Trao đổi nghiệp vụ: Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường hiện nay

18/06/2024
Đặt vấn đề
Hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường là một trong những nội dung quan trọng của công tác bồi thường nhà nước được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN) năm 2017 quy định. Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường được quy định chặt chẽ tại 19 điều của Chương 5 Luật TNBTCNN năm 2017, từ hồ sơ yêu cầu bồi thường, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ, thụ lý hồ sơ và cử người giải quyết bồi thường, tạm ứng kinh phí, xác minh thiệt hại, thương lượng việc bồi thường, quyết định giải quyết bồi thường …[1] và mỗi thủ tục cũng được hướng dẫn chi tiết tại chương 3 của Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN (Nghị định số 68/2018/NĐ-CP)[2]. Hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường là một hoạt động “đa mục đích”, trong đó, hai mục đích đầu tiên và trước mắt và kịp thời bù đắp lại những tổn thất về vật chất và tinh thần của người bị thiệt hại và là cơ sở để xác định mức độ hậu quả pháp lý mà Nhà nước sẽ phải gánh chịu do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra cho tổ chức, cá nhân.  Với hai mục đích đầu tiên và trước mắt như nêu trên, hoạt động giải quyết bồi thường có liên quan chặt chẽ với các quy định về thiệt hại được bồi thường được quy định tại chương 3 Luật TNBTCNN năm 2017[3].
Để phục vụ công tác bồi thường nhà nước nói chung và hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường nói riêng, ngày 17/5/2018, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 04/2018/TT-BTP ban hành một số biểu mẫu trong công tác bồi thường nhà nước, trong đó có 18 biểu mẫu phục vụ cho hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường.
Có thể nói rằng, với các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN nêu trên đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường, nhất là về thiệt hại và trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường,
Trong bài viết này, tác giả tập trung trao đổi về thực trạng hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới.
1. Thực trạng hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường
Theo số liệu tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương, từ khi Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực ngày 01/7/2018 đến ngày 30/6/2023, các cơ quan giải quyết bồi thường trên toàn quốc đã thụ lý, giải quyết 168 vụ việc yêu cầu bồi thường, trong đó, số vụ có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 103 vụ việc, đạt tỷ lệ 61,3% (tỷ lệ vụ việc đã giải quyết xong trung bình của 05 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 là 14,8%, cao hơn so với tỷ lệ 13,2% vụ việc đã giải quyết xong trung bình của 06 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2009[4]). Tổng số tiền nhà nước phải bồi thường trong các văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 76.985.530.000 đồng (Bảy mươi sáu tỷ chín trăm tám mươi lăm triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng), có 22 vụ việc đình chỉ, còn 43 vụ việc đang giải quyết.[5]
Kết quả giải quyết yêu cầu bồi thường trong từng hoạt động cụ thể như sau:
1.1. Trong hoạt động quản lý hành chính
Các cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý, giải quyết là 64 vụ việc, số vụ việc có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật 33 vụ việc, với số tiền Nhà nước phải bồi thường trong các văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 11.896. 782.000 (Mười một tỷ tám trăm chín mươi sáu triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn đồng), có 12 vụ việc đình chỉ, 19 vụ việc đang giải quyết.
1.2. Trong hoạt động tố tụng
Các cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý, giải quyết 79 vụ việc, số vụ việc đã có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 58 vụ việc với số tiền Nhà nước phải bồi thường trong các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật là 53 tỷ 086 triệu 433 nghìn đồng, có 05 vụ việc đình chỉ, còn 16 vụ việc đang giải quyết.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính: Không phát sinh yêu cầu bồi thường.
1.3. Trong hoạt động thi hành án
Trong hoạt động thi hành án dân sự: Các cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý, giải quyết 25 vụ việc, số vụ việc đã có văn bản giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật là 12 vụ việc, với số tiền Nhà nước phải bồi thường trong các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật là 12.002.315.000 (Mười hai tỷ không trăm linh hai triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng), có 05 vụ đình chỉ, còn 08  vụ việc đang giải quyết.
