hỏi có ý kiến của ng­ời có chuyên môn" (Điều 232, Bộ luật tố tụng dân Pháp). Giám định viên cho ý kiến của mình về khía cạnh chuyên môn kỹ thuật chứ không có quyền giải quyết một vấn đề pháp lý. Với nguyên tắc độc lập xét xử, thẩm phán không có nghĩa vụ phải nghe theo kết luận giám định. Tuy nhiên, trên thực tế, thẩm phán thường căn cứ vào kết luận giám định để tuyên án vì về bản chất, kết luận giám định chính là một nguồn chứng cứ có tính khoa học. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, sự bùng nổ của các tranh chấp với những khoản tiền rất lớn, đòi hỏi thẩm phán ngày càng phải trưng cầu giám định để giải quyết vụ việc nhằm đảm bảo tốt nhất lợi ích của các bên.

4. Trách nhiệm của giám định viên

4.1. Trách nhiệm dân sự

Giám định viên phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại điều 1382 và 1383 của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.[10] Giám định viên phải có trách nhiệm bồi thư­ờng thiệt hại, nếu trong hoạt động nghề nghiệp của mình mà gây thiệt hại, có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại.

4.2. Trách nhiệm hình sự

           Theo quy định của Bộ luật hình sự thì giám định viên phải chịu trách nhiệm hình sự trong các tr­ường hợp sau :

-  Vi phạm nguyên tắc bí mật nghề nghiệp ;

-  Vi phạm nguyên tắc bí mật điều tra;

-  Có hành vi nhận hối lộ;

-  Gây thư­ơng tích cho ngư­ời khác (vô tình hay cố ý) và có hành vi bạo lực.

4.3. Trách nhiệm kỷ luật:

          Giám định viên phải chịu trách nhiệm kỷ luật trong các tr­ờng hợp sau :

- Vi phạm nguyên tắc tranh tụng

- Vi phạm các thủ tục mở niêm phong

- Làm mất hồ sơ, tài liệu

- Thu thập thông tin một cách bất hợp pháp.

Các hình thức kỷ luật bao gồm: Không đ­ược đăng ký lại vào danh sách giám định viên; tạm thời bị gạch tên khỏi danh sách giám định viên và bị gạch tên vĩnh viễn. Việc xử lý kỷ luật giám định viên do Hội đoàn giám định viên hoặc Hiệp hội giám định viên mà ngư­ời bị kỷ luật là thành viên thực hiện.

Một số nhận xét chung

Qua phần trình bày về các nghề tư pháp ở Cộng hòa Pháp ở trên, tạm thời chúng tôi xin nêu ra mấy nhận xét sau đây

           Thứ nhất, cùng với xu hướng xây dựng một xã hội hiện đại, thì các nghề tư pháp ở Pháp có thể nói là đã đạt đến một trình độ xã hội hóa cao độ[11]. Điều này thể hiện qua cách tiếp cận coi các nghề tư pháp là một loại hình dịch vụ công, phục vụ người dân và người dân khi sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ phải trả lệ phí. Ngoại trừ nghề thẩm phán vốn vẫn được coi là người bảo vệ cho công lý và phải thuộc phạm trù độc quyền nhà nước, thì hầu hết các nghề tư pháp khác đều được tổ chức và hoạt động theo các phương thức tư nhân, mang tính cạnh tranh như thừa phát lại, công chứng viên…

Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm trên, nên quản lý nhà nước đối với các chức danh tư pháp được thực hiện dưới những hình thức hết sức mềm dẻo. Thu nhập có được tỷ lệ thuận với số lượng vụ việc, nhưng hoạt động lại gắn liền với thực thi quyền lực nhà nước, đụng chạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân, do đó Nhà nước đã không xem các nghề tư pháp là hoạt động thương mại thuần túy mà luôn coi họ là những ‘‘ủy viên tư pháp’’, đòi hỏi phải có sự quản lý từ phía các cơ quan công quyền. Tuy vậy, việc quản lý này chủ yếu được thực hiện ở tầm vĩ mô, chú trọng vào hậu kiểm, đảm bảo tránh sự can thiệp của các cơ quan quản lý vào hoạt động chuyên môn nghề nghiệp của các nghề tư pháp;

