Hoàn thiện thể chế kinh tế: Chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộcThể chế là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Một thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, ngược lại, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự tiến bộ. Vấn đề đặt ra là nhận thức đúng và xây dựng thể chế phát triển hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế đồng bộ, bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, để tháo gỡ khó khăn và khơi dậy tiềm năng, tạo động lực mới cho phát triển bền vững. Trong phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã đưa ra các giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc trong thể chế, đồng thời đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luậttạo cơ sở pháp lý vững chắc cho giải quyết các vụ việc tồn đọng, giải phóng nguồn lực và chống lãng phí. Việc hoàn thiện thể chế là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giúp Việt Nam đối mặt với thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Bài viết này sẽ bàn về vai trò của việc hoàn thiện thể chế trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Các quan điểm được trình bày kết hợp giữa góc nhìn cá nhân và lý thuyết khoa học, có thể khác biệt so với một số quan điểm từ các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, bài viết vẫn đảm bảo tính khách quan và khoa học trong việc đánh giá các nội dung hiện hành. Mặc dù có thể trái ngược với quan điểm của một số cơ quan, bài viết này vẫn là một nghiên cứu nghiêm túc, phân tích các vấn đề cơ bản theo quy định hiện hành mong muốn được chia sẻ, trao đổi.Đặt vấn đề nghiên cứuTheo nghĩa thông thường thì thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ, buộc mọi người phải tuân theo[1]Quan niệm của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF): Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ[2]Theo Ngân hàng Thế giới năm 2003 thể chế là: "Những quy tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con người. Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm cả lòng tin và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối các hành vi xã hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức. Trong khi đó, hệ thống thể chế chính thức lại bao gồm: luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác, các thủ tục cũng như các chủ thể chịu trách nhiệm xây dựng, sửa đổi, giải thích và thi hành các luật lệ và quy chế đó. Do các thể chế điều khiển hành vi con người nên một khi nó hoạt động tốt thì sẽ cho phép con người làm việc với nhau hiệu quả, cùng hợp tác trong lập kế hoạch cho bản thân, gia đình và cộng đồng nói chung. Ngược lại, nếu chúng hoạt động yếu kém hoặc không hiệu quả thì sẽ gây ra sự mất lòng tin và/hoặc tình trạng bất ổn định trong nhiều lĩnh vực"[3]Như vậy, Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới (WB), thể chế bao gồm cả hệ thống các quy tắc chính thức và không chính thức, và có ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân cũng như tổ chức trong xã hội. Tác giả tiếp cận cách nhìn của Ngân hàng Thế giới về thể chế và từ đó, định nghĩathể chế kinh tế là hệ thống các quy tắc chính thức và phi chính thức điều chỉnh hoạt động sản xuất và quản lý nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm các luật pháp, chính sách do Nhà nước ban hành và các chuẩn mực xã hội khác trong xã hội được Nhà nước thừa nhận, yêu cầu tuân thủ, ảnh hưởng đến hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế. Như vậy, thể chế đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một thể chế hiệu quả có thể tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển, trong khi một thể chế yếu kém sẽ cản trở tiềm năng và khả năng phát triển của đất nước. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế, việc hoàn thiện thể chế để thúc đẩy tăng trưởng là một yêu cầu cấp bách và thiết yếu. Trong môi trường phát triển kinh tế, thể chế không chỉ phản ánh các quy định pháp lý mà còn bao gồm các cơ chế thực thi, giám sát và kiểm soát quyền lực. Để đạt được sự phát triển bền vững, thể chế cần phải đồng bộ trong ba yếu tố chính: hệ thống pháp lý, tổ chức bộ máy hành chính và các cơ chế điều chỉnh quan hệ xã hội. Khi thể chế vận hành hiệu quả, nó sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thu hút đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Tổng Bí thư Tô Lâm: Đẩy mạnh đột phá về thể chế vì đó là “đột phá của đột phá”. Khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế vận hành các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm Trung ương tăng cường quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất, giữ vai trò kiến tạo, phát triển; tăng cường kiểm tra, giám sát, theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