Trong hoạt động thi hành án hình sự: Không phát sinh yêu cầu bồi thường.
2. Những khó khăn, vướng mắc
Có thể thấy, các cơ quan giải quyết bồi thường đã có nhiều cố gắng trong việc thụ lý, giải quyết các yêu cầu bồi thường, tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao (103/168 vụ việc đạt tỷ lệ 61,3%), tỷ lệ chuyển kỳ sau giải quyết còn nhiều (43 vụ việc), kết quả này xuất phát từ nhiều khó khăn, vướng mắc, nhưng tựu chung lại, tập trung vào các khó khăn, vướng mắc cơ bản sau đây:
2.1. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường
- Nhiều vụ việc giải quyết bồi thường không thực hiện đúng quy định về thời hạn theo quy định của pháp luật, dẫn đến vụ việc bị kéo dài nhiều năm mà chưa được giải quyết dứt điểm.
- Việc giải quyết yêu cầu bồi thường chưa hiệu quả, nhiều vụ việc người bị thiệt hại không đồng ý với kết quả thương lượng tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, tiếp tục khởi kiện ra tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường dẫn đến số vụ việc người yêu cầu bồi thường khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết còn chiếm tỷ lệ cao.[6]
- Vẫn còn trường hợp cơ quan giải quyết bồi thường áp dụng chưa đúng các quy định của Luật trong việc xác định căn cứ thụ lý, không thụ lý yêu cầu bồi thường[7]; một số vụ việc, cơ quan giải quyết bồi thường chưa cử đúng, đủ thành phần tham gia thương lượng việc bồi thường dẫn đến quá trình giải quyết bồi thường không bảo đảm đúng quy định của pháp luật[8].
- Việc ban hành và trao quyết định giải quyết bồi thường ngay tại buổi thương lượng thành trong trường hợp địa điểm thương lượng không phải là tại trụ sở cơ quan giải quyết bồi thường thì cơ quan giải quyết bồi thường gặp khó khăn trong việc thực hiện các quy định về bảo quản an toàn, sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật về công tác văn thư, lưu trữ[9].
- Về phía người bị thiệt hại, còn tình trạng chưa hợp tác với cơ quan giải quyết bồi thường như: không đưa ra được căn cứ cũng như tài liệu, chứng từ chứng minh thiệt hại của mình[10].
2.2. Khó nhăn, vướng mắc của các quy định Luật TNBTCNN năm 2017
a) Về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường
Luật TNBTCNN quy định thời gian tiếp nhận, thụ lý và giải quyết yêu cầu bồi thường còn ngắn tạo áp lực lên cơ quan giải quyết bồi thường, nên nhiều vụ việc thực hiện việc xác minh, thương lượng không bảo đảm thời hạn, đặc biệt là đối với những vụ việc có nhiều loại thiệt hại xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, mức yêu cầu bồi thường với số tiền rất lớn, xảy ra đã lâu, hồ sơ không còn hoặc không đầy đủ. [11]
b) Về thiệt hại được bồi thường
Các loại thiệt hại còn giới hạn và mức thiệt hại được bồi thường theo quy định của Luật còn thấp, chưa phù hợp với các thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại và tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Bên cạnh đó, một số quy định về tính giá trị thiệt hại chưa phù hợp nên chưa bảo đảm bù đắp các thiệt hại thực tế cho người bị thiệt hại[12].
c) Về cơ quan giải quyết bồi thường 
Luật quy định cơ quan giải quyết bồi thường theo mô hình phân tán nên thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường và công chức được cử giải quyết bồi thường hầu hết thiếu chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết bồi thường, dẫn đến hiệu quả giải quyết bồi thường tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại chưa cao.[13]
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Một số Sở Tư pháp chưa thực sự phát huy được vai trò trong việc tham mưu giúp UBND cấp tỉnh cũng như thực hiện theo thẩm quyền nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường tại địa phương.[14]
- Về phía cơ quan giải quyết bồi thường còn có tâm lý trốn tránh, đùn đẩy, chưa chủ động trong việc giải quyết bồi thường, dẫn đến một số trường hợp người bị thiệt hại có đầy đủ căn cứ để yêu cầu bồi thường nhưng không được thụ lý giải quyết, chỉ khi cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, đôn đốc thì vụ việc mới được thụ lý, giải quyết[15].
