Một số vấn về tạm giam bị can, bị cáo trong trường hợp bị bệnh nặng

12/11/2019

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 thì người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của BLTTHS, bao gồm bị can bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ. Mục đích của tạm giam là nhằm ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn. Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn “có thể áp dụng” tức là không bắt buộc áp dụng đồng loạt cho mọi bị can, bị cáo khi đã có đủ căn cứ, điều kiện để áp dụng tạm giam.
Theo quy định của pháp luật, việc bắt bị can bị cáo để tạm giam cần phải tuân thủ các thủ tục chặt chẽ. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Tạm giam cũng có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 119 của BLTTHS 2015:
 a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
 b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
 c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
 d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
 đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
 a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
 b) Tiếp tục phạm tội;
 c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
 d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Như vậy, theo quy định tại Khoản 4 Điều 119 của BLTTHS 2015 thì đối với trường hợp bị can, bị cáo đang bị bệnh nặng, có xác nhận của cơ sở y tế về tình trạng bệnh tật thì có thể yêu cầu cơ quan điều tra không áp dụng biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, phải đảm bảo một số điều kiện như có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, đồng thời không rơi vào các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này và không thuộc trường hợp phạm các tội về xâm phạm an ninh quốc gia.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với những người bị tình nghi phạm tội, bị can bị cáo bằng biện pháp tạm giam là cần thiết nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử khách quan và đúng pháp luật. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc áp dụng một cách đồng loạt, BLHS và BLTTHS cũng đã dự liệu những trường hợp cần xem xét không cần thiết phải tạm giam, hoặc áp dụng “bắt buộc chữa bệnh” khi bị can, bị cáo bị bệnh tâm thần, bệnh nặng hoặc hiểm nghèo khác. Theo quy định tại Điều 229 BLTTHS 2015, bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có kết luận giám định tư pháp thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra...Tại Điều 49 của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), quy định: “(1). Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. (2). Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự”. Khoản 1 Điều 205 BLTTHS 2015 quy định: “Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định”… Trên cơ sở kết quả giám định của tổ chức giám định pháp y- pháp y tâm thần, trong trường hợp có kết quả đây là thuộc trường bệnh nặng hoặc hiểm nghèo, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và vụ án theo quy định của BLTTHS. Bên cạnh đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có quy định về chế độ chăm sóc y tế với người bị tạm giữ, tạm giam tại Điều 30 như sau: “(1). Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. Trường hợp bị ốm đau, bệnh tật, thương tích thì được khám và điều trị tại cơ sở y tế của cơ sở giam giữ; nếu bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng của cơ sở giam giữ thì được chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh viện trung ương khám, điều trị. Cơ sở giam giữ phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều trị. Chế độ ăn, sử dụng thuốc, bồi dưỡng do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chỉ định. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được nhận thuốc chữa bệnh từ thân nhân và phải có đơn thuốc của thầy thuốc, chịu sự kiểm tra của cơ sở giam giữ. (2). Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cơ sở giam giữ yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Khi có quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam đến cơ sở chữa bệnh nêu trong quyết định. (3). Kinh phí khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam do ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của Chính phủ. Trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam có chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế”.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp người bị tình nghi, bị can bị cáo bị “bệnh nặng” để có thể được cơ quan có thẩm quyền quyết định không áp dụng biện pháp tạm giam mà thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác, dẫn đến tình trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà không phải là biện pháp tạm giam một cách tùy tiện hoặc có những trường hợp bị bệnh nặng đáng lẽ không áp dụng biện pháp tạm giam hoặc đình chỉ điều tra…thì lại áp dụng biện pháp tạm giam làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can bị cáo, điều này dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật và gây  khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Khi nghiên cứu quy định tại Khoản 4 Điều 119 BLTTHS và trên thực tế có rất nhiều trường hợp mà trong vụ án bị can bị chết trong trại tạm giam vì trước đó đã bị bệnh nặng như vụ án bị can Phạm Tiến Dũng trong vụ án tham nhũng PMU 18 và vụ án tham ô tại dự án cầu Bãi Cháy cũng thuộc PMU 18 đã bị chết vì bị bệnh trong Trại tạm giam T.16 Bộ Công an trong khi Cơ quan điều tra vừa kết thúc việc điều tra bổ sung hay trong một số vụ án khác như” “kỳ án” Đặng Nam Trung, bị can Nguyễn Lịch bị chết trong trại tạm giam vì bị bệnh tim; vụ án buôn lậu dây kéo YKK xảy ra ở Công ty Việt Hùng, bị cáo Lầu Lý Sáng và một người liên quan cũng bị chết trước khi phiên tòa sơ thẩm lần 2 được mở lại sau tiến trình tố tụng kéo dài gần 7 năm, bị cáo Trần Thị Giang trong vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Công ty Prosimex, trước khi bị bắt tạm giam, đã bị bệnh hở van tim 2 lá, phải đại phẫu thuật nhưng vẫn bị tạm giam và điều tra lại gần 5 năm mới được tại ngoại…
Nghiên cứu các quy định của BLHS, BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành thì có thể thấy, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là bị “bệnh nặng” áp dụng đối với trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, mà trường hợp bị bệnh nặng được hướng dẫn trong trường hợp hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2007/NĐ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự, người bị xử phạt tù bị bệnh nặng có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi sức khỏe được hồi phục. Theo đó, thì bị án có thể được hoãn trong trường hợp bị bệnh nặng tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành án phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ, ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu... Tuy nhiên, quy định trên chỉ hướng dẫn áp dụng đối với trường hợp người bị kết án bị xử phạt tù có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn đối với trường hợp bị can, bị cáo bị bệnh nặng thuộc trường hợp có thể được hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam bằng các biện pháp ngăn chặn khác thì hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nêu rõ cần đổi mới biện pháp tạm giam với ba nội dung quan trọng: 1) Xác định rõ căn cứ tạm giam; 2) Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; 3) Thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”. Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc tạm giam nhằm bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, gắn với việc bào vệ quyền con nguời, quyền công dân. Do vậy, để thống nhất trong thực tiễn áp dụng và đảm bảo quyền lợi của bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Thiết nghĩ, trong thời gian tới cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành hướng dẫn trong trường hợp trên./.
Hồ Quân - Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4