(Trích: Phát biểu của đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, truy cập tại https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-to-lam-day-manh-dot-pha-ve-the-che-vi-do-la-dot-pha-cua-dot-pha-20250124175001108.htm, truy cập lúc 22h ngày 22/02/2025)Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế đồng bộ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị, xã hội và môi trường, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững. Công tác này không chỉ bao gồm cải cách pháp lý mà còn là cải cách quản trị công, từ xây dựng hệ thống hành chính công minh bạch đến việc thực thi pháp luật nghiêm túc và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Đồng thời, thể chế cũng phải bảo vệ công bằng xã hội, đảm bảo quyền lợi của người dân và bảo vệ tài nguyên quốc gia. Chỉ khi các yếu tố này được kết hợp chặt chẽ, sự phát triển kinh tế mới có thể đạt được sự bền vững lâu dài.Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh cho biết, để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm nay từ 8% trở lên và các năm tiếp theo hai con số, về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp kiến nghị cần tập trung hoàn thiện để tháo gỡ vướng mắc trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để xử lý những vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm nhằm giải phóng những nguồn lực để chống lãng phí. Về việc này, theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Bộ Chính trị đã có Kết luận 77 và Quốc hội vừa rồi có các Nghị quyết 170, 171, Chính phủ đã nhiều lần đôn đốc, có nhiều văn bản đôn đốc nhưng Bộ Tư pháp nhận thấy “còn nhiều địa phương chưa chủ động rà soát những khó khăn, vướng mắc đối với những dự án tồn đọng”. “Nếu địa phương chủ động hơn, chúng tôi nghĩ rằng sẽ được đẩy nhanh, sẽ được tháo gỡ và sẽ rất nhiều dự án được đi vào hoạt động, sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng” – Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh khẳng định.
(Nguồn: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương thực hiện kết luận của Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về tăng trưởng kinh tế ngày 21/2/2025, truy cập tại https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6837, truy cập lúc 14h ngày 22/02/20250)2. Một số điểm nghẽn thể chế làm giảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ với mục tiêu trở thành một nền kinh tế hiện đại, độc lập và tự chủ vào năm 2045, việc hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế là vấn đề cấp thiết. Những điểm nghẽn trong thể chế, dù ít hay nhiều, đang cản trở quá trình này, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Các vấn đề thể chế này, dù đã được nhận diện từ lâu, nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để, và nếu không có sự đổi mới, Việt Nam sẽ khó có thể đạt được các mục tiêu phát triển trong thế kỷ XXI. Một số điểm nghẽn thể chế hiện nay như sau[4]
Thứ nhất, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn sự chồng chéoMột trong những điểm nghẽn lớn trong thể chế hiện nay là sự thiếu đồng bộ và chồng chéo giữa các văn bản pháp luật. Việc ban hành các quy định pháp luật chưa thực sự theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý chưa có sự phối hợp chặt chẽ, gây khó khăn trong việc thực thi và tạo ra sự thiếu minh bạch trong các quy trình quản lý kinh tế. Ví dụ: Trong lĩnh vực đầu tư, một số quy định pháp lý còn bất cập, như các cơ chế về thuế, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư… chưa thật sự rõ ràng và dễ thực hiện. Sự chồng chéo giữa các bộ, ngành trong việc cấp phép, kiểm soát cũng làm giảm khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.Chính phủ đã gặp khó khăn về căn cứ pháp lý trong việc ban hành nghị định để thực hiện thí điểm trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình nhằm tạo cơ chế linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh; việc ban hành nghị định của Chính phủ để xử lý ngay các vấn đề phát sinh trong thực tiễn do tình hình trong nước và trên thế giới biến động nhanh và khó dự báo (như tình hình dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang…) còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh vẫn tồn tại dai dẳng.
(Trích: Bộ Tư pháp (2024), Tờ trình Chính phủ Đề nghị xây dựng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội. tr.6-7).Thứ hai, cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, … chưa hợp lýDù Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc phân cấp và phân quyền, … giữa Trung ương và địa phương, nhưng thực tế việc thực thi quyền lực tại địa phương vẫn còn nhiều vấn đề. Mức độ tự chủ của các địa phương trong việc hoạch định chính sách, điều hành phát triển kinh tế và xã hội còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thiếu tính đồng bộ giữa các vùng miền. Ví dụ: Một số chính sách về thu hút đầu tư của các địa phương có sự khác biệt lớn, nơi thì kêu gọi đầu tư theo chiều sâu, nơi lại chú trọng đến các ngành nghề ít đòi hỏi về công nghệ cao. Điều này tạo ra sự thiếu kết nối trong phát triển khu vực, không tận dụng được tối đa các nguồn lực của cả quốc gia.