- Đội ngũ công chức thực hiện công tác bồi thường nhà nước còn hạn chế về số lượng, kinh nghiệm, kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện công tác bồi thường nhà nước, đồng thời, công chức làm công tác bồi thường nhà nước đều là kiêm nhiệm, không ổn định, nên còn lúng túng, khó khăn trong thực thi nhiệm vụ.
3.2. Nguyên nhân khách quan
- Hoạt động giải quyết bồi thường đòi hỏi phải có sự phối hợp, thống nhất ý kiến với các cơ quan, bộ, ngành có liên quan để bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn nên mất nhiều thời gian, công sức của các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước.
- Nhận thức pháp luật về TNBTCNN của một bộ phận người dân chưa đầy đủ, chính xác nên còn nhiều trường hợp người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường không đúng quy định của Luật dẫn đến gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận, giải quyết.
- Việc thu thập tài liệu, cung cấp hồ sơ của đa số người bị thiệt hai không bảo đảm cho việc thụ lý, giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật do hồ sơ, tài liệu không còn, không đầy đủ, đặc biệt là đối với các vụ việc xảy ra đã lâu.
- Trong hoạt động phối hợp thực hiện giải quyết bồi thường, một số cơ quan có liên quan chưa chủ động, không phối hợp thực hiện đầy đủ các yêu cầu của cơ quan giải quyết bồi thường làm hạn chế hiệu quả hoạt động giải quyết bồi thường.
- Một số quy định của Luật về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường, thiệt hại được bồi thường không còn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay và yêu cầu thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong điều kiện tiếp tục tổ chức thi hành hiệu quả pháp luật về TNBTCNN để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại cũng như lợi ích của Nhà nước.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường trong thời gian tới, tác giả đề xuất cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
4.1. Đối với cơ quan giải quyết bồi thường là cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại
Thứ nhất, nắm vững các nguyên tắc bồi thường của Nhà nước, cụ thể:
- Việc bồi thường của Nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017;
- Việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan giải quyết bồi thường và người yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017;
- Người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu một trong các cơ quan giải quyết bồi thường quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật TNBTCNN năm 2017 giải quyết yêu cầu bồi thường và đã được cơ quan đó thụ lý giải quyết thì không được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 52 của Luật TNBTCNN năm 2017;
- Cơ quan giải quyết bồi thường thụ lý yêu cầu bồi thường sau khi người bị thiệt hại có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong từng hoạt động được quy định từ Điều 8 đến Điều 12 Luật TNBTCNN năm 2017;[16]
- Trường hợp người bị thiệt hại có một phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì Nhà nước chỉ bồi thường phần thiệt hại sau khi trừ đi phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người bị thiệt hại.
Thứ hai, thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định trong thực hiện tiếp nhận, thụ lý hồ sơ và giải quyết yêu cầu bồi thường, cụ thể:
- Cơ quan giải quyết bồi thường chỉ thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại khi có đầy đủ thành phần hồ sơ, tài liệu theo quy định tại Điều 41 Luật TNBTCNN năm 2017;
- Cử công chức giải quyết bồi thường ngoài các tiêu chuẩn theo quy định, còn phải bảo đảm các yêu cầu sau:
+ Phải dành nhiều thời gian nghiên cứu văn bản pháp luật (không chỉ văn bản pháp luật về TNBTCNN mà còn phải chú ý nghiên cứu, cập nhật các văn bản pháp luật chuyên ngành khác, đặc biệt là những lĩnh vực thường xuyên áp dụng như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Đầu tư, Xây dựng, Xử phạt vi phạm hành chính, Thi hành án dân sự …  và các văn bản hướng dẫn thi hành).
