1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong Luật Dân sự. Theo quy định tại Điều 275 BLDS năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba BLDS “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với nghĩa vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật. Điều 584 BLDS đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường…”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 BLDS:
“Nghĩa vụ là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
Trong quan hệ nghĩa vụ này, chủ thể tham gia có thể là cá nhân, pháp nhân. Chủ thể bị thiệt hại (người có quyền) và chủ thể gây thiệt hại (người có nghĩa vụ) là các bên tham gia vào các quan hệ đó. Bên có quyền cũng như bên có nghĩa vụ có thể có một hoặc nhiều người tham gia. Nghĩa vụ hoặc quyền của họ có thể là liên đới, riêng rẽ hoặc theo phần tùy điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị xâm hại.
Khách thể của quan hệ nghĩa vụ này luôn thể hiện dưới dạng “
hành động” phải thực hiện hành vi
“bồi thường” cho người bị thiệt hại. Cơ sở phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là sự kiện
“gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” cho các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể hiện trong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được gọi là trách nhiệm, để bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phân biệt với trách nhiệm theo hợp đồng. Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do pháp luật quy định xuất phát từ nguyên tắc chung của Hiến pháp (các quy định từ Điều 14 đến Điều 21 Hiến pháp năm 2013) và các nguyên tắc được quy định trong BLDS năm 2015 (Điều 3). Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định
: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc được quy định trong điều luật này buộc các chủ thể
“không được xâm phạm”, bởi vậy nếu
“xâm phạm” sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế với mục đích khắc phục những hậu quả về tài sản cũng như nhân thân do hành vi thiệt hại tạo ra.
Trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng mang đặc tính của trách nhiệm dân sự. Đó là trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Tuy nhiên, việc khôi phục tình trạng tài sản bằng biện pháp bồi thường thiệt hại của người gây ra thiệt hại không phải bao giờ cũng mang lại hậu quả như mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau, người gây ra thiệt hại không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thế “phục hồi lại tình trạng tài sản ban đầu” như trước khi bị thiệt hại. Bởi vậy, cần có các cơ sở và các hình thức khác để khắc phục tình trạng tài sản của người bị thiệt hại (các loại hình bảo hiểm đang đi theo hướng này và ngày càng đóng vai trò quan trọng, có hiệu quả nhằm phục hồi, hạn chế thiệt hại của người bị thiệt hại do các hành vi trái pháp luật gây ra).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến những bất lợi về tài sản của người gây ra thiệt hại để bù đắp những thiệt hại mà họ đã gây ra cho các chủ thể khác, đặc biệt với các hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi. Vì vậy, trong pháp luật dân sự không thể coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc áp dụng một biện pháp hình sự hay hình phạt phụ. Điều 51 Bộ luật Hình sự quy định bồi thường thiệt hại mà một trong những biện pháp tư pháp mà không quy định nó trong danh mục hình phạt chính hay phụ (1).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng với mọi cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Trong đó, hình thức lỗi (yếu tố lỗi) đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nhiều tội phạm không cần có dấu hiệu thiệt hại vật chất. Tòa án không thể tuyên phạt một chủ thể nào đó về một hành vi mà Luật Hình sự không quy định đó là tội phạm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dựa trên cơ sở thiệt hại đã xảy ra, lỗi chỉ là cơ sở của trách nhiệm chứ không phải là thước đo để xác định mức độ trách nhiệm. Việc xem xét đến mức độ lỗi được đặt ra trong trường hợp thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây ra thiệt hại. Mặt khác, lỗi là yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự nhưng ngoại trừ trường hợp cố ý, còn tất cả trường hợp khác chỉ cần người gây ra thiệt hại nhận thức được hành vi của họ trái với những quy tắc xử sự chung, có thể bị mọi người lên án là trái đạo đức đều bị coi là có lỗi. Do đó, trong Luật Dân sự quy định một nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà không quy định những hành vi nào là có lỗi và phải chịu chế tài (hình phạt). Nếu người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho cá nhân hoặc các tổ chức thì họ phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo hợp đồng. Đặc điểm của loại trách nhiệm này là giữa hai bên (bên chịu trách nhiệm và bên bị thiệt hại) có quan hệ hợp đồng và phải do hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã gây ra. Trong trường hợp các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe dù hai bên có quan hệ hợp đồng hay không có quan hệ hợp đồng, trong thực tiễn xét xử đều áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là áp dụng tương tự pháp luật, vì trong các quy định chung về nghĩa vụ không có các quy định cụ thể về cách tính thiệt hại.
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý, chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Minh Oanh – giảng viên khoa pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra”.
Theo tác giả Đỗ Chinh:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”.
Quan điểm khác lại cho rằng:
“Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô ý) gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Trong đó, bên vi phạm và gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu”
Trong khoa học Luật Dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu
“Là một bộ phận hợp thành của chế định trách nhiệm dân sự; là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa chủ thể gây thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại; là biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với chủ thể có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho chủ thể khác”.