Thứ ba, quản trị nhà nước thiếu tính minh bạch và hiệu quảQuản trị nhà nước tại một số lĩnh vực còn thiếu minh bạch, chưa có sự giám sát và đánh giá hiệu quả đầy đủ đối với các dự án phát triển. Sự thiếu minh bạch trong việc phân bổ ngân sách, đầu tư công và quản lý đất đai đã và đang làm giảm niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, cũng như cản trở sự tham gia của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Ví dụ: Trong lĩnh vực đầu tư công, dù ngân sách được phân bổ cho nhiều dự án lớn, nhưng một số quy trình lựa chọn nhà thầu, quản lý dự án và thanh toán công nợ vẫn có nhiều bất cập. Điều này dẫn đến tình trạng các dự án bị trì hoãn, đội vốn, và không đạt được mục tiêu đề ra.Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng. Song với tinh thần trách nhiệm của Đảng đối với dân với nước, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Tổng Bí thư Tô Lâm đã thẳng thắn chỉ rõ: Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Bộ máy hành chính cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống; một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức.
(Trích: Phát biểu của đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW và một số nội dung quan trọng, truy cập tại https://moha.gov.vn/chuyen-doi-so/tin-tong-hop/doi-moi-tu-duy-ve-the-che-quan-ly-nha-nuoc-trong-k-d611-t56715.html, truy cập lúc 22h ngày 22/02/2025) Thứ tư, thiếu một hệ thống khuyến khích đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suấtMặc dù Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể trong việc phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng hệ thống thể chế về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, và đầu tư vào nghiên cứu khoa học vẫn còn thiếu chặt chẽ. Năng suất lao động tại Việt Nam vẫn thấp so với các quốc gia trong khu vực, và thiếu các chính sách cụ thể hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ví dụ: Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số chính sách về khởi nghiệp sáng tạo, nhưng vẫn còn một số quy định của chính sách này chưa đủ mạnh để tạo ra một hệ sinh thái thuận lợi cho các startup phát triển, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi sở hữu trí tuệ và hỗ trợ tài chính cho các sáng tạo khoa học công nghệ[5]
3. Gợi mở một số giải pháp về việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian tới
Kỷ nguyên mới mà đất nước ta đang bước vào là thời kỳ của những thách thức và cơ hội lớn lao. Đây là giai đoạn mà Việt Nam cần phải vươn lên mạnh mẽ, không chỉ nhằm thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược, mà còn tạo ra những bước phát triển vượt bậc, để nâng cao chất lượng, trình độ và vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Kỷ nguyên này sẽ tiếp nối những thành tựu đã đạt được, khẳng định sự phát triển liên tục, không ngừng hoàn thiện của dân tộc. Để đảm bảo sự phát triển bền vững và đột phá trong thời gian tới, một trong những giải pháp quan trọng là hoàn thiện thể chế phát triển. Đây là một nội dung khoa học cần đánh giá toàn diện và đưa ra giải pháp, tác giả mạnh dạn dưới góc độ gợi mở một số giải pháp về việc tiếp tục đề cao vai trò của công tác hoàn thiện thể chế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc trong thời gian tới như sau
Thứ nhất,đề cao vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật[6]Tham mưu thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, chính xác các chủ trương, chính sách của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tích cực tham gia xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, nhất là các nội dung liên quan đến xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật[7]
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy trong xây dựng thể chế. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là đổi mới tư duy trong việc xây dựng thể chế phát triển. Cần chuyển từ tư duy bảo thủ, trì trệ sang tư duy chủ động, sáng tạo, lấy sự phát triển bền vững của xã hội làm mục tiêu chính. Thể chế cần có tầm nhìn dài hạn, hướng đến sự phát triển của toàn xã hội và của nền kinh tế. Cụ thể, cần chuyển từ tư duy phát triển đơn tuyến sang tư duy phát triển toàn diện, liên ngành, và đa chiều. Việc này không chỉ dừng lại ở các chính sách, mà còn phải bao gồm sự đổi mới trong cách thức quản lý và tổ chức xã hội, đặc biệt là trong việc phối hợp giữa các cấp, các ngành và khu vực công - tư.