+ Có tinh thần trách nhiệm trong việc tham mưu và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ như: nghiên cứu hồ sơ, áp dụng dụng trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường nhất là các biện pháp bảo đảm việc xác minh, thương lượng … để đề xuất phương án giải quyết hiệu quả cho thủ trưởng cơ quan.
+ Có kỹ năng giải quyết bồi thường như: kỹ năng giao tiếp, tạo niềm tin cho người yêu cầu bồi thường; kỹ năng đàm phán, thương lượng; kỹ năng định hướng người yêu cầu bồi thường hướng đến những lợi ích chung của xã hội, của đất nước.
+ Có kỹ năng phối hợp với các tổ chức, cá nhân liên quan trong giải quyết bồi thường: trong quá trình giải quyết bồi thường, nhất là trong quá trình xác minh, thương lượng, việc phối hợp với tổ chức, cá nhân có liên quan là tất yếu, đặt ra yêu cầu người giải quyết bồi thường phải có kế hoạch chi tiết cho hoạt động này, theo đó, biết phân tích, tổng hợp, nhận định sự việc chính xác, xử lý các tình huống linh hoạt, tránh là tổn hại uy tín hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức, cá nhân được xác minh hoặc cơ quan phối hợp xác minh, thương lượng, nhằm giúp cho thủ trưởng giải quyết bồi thường hiệu quả.
Thứ ba, phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong quá trình trước, trong và sau khi giải quyết bồi thường: với quy định về cơ quan giải quyết bồi thường theo mô hình phân tán, nên việc giải quyết yêu cầu bồi thường không phát sinh thường xuyên, dẫn đến thực tế cơ quan giải quyết bồi thường nói chung, công chức được cử giải quyết bồi thường nói riêng không thường xuyên được trong bị kiến thức pháp luật về TNBTCNN cũng như các kỹ năng trong giải quyết bồi thường. Do đó, để bảo đảm tính kịp thời, đúng pháp luật trong giải quyết bồi thường, không để xảy ra tình trạng người yêu cầu bồi thường không tin tưởng vào kết quả giải quyết và tiếp tục khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án thì việc phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước trong quá trình giải quyết bồi thường là rất cần thiết.[17]
Theo đó, qua hoạt động phối hợp, các cơ quan giải quyết bồi thường sẽ được hướng dẫn nghiệp vụ từ khâu nhận hồ sơ, thụ lý hồ sơ, tiến hành xác minh, tổ chức thương lượng và ra quyết định giải quyết bồi thường hoặc xử lý các tình huống không mong muốn xảy ra trong quá trình giải quyết bồi thường. Đồng thời, qua hoạt động phối hợp, cơ quan giải quyết bồi thường cũng thực hiện trách nhiệm báo cáo và gửi các văn bản, quyết định giải quyết bồi thường cho cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà phục vụ cho công tác quản lý theo quy định.
4.2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước
Thứ nhất, Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức được giao làm công tác bồi thường nhà nước và đội ngũ công chức các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan tố tụng và cơ quan thi hành án:
- Đối với đội ngũ công chức được giao làm công tác bồi thường nhà nước:
Xác định đây là lực lượng quan trọng trong tham mưu và tổ chức thực hiện công tác bồi thường nhà nước nói chung, công tác hướng dẫn nghiệp vụ nói riêng, do đó, cần bảo đảm tính ổn định của đội ngũ công chức này nhất là tại các Sở Tư pháp, tránh thay đổi thường xuyên, gây khó khăn trong công tác tham mưu, triển khai thực hiện công tác bồi thường nhà nước; thường xuyên tạo điều kiện cho đội ngũ công chức này đi đào tạo, bồi dưỡng một cách hợp lý về chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà nước, kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường … nhằm nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ công chức này.