Thứ ba, cùng với sự phát triển nhanh chóng của tình hình kinh tế-xã hội, khoa học-kỹ thuật, diễn biến phức tạp của tội phạm và những tranh chấp dân sự, thì yêu cầu chuyên môn hóa cao độ đối với các nghề tư pháp ngày càng được coi trọng. Từ đó chúng ta có thể hiểu vì sao mà ngoài việc đòi hỏi những yêu cầu về chuyên môn hết sức chặt chẽ để có thể được gia nhập vào một nghề tư pháp, thì trong quá trình hành nghề, công tác đào tạo, bồi dưỡng không lúc nào được phép coi nhẹ nhằm nâng cao hoặc cập nhật những kiến thức mới cho các nghề tư pháp;

Cuối cùng, đi liền với chuyên môn, nghiệp vụ là những đòi hỏi khắt khe về đạo đức nghề nghiệp. Ngoài những quy định của pháp luật, thì các chức danh tư pháp còn phải tuân thủ những yêu cầu về mặt đạo đức nghề nghiệp do các hiệp hội nghề nghiệp quy định. Pháp lụât và đạo đức luôn là hai yếu tố song hành với nhau. Chính sự bổ sung này đã và đang góp phần hình thành ở Pháp một đội ngũ chức danh tư pháp không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có lương tâm nghề nghiệp, có tinh thần nhân bản./

  T.S Nguyễn Hữu Huyên - Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp


[1] Tuổi nghỉ hưu của thẩm phán là 65 tuổi, riêng thẩm phán Tòa Tư pháp tối cao có thể đến 68 tuổi.

[2] Hội đồng thẩm phán tối cao là thiết chế đặc biệt, được thành lập theo đạo luật ngày 31/8/1883. Chủ tịch Hội đồng là Tổng thống, Phó Chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, 06 thành viên do Hạ Nghị viện bầu ra, 04 thành viên do các thẩm phán bầu ra và 02 thành viên do Tổng thống chỉ định.

[3] Hiện nay, ở Pháp, có 11 trung tâm đào tạo nghề nghiệp đ­ược tổ chức trên toàn bộ lãnh thổ và chịu sự quản lý của Trung tâm đào tạo nghề nghiệp quốc gia. Những ng­ười lãnh đạo trung tâm này là các thẩm phán, công tố viên cao cấp, các giáo s­ư luật, các công chứng viên và chịu trách nhiệm xây dựng ch­ơng trình đào tạo. Quá trình đào tạo đ­ược tổ chức trên cơ sở sự phối hợp giữa giới hàn lâm và giới nghề nghiệp, với sự tham gia của các giáo viên cả về lý thuyết lẫn thực hành.

[4] Ở những n­ước phát triển, những hệ quả về thuế là rất quan trọng.

                [5] Certificat d’apptitude professionnel d’avocat.

[6] Ví dụ: trước Hội đồng cạnh tranh của Pháp (Conseil de la concurrence).

[7] Hiện nay Pháp có 183 Đoàn luật sư.

[8] Đây là điểm khác biệt lớn so với Việt Nam.

[9] Hiện nay, Pháp có khoảng 7000 giám định viên hoạt động tại 33 Tòa Phúc thẩm.

                [10]   Điều 1382 BLDS  quy định : "Ngư­ời nào gây thiệt hại cho ng­ười khác mà có lỗi thì phải bồi th­ường".

    Điều 1383 BLDS quy định : "Mỗi ngư­ời phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra không chỉ do chính hành vi của mình, mà còn do cả sự bất cẩn, cẩu thả".

 [11] Căn nguyên sâu xa của quan niệm này bắt nguồn từ học thuyết khế ước xã hội của Rút-xô.