Thứ ba,tiếp tục coi trọng công tác rà soát và cải cách hệ thống pháp lý. Để tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, việc rà soát và cải cách hệ thống pháp lý là rất cần thiết. Cần xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, và có tính thực thi cao. Các văn bản pháp luật cần được điều chỉnh thường xuyên để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế và yêu cầu của thị trường quốc tế. Các bộ luật và nghị định cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm bớt các rào cản đối với doanh nghiệp, đồng thời tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng cho mọi chủ thể kinh tế.
Thứ tư,tăng cường phân cấp, phân quyền và hiệu quả quản trị địa phương. Cần tiếp tục phân cấp và phân quyền một cách hợp lý, đảm bảo sự chủ động và sáng tạo của các địa phương trong việc triển khai các chính sách phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, phân cấp cần đi đôi với việc tăng cường trách nhiệm giải trình và giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng quyền lực địa phương vì mục đích cá nhân.
Thứ năm,coi trọng khuyến khích đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất. Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cần xây dựng các chính sách mạnh mẽ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ. Chính phủ cần tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo mạnh mẽ, với các cơ chế tài chính hỗ trợ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển, nâng cao năng suất lao động thông qua việc đào tạo và áp dụng các công nghệ mới.
4. Kết luận
Việc hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế ở Việt Nam là một quá trình dài hơi, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Các điểm nghẽn trong thể chế hiện nay, nếu không được tháo gỡ kịp thời, sẽ cản trở sự phát triển của nền kinh tế trong tương lai. Cần tập trung vào việc đổi mới tư duy trong xây dựng thể chế, chuyển từ tư duy bảo thủ sang tư duy chủ động, sáng tạo và toàn diện. Đồng thời, việc rà soát và cải cách hệ thống pháp lý phải được chú trọng để tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, đồng hành cùng việc tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Tất cả những giải pháp này sẽ đóng vai trò then chốt để đưa đất nước tiến vào một kỷ nguyên thịnh vượng, bền vững./.TS. Trần Văn Duy - Phó Chánh Văn phòng - Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
ThS. Lê Thị Thu – Phó VT Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo, Tổng cục THADS – Bộ Tư phápTài liệu tham khảoAnh Thư (2024), Nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật, truy cập tại https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xh.aspx?ItemID=2616, truy cập lúc 17h ngày 20/02/0225Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF (2009, (2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu, bản tiếng Việt.Ngân hàng Thế giới (2002), Building Institutions for Markets, bản tiếng Việt.Phóng viên Báo Đảng Cộng sản Việt Nam điện tử (2021), Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, truy cập tại https://dangcongsan.vn/day-manh-cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/tin-tuc/vai-tro-cua-bo-tu-phap-trong-viec-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-591210.html, truy cập lúc 18h ngày 20/02/2025Trung tâm Từ điển học (2020), Từ điển tiếng Việt, tr. 900Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội.[1] Trung tâm Từ điển học (2020), Từ điển tiếng Việt, tr. 900[2] Xem chi tiết: Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009, 2010.[3] Ngân hàng Thế giới (2002), Định nghĩa thể chế của Ngân hàng Thế giới (WB) được đề cập xuất phát từ báo cáo "World Development Report 2002: Building Institutions for Markets" (Báo cáo Phát triển Thế giới 2002: Xây dựng Thể chế cho Thị trường).[4] Đây là vấn đề khó, tác giả mạnh dạn đưa ra trên cơ sở đánh giá khoa học, không phải quan điểm của một cơ quan, tổ chức. Việc đưa quan điểm để thảo luận tìm kiếm những giải pháp khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, truyền thông và tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước.[5] Xem thêm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57) khẳng định vai trò đặc biệt của KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số; xác định đây là đột phá quan trọng, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh.[6] Theo quan điểm của tác giả, bởi lẽ, nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật. Đây là yêu cầu của đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp tại Hội nghị đánh giá hai năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới diễn ra ngày 17/10/2024, xem chi tiết: Anh Thư (2024), Nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật, truy cập tại https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xh.aspx?ItemID=2616, truy cập lúc 17h ngày 20/02/0225[7] Phóng viên Báo Đảng Cộng sản Việt Nam điện tử (2021), Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, truy cập tại https://dangcongsan.vn/day-manh-cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/tin-tuc/vai-tro-cua-bo-tu-phap-trong-viec-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-591210.html, truy cập lúc 18h ngày 20/02/2025
Hoàn thiện thể chế kinh tế: Chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
25/02/2025
Thể chế là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Một thể chế phù hợp sẽ tạo động lực phát triển, ngược lại, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự tiến bộ. Vấn đề đặt ra là nhận thức đúng và xây dựng thể chế phát triển hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế đồng bộ, bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, để tháo gỡ khó khăn và khơi dậy tiềm năng, tạo động lực mới cho phát triển bền vững. Trong phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã đưa ra các giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc trong thể chế, đồng thời đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho giải quyết các vụ việc tồn đọng, giải phóng nguồn lực và chống lãng phí. Việc hoàn thiện thể chế là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giúp Việt Nam đối mặt với thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế. Bài viết này sẽ bàn về vai trò của việc hoàn thiện thể chế trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Các quan điểm được trình bày kết hợp giữa góc nhìn cá nhân và lý thuyết khoa học, có thể khác biệt so với một số quan điểm từ các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, bài viết vẫn đảm bảo tính khách quan và khoa học trong việc đánh giá các nội dung hiện hành. Mặc dù có thể trái ngược với quan điểm của một số cơ quan, bài viết này vẫn là một nghiên cứu nghiêm túc, phân tích các vấn đề cơ bản theo quy định hiện hành mong muốn được chia sẻ, trao đổi.