- Đối với đội ngũ công chức các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ quan tố tụng và cơ quan thi hành án: Do yêu cầu người giải quyết bồi thường phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được vị trí công tác, có kiến thức về tâm lý xã hội và am hiểu pháp luật, biết cách ứng xử, giao tiếp. Đặc biệt, khi giải quyết bồi thường phải bảo đảm các nguyên tắc, như: Tôn trọng quyền yêu cầu bồi thường của người yêu cầu bồi thường; khách quan, công khai, dân chủ, thận trọng; biết phân tích, tổng hợp, nhận định sự việc chính xác, xử lý các tình huống linh hoạt, nhằm giúp cho thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường kịp thời, đúng pháp luật. Do đó, việc thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng nghiệp vụ về giải quyết bồi thường cho đội ngũ này phải được thực hiện thường xuyên hằng năm.
Thứ hai, Thường xuyên kiểm tra, rà soát, giải quyết các vụ việc giải quyết bồi thường phức tạp, tồn đọng, kéo dài, trên cơ sở đó thực hiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đôn đốc, giải quyết dứt điểm các vụ việc yêu cầu bồi thường, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông vào các hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trên các lĩnh vực dễ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Thứ ba, Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ, thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc chấp hành pháp luật về TNBTCNN, trách nhiệm thực hiện quản lý nhà  nước về công tác bồi thường nhà nước đối với người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nhiệm vụ này tại địa phương. Thường xuyên tổ chức quán triệt, tuyên truyền, giải thích pháp luật về TNBTCNN để cán bộ, Nhân dân nắm vững và nghiêm chỉnh chấp hành. Đồng thời, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chuyên môn trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án để góp phần hạn chế những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.  
4.3. Hoàn thiện một bước các quy định và biện pháp bảo đảm thi hành Luật TNBTCNN năm 2017
Thứ nhất, đối với hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ về công tác giải quyết yêu cầu bồi thường
Thực tiễn hiện nay, qua phản ánh của báo chí, kiến nghị của cơ quan, người có thẩm quyền, nhiều vụ việc đã bảo đảm đầy đủ các thành phần hồ sơ yêu cầu bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật TNBTCNN năm 2017 và đã được cơ quan giải quyết bồi thường thụ lý, hoặc qua tiếp nhận của Sở Tư pháp do người yêu cầu bồi thường gửi, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cơ quan giải quyết bồi thường không chủ động gửi xin hướng dẫn nghiệp vụ mà chủ động thực hiện nên quá trình giải quyết còn mắc nhiều sai phạm trong áp dụng trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường[18], chỉ khi cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra và hướng dẫn thì việc giải quyết mới được thực hiện đúng hoặc được hướng dẫn khắc phục vi phạm. Do đó, để khắc phục triệt để tình trạng trên và nâng cao chất lượng hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường, quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, tác giả đề nghị cần nghiên cứu, bổ sung quy định tại Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN (Nghị định số 68/2018/NĐ-CP) và biện pháp thi hành tại Thông tư số 08/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp Quy định biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước (Thông tư số 08/2019/TT-BTP), theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước có thẩm quyền chủ động thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường đối với những trường hợp này.
Thứ hai, về hoạt động hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường
Hiện nay, theo quy định tại Mục 3 của Luật TNBTCNN năm 2017 về phục hồi danh dự (từ Điều 56 về hình thức phục hồi danh dự và Điều 57 về chủ động phục hồi danh dự, Điều 58 về trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai, Điều 59 về đăng báo xin lỗi và cải chính công khai), tại các điều này đã quy định cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải chủ động thực hiện phục hồ danh dự cho các người bị thiệt hại trong các trường hợp: người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, cá nhân bị thiệt hại trong trường hợp bị buộc thôi việc trái pháp luật, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Để tạo điều kiện thuận lợi cho những trường hợp này thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường, đồng thời, thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước, tác giả đề nghị nghiên nghiên cứu bổ sung quy định tại Nghị định số 68/2018/NĐ-CP và Thông tư số 09/2019/TT-BTP ngày 10/12/2019 của Bộ Tư pháp quy định biện pháp hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước phải chủ động thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường đối với những trường hợp này.
Trên đây là quan điểm của tác giả trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường trong thời gian tới, rất mong sự quan tâm, chia sẻ của các đồng nghiệp./.