- Đặt vấn đề nghiên cứu
Theo nghĩa thông thường thì
thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ, buộc mọi người phải tuân theo[1]. Quan niệm của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF):
Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ[2]. Theo Ngân hàng Thế giới năm 2003 thể chế là:
"Những quy tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con người. Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm cả lòng tin và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối các hành vi xã hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức. Trong khi đó, hệ thống thể chế chính thức lại bao gồm: luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật khác, các thủ tục cũng như các chủ thể chịu trách nhiệm xây dựng, sửa đổi, giải thích và thi hành các luật lệ và quy chế đó. Do các thể chế điều khiển hành vi con người nên một khi nó hoạt động tốt thì sẽ cho phép con người làm việc với nhau hiệu quả, cùng hợp tác trong lập kế hoạch cho bản thân, gia đình và cộng đồng nói chung. Ngược lại, nếu chúng hoạt động yếu kém hoặc không hiệu quả thì sẽ gây ra sự mất lòng tin và/hoặc tình trạng bất ổn định trong nhiều lĩnh vực"[3]. Như vậy, Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới (WB), thể chế bao gồm cả hệ thống các quy tắc chính thức và không chính thức, và có ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân cũng như tổ chức trong xã hội.
Tác giả tiếp cận cách nhìn của Ngân hàng Thế giới về thể chế và từ đó, định nghĩa thể chế kinh tế là hệ thống các quy tắc chính thức và phi chính thức điều chỉnh hoạt động sản xuất và quản lý nền kinh tế quốc dân. Nó bao gồm các luật pháp, chính sách do Nhà nước ban hành và các chuẩn mực xã hội khác trong xã hội được Nhà nước thừa nhận, yêu cầu tuân thủ, ảnh hưởng đến hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế. Như vậy, thể chế đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một thể chế hiệu quả có thể tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển, trong khi một thể chế yếu kém sẽ cản trở tiềm năng và khả năng phát triển của đất nước.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế, việc hoàn thiện thể chế để thúc đẩy tăng trưởng là một yêu cầu cấp bách và thiết yếu. Trong môi trường phát triển kinh tế, thể chế không chỉ phản ánh các quy định pháp lý mà còn bao gồm các cơ chế thực thi, giám sát và kiểm soát quyền lực. Để đạt được sự phát triển bền vững, thể chế cần phải đồng bộ trong ba yếu tố chính: hệ thống pháp lý, tổ chức bộ máy hành chính và các cơ chế điều chỉnh quan hệ xã hội. Khi thể chế vận hành hiệu quả, nó sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thu hút đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tổng Bí thư Tô Lâm: Đẩy mạnh đột phá về thể chế vì đó là “đột phá của đột phá”. Khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế vận hành các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm Trung ương tăng cường quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất, giữ vai trò kiến tạo, phát triển; tăng cường kiểm tra, giám sát, theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
(Trích: Phát biểu của đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, truy cập tại https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-to-lam-day-manh-dot-pha-ve-the-che-vi-do-la-dot-pha-cua-dot-pha-20250124175001108.htm, truy cập lúc 22h ngày 22/02/2025) |
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế đồng bộ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị, xã hội và môi trường, nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững. Công tác này không chỉ bao gồm cải cách pháp lý mà còn là cải cách quản trị công, từ xây dựng hệ thống hành chính công minh bạch đến việc thực thi pháp luật nghiêm túc và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Đồng thời, thể chế cũng phải bảo vệ công bằng xã hội, đảm bảo quyền lợi của người dân và bảo vệ tài nguyên quốc gia. Chỉ khi các yếu tố này được kết hợp chặt chẽ, sự phát triển kinh tế mới có thể đạt được sự bền vững lâu dài.
Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh cho biết, để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm nay từ 8% trở lên và các năm tiếp theo hai con số, về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp kiến nghị cần tập trung hoàn thiện để tháo gỡ vướng mắc trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để xử lý những vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm nhằm giải phóng những nguồn lực để chống lãng phí. Về việc này, theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Bộ Chính trị đã có Kết luận 77 và Quốc hội vừa rồi có các Nghị quyết 170, 171, Chính phủ đã nhiều lần đôn đốc, có nhiều văn bản đôn đốc nhưng Bộ Tư pháp nhận thấy “còn nhiều địa phương chưa chủ động rà soát những khó khăn, vướng mắc đối với những dự án tồn đọng”. “Nếu địa phương chủ động hơn, chúng tôi nghĩ rằng sẽ được đẩy nhanh, sẽ được tháo gỡ và sẽ rất nhiều dự án được đi vào hoạt động, sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng” – Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh khẳng định.
(Nguồn: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương thực hiện kết luận của Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về tăng trưởng kinh tế ngày 21/2/2025, truy cập tại https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6837, truy cập lúc 14h ngày 22/02/20250) |
2. Một số điểm nghẽn thể chế làm giảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ với mục tiêu trở thành một nền kinh tế hiện đại, độc lập và tự chủ vào năm 2045, việc hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế là vấn đề cấp thiết. Những điểm nghẽn trong thể chế, dù ít hay nhiều, đang cản trở quá trình này, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Các vấn đề thể chế này, dù đã được nhận diện từ lâu, nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để, và nếu không có sự đổi mới, Việt Nam sẽ khó có thể đạt được các mục tiêu phát triển trong thế kỷ XXI. Một số điểm nghẽn thể chế hiện nay như sau
[4]:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn sự chồng chéo. Một trong những điểm nghẽn lớn trong thể chế hiện nay là sự thiếu đồng bộ và chồng chéo giữa các văn bản pháp luật. Việc ban hành các quy định pháp luật chưa thực sự theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý chưa có sự phối hợp chặt chẽ, gây khó khăn trong việc thực thi và tạo ra sự thiếu minh bạch trong các quy trình quản lý kinh tế.
Ví dụ: Trong lĩnh vực đầu tư, một số quy định pháp lý còn bất cập, như các cơ chế về thuế, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư… chưa thật sự rõ ràng và dễ thực hiện. Sự chồng chéo giữa các bộ, ngành trong việc cấp phép, kiểm soát cũng làm giảm khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Chính phủ đã gặp khó khăn về căn cứ pháp lý trong việc ban hành nghị định để thực hiện thí điểm trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình nhằm tạo cơ chế linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh; việc ban hành nghị định của Chính phủ để xử lý ngay các vấn đề phát sinh trong thực tiễn do tình hình trong nước và trên thế giới biến động nhanh và khó dự báo (như tình hình dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang…) còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh vẫn tồn tại dai dẳng.
(Trích: Bộ Tư pháp (2024), Tờ trình Chính phủ Đề nghị xây dựng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội. tr.6-7). |
Thứ hai, cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, … chưa hợp lý. Dù Việt Nam đã có những tiến bộ trong việc phân cấp và phân quyền, … giữa Trung ương và địa phương, nhưng thực tế việc thực thi quyền lực tại địa phương vẫn còn nhiều vấn đề. Mức độ tự chủ của các địa phương trong việc hoạch định chính sách, điều hành phát triển kinh tế và xã hội còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thiếu tính đồng bộ giữa các vùng miền. Ví dụ: Một số chính sách về thu hút đầu tư của các địa phương có sự khác biệt lớn, nơi thì kêu gọi đầu tư theo chiều sâu, nơi lại chú trọng đến các ngành nghề ít đòi hỏi về công nghệ cao. Điều này tạo ra sự thiếu kết nối trong phát triển khu vực, không tận dụng được tối đa các nguồn lực của cả quốc gia.