                                                        Trần Việt Hưng - Phó Cục trưởng
                                                     Cục Bồi thường nhà nhà nước, Bộ Tư pháp


 
[1] Từ Điều 40 đến Điều 59 Luật TNBTCNN năm 2017.
[2] Từ Điều 13 đến Điều 25 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP.
[3] Từ Điều 22 đến Điều 32 Luật TNBTCNN năm 2017.
[4] Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15/7/2016 của Bộ Tư pháp tổng kết 06 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2009.
[5] Báo cáo số 129/BC-BTP ngày 14/3/2024 của Bộ Tư pháp đánh giá kết quả 5 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2017.
[6] Năm 2021, số vụ việc được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là 44 trên tổng số 82 vụ việc (chiếm tỷ lệ 54%). Năm 2022, số vụ việc được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là 55 trên tổng số 103 vụ việc (chiếm tỷ lệ 53%).
[7] Báo cáo số 50/BC-BTP ngày 15/3/2022 của Bộ Tư pháp báo cáo Công tác bồi thường nhà nước năm 2021, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp năm 2022 , trang 12.
[8] Theo báo cáo của UBND tỉnh Sóc Trăng tại buổi làm việc của Đoàn kiểm tra liên ngành về công tác bồi thường nhà nước, trên địa bàn tỉnh có 06 vụ việc yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự được thụ lý, giải quyết theo quy định của Luật TNBTCNN năm 2017 nhưng Sở Tư pháp tham gia thương lượng đối với 02 vụ việc, còn 04 vụ việc còn lại các cơ quan giải quyết bồi thường không mời Sở Tư pháp tham gia thương lượng. Báo cáo sơ kết 05 thi hành Luật của VKSNDTC. Công văn số 275/BTNN-NV1 ngày 27/7/2021 của Cục Bồi thường nhà nước gửi Sở Tư pháp tỉnh Cao Bằng đối với vụ việc bà Hoàng Thị Vanh.
[9] Báo cáo sơ kết 05 thi hành Luật của tỉnh Tiền Giang.
[10] Kết luận số 3636/KL-ĐKTLN ngày 29/7/2022 kiểm tra liên ngành công tác bồi thường nhà nước tại tỉnh Sóc Trăng.
[11] Điều 42 đến Điều 47 Luật TNBTCNN năm 2017.
[12] Điều 22 của Luật quy định về giá trị thiệt hại được bồi thường được xác định tại thời điểm thụ lý hồ sơ chưa đảm bảo quyền lợi của người yêu cầu bồi thường đối với một số trường hợp mà thiệt hại có sự thay đổi giá trị lớn tại thời điểm giải quyết hoặc đối với những vụ việc mà thời điểm thụ lý giải quyết và xác minh, giải quyết kéo dài (Báo cáo sơ kết 05 năm thi hành Luật của tỉnh An Giang và Bạc Liêu).
[13] Như footnote 6.
[14] Báo cáo số 129/BC-BTP ngày 14/3/2024 của Bộ Tư pháp đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Luật TNBTCNN năm 2017.
[15] Vụ việc ông Trần Bê và ông Huỳnh Chiếm Hoạnh, tỉnh Khánh Hòa (trong hoạt động tố tụng hình sự).
[16] Điều 8: văn bản làm căn cứ trong hoạt động quản lý hành chính; Điều 9: văn bản làm căn cứ yêu cầu thường trong hoạt động tố tụng hình sự; Điều 10: văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; Điều 11: văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi hành án hình sự và Điều 12: văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự.
[17] Như foonote 6 đã nêu.
[18] Thông qua hoạt động kiểm tra 5 năm thi hành Luật TNBTCNN năm 2017, hầu hết hồ sơ giải quyết yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hình sự và thi hành án dân sự đều có vi phạm như: thụ lý không đủ thành phần hồ sơ, không đúng đúng thời hạn, cử người không đủ tiêu chuẩn, tổ chức xác minh thiệt hại, thành phần mời tham gia thương lượng không đầy đủ, tổ chức thương lượng không đúng quy định.