Thứ ba, quản trị nhà nước thiếu tính minh bạch và hiệu quả. Quản trị nhà nước tại một số lĩnh vực còn thiếu minh bạch, chưa có sự giám sát và đánh giá hiệu quả đầy đủ đối với các dự án phát triển. Sự thiếu minh bạch trong việc phân bổ ngân sách, đầu tư công và quản lý đất đai đã và đang làm giảm niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, cũng như cản trở sự tham gia của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Ví dụ: Trong lĩnh vực đầu tư công, dù ngân sách được phân bổ cho nhiều dự án lớn, nhưng một số quy trình lựa chọn nhà thầu, quản lý dự án và thanh toán công nợ vẫn có nhiều bất cập. Điều này dẫn đến tình trạng các dự án bị trì hoãn, đội vốn, và không đạt được mục tiêu đề ra.
Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng. Song với tinh thần trách nhiệm của Đảng đối với dân với nước, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Tổng Bí thư Tô Lâm đã thẳng thắn chỉ rõ: Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Bộ máy hành chính cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống; một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức.
(Trích: Phát biểu của đồng chí Tô Lâm – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW và một số nội dung quan trọng, truy cập tại https://moha.gov.vn/chuyen-doi-so/tin-tong-hop/doi-moi-tu-duy-ve-the-che-quan-ly-nha-nuoc-trong-k-d611-t56715.html, truy cập lúc 22h ngày 22/02/2025) |
Thứ tư, thiếu một hệ thống khuyến khích đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất. Mặc dù Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể trong việc phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng hệ thống thể chế về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, và đầu tư vào nghiên cứu khoa học vẫn còn thiếu chặt chẽ. Năng suất lao động tại Việt Nam vẫn thấp so với các quốc gia trong khu vực, và thiếu các chính sách cụ thể hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ví dụ: Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số chính sách về khởi nghiệp sáng tạo, nhưng vẫn còn một số quy định của chính sách này chưa đủ mạnh để tạo ra một hệ sinh thái thuận lợi cho các startup phát triển, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi sở hữu trí tuệ và hỗ trợ tài chính cho các sáng tạo khoa học công nghệ
[5].
3. Gợi mở một số giải pháp về việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian tới
Kỷ nguyên mới mà đất nước ta đang bước vào là thời kỳ của những thách thức và cơ hội lớn lao. Đây là giai đoạn mà Việt Nam cần phải vươn lên mạnh mẽ, không chỉ nhằm thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược, mà còn tạo ra những bước phát triển vượt bậc, để nâng cao chất lượng, trình độ và vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Kỷ nguyên này sẽ tiếp nối những thành tựu đã đạt được, khẳng định sự phát triển liên tục, không ngừng hoàn thiện của dân tộc. Để đảm bảo sự phát triển bền vững và đột phá trong thời gian tới, một trong những giải pháp quan trọng là hoàn thiện thể chế phát triển
. Đây là một nội dung khoa học cần đánh giá toàn diện và đưa ra giải pháp, tác giả mạnh dạn dưới góc độ gợi mở một số giải pháp về việc tiếp tục đề cao vai trò của công tác hoàn thiện thể chế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, đề cao vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật[6]. Tham mưu thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, chính xác các chủ trương, chính sách của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tích cực tham gia xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, nhất là các nội dung liên quan đến xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật
[7].
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy trong xây dựng thể chế. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là đổi mới tư duy trong việc xây dựng thể chế phát triển. Cần chuyển từ tư duy bảo thủ, trì trệ sang tư duy chủ động, sáng tạo, lấy sự phát triển bền vững của xã hội làm mục tiêu chính. Thể chế cần có tầm nhìn dài hạn, hướng đến sự phát triển của toàn xã hội và của nền kinh tế. Cụ thể, cần chuyển từ tư duy phát triển đơn tuyến sang tư duy phát triển toàn diện, liên ngành, và đa chiều. Việc này không chỉ dừng lại ở các chính sách, mà còn phải bao gồm sự đổi mới trong cách thức quản lý và tổ chức xã hội, đặc biệt là trong việc phối hợp giữa các cấp, các ngành và khu vực công - tư.
Thứ ba, tiếp tục coi trọng công tác rà soát và cải cách hệ thống pháp lý. Để tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, việc rà soát và cải cách hệ thống pháp lý là rất cần thiết. Cần xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, và có tính thực thi cao. Các văn bản pháp luật cần được điều chỉnh thường xuyên để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế và yêu cầu của thị trường quốc tế. Các bộ luật và nghị định cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm bớt các rào cản đối với doanh nghiệp, đồng thời tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng cho mọi chủ thể kinh tế.
Thứ tư, tăng cường phân cấp, phân quyền và hiệu quả quản trị địa phương. Cần tiếp tục phân cấp và phân quyền một cách hợp lý, đảm bảo sự chủ động và sáng tạo của các địa phương trong việc triển khai các chính sách phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, phân cấp cần đi đôi với việc tăng cường trách nhiệm giải trình và giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng quyền lực địa phương vì mục đích cá nhân.
Thứ năm, coi trọng khuyến khích đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất. Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cần xây dựng các chính sách mạnh mẽ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ. Chính phủ cần tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo mạnh mẽ, với các cơ chế tài chính hỗ trợ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển, nâng cao năng suất lao động thông qua việc đào tạo và áp dụng các công nghệ mới.
4. Kết luận
Việc hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế ở Việt Nam là một quá trình dài hơi, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Các điểm nghẽn trong thể chế hiện nay, nếu không được tháo gỡ kịp thời, sẽ cản trở sự phát triển của nền kinh tế trong tương lai.
Cần tập trung vào việc đổi mới tư duy trong xây dựng thể chế, chuyển từ tư duy bảo thủ sang tư duy chủ động, sáng tạo và toàn diện. Đồng thời, việc rà soát và cải cách hệ thống pháp lý phải được chú trọng để tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, đồng hành cùng việc tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo. Tất cả những giải pháp này sẽ đóng vai trò then chốt để đưa đất nước tiến vào một kỷ nguyên thịnh vượng, bền vững./.
TS. Trần Văn Duy - Phó Chánh Văn phòng - Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
ThS. Lê Thị Thu – Phó VT Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo, Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp
Tài liệu tham khảo
- Anh Thư (2024), Nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật, truy cập tại https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xh.aspx?ItemID=2616, truy cập lúc 17h ngày 20/02/0225
- Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF (2009, (2010), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu, bản tiếng Việt.
- Ngân hàng Thế giới (2002), Building Institutions for Markets, bản tiếng Việt.
- Phóng viên Báo Đảng Cộng sản Việt Nam điện tử (2021), Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, truy cập tại https://dangcongsan.vn/day-manh-cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/tin-tuc/vai-tro-cua-bo-tu-phap-trong-viec-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-591210.html, truy cập lúc 18h ngày 20/02/2025
- Trung tâm Từ điển học (2020), Từ điển tiếng Việt, tr. 900
- Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội.
[1] Trung tâm Từ điển học (2020),
Từ điển tiếng Việt, tr. 900
[2] Xem chi tiết: Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009, 2010.
[3] Ngân hàng Thế giới (2002),
Định nghĩa thể chế của Ngân hàng Thế giới (WB) được đề cập xuất phát từ báo cáo "World Development Report 2002: Building Institutions for Markets" (Báo cáo Phát triển Thế giới 2002: Xây dựng Thể chế cho Thị trường).
[4] Đây là vấn đề khó, tác giả mạnh dạn đưa ra trên cơ sở đánh giá khoa học, không phải quan điểm của một cơ quan, tổ chức. Việc đưa quan điểm để thảo luận tìm kiếm những giải pháp khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, truyền thông và tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước.
[5] Xem thêm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN,ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số
57) khẳng định vai trò đặc biệt của KH,CN,ĐMST và chuyển đổi số; xác định đây là đột phá quan trọng, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh.
[6] Theo quan điểm của tác giả, bởi lẽ, nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật. Đây là yêu cầu của đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp tại Hội nghị đánh giá hai năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới diễn ra ngày 17/10/2024, xem chi tiết: Anh Thư (2024),
Nâng cao vai trò, vị thế của Bộ, ngành Tư pháp trong xây dựng pháp luật, truy cập tại https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-to-chuc-chinh-tri-xh.aspx?ItemID=2616, truy cập lúc 17h ngày 20/02/0225
[7] Phóng viên Báo Đảng Cộng sản Việt Nam điện tử (2021),
Vai trò của Bộ Tư pháp trong việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, truy cập tại https://dangcongsan.vn/day-manh-cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/tin-tuc/vai-tro-cua-bo-tu-phap-trong-viec-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-591210.html, truy cập lúc 18h ngày 20/02/2025