Qua những quan điểm trên, tác giả cũng đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”.
2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
2.1. Đối với phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên; Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể được thỏa mãn nhưng không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Mọi hành vi trái pháp luật của các chủ thể gây thiệt hại cho các đối tượng được pháp luật bảo vệ đều không được pháp luật chấp nhận. Tuy nhiên, để khuyến khích các cá nhân tự bảo vệ mình cũng như chủ động ngăn chặn các hành vi trái pháp luật là tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, pháp nhân, cá nhân khác. Pháp luật coi hành động chống trả lại các hành vi gây thiệt hại xâm phạm đến các đối tượng được pháp luật bảo vệ trong một chừng mực cho phép là hành vi phòng vệ chính đáng.
Xuất phát từ nguyên tắc được quy định tại khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015: “
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Do đó, mọi hành vi gây thiệt hại cho các đối tượng được pháp luật bảo vệ đều không được pháp luật thừa nhận.
Điều 594 BLDS năm 2015 quy định
:“Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại; Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại”.
Tuy nhiên, để khuyến khích các cá nhân tự bảo vệ, chủ động ngăn chặn các hành vi trái pháp luật làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, pháp luật coi việc chống trả các hành vi xâm phạm đến đối tượng nêu trên trong chừng mực nhất định là phòng vệ chính đáng. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chế định phòng vệ chính đáng được đề cập chủ yếu trong pháp luật hình sự. Phòng vệ chính đáng trong pháp luật hình sự được tiếp thu trên cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật hình sự.
Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:
“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”.
Nếu một người có hành vi chống trả lại hành vi gây thiệt hại của người khác và hành vi chống trả lại này được coi là phòng vệ chính đáng thì hành vi chống trả đó không bị coi là hành vi trái pháp luật, do đó người thực hiện hành vi chống trả không phải bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, Điều 594 BLDS năm 2015 quy định
: “Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”
- Căn cứ Điều 22 BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thì thì một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, về phía nạn nhân (người bị chết hoặc bị thương tích)
Nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba).
Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Ví dụ: A đang cầm dao đuổi chém B hoặc C đang dí súng vào đầu Đ để buộc Đ phải đưa tài sản cho mình. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Tuấn A thấy Nguyễn Văn H đi chơi với người yêu của mình nên nói với H: “Tao sẽ giết mày!” Mới nghe Tuấn A nói vậy, H đã rút dao trong người ra đâm Tuấn A chết. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: A đánh B bị thương vào đầu, được mọi người can ngăn, A đã bỏ đi, nhưng do bực tức B đã lấy dao đuổi theo A đâm A chết. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ. Ví dụ: A đánh B nhưng B đỡ được, A biết không thể đánh nổi B nên chạy vào nhà B đánh mẹ của B đang bị bệnh nằm trên giường, nên B đã dùng một khúc gỗ vụt mạnh vào đầu A làm cho A ngất xỉu sau đó bị chết. Mặc dù hành vi tấn công của A đã kết thúc đối với B nhưng A lại có tiếp hành vi xâm phạm đến mẹ của B và để bảo vệ mẹ của mình nên B đã chống trả gây thiệt hại cho A nên hành vi của B cũng được coi là phòng vệ. Trường hợp phòng vệ này thường bị nhầm với trường hợp tội phạm do tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 125 BLHS năm 2015, vì người bị tấn công không phải là người chống trả (người có hành vi phòng vệ) mà là người khác (người thứ ba). Tuy nhiên người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có thể là người thân của mình, nhưng cũng có thể chỉ là một người không quen biết, còn trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người bị xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội. Trường hợp phòng vệ này càng dễ nhầm với trường hợp phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 vì người thứ ba trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ có thể là người thân, nhưng cũng có thể là người không quen biết. Hành vi phòng vệ và hành vi được coi là bị kích động về tinh thần chỉ khác nhau ở tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm. Vì vậy, về phía nạn nhân trong trường hợp phòng vệ phải là người có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể.
Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm (quan hệ xã hội cần bảo vệ). Nếu quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Ví dụ: Một người trèo tường để đột nhập vào nơi cất giữ tài liệu tối mật về an ninh quốc phòng được canh phòng cẩn thận, thì tính chất nghiêm trọng hơn nhiều so với người trèo tường vào một gia đình nông dân để trộm cấp tài sản.
Mức độ đáng kể của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Ví dụ: Hành vi dùng súng để uy hiếp hành khách trên Tầu hoả của một tên cướp nguy hiểm hơn nhiều hành vi lén lút thò tay vào túi người khác để lấy trộm tiền.
Nếu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi chống trả không được coi là phòng vệ. Ví dụ: A chỉ tát B một cái, B đã rút dao đâm chết A hoặc A chỉ thò tay vào túi của B để trộm cắp, B đã túm cổ áo A đấm túi bụi cho đến chết, thì hành vi của B trong cả hai trường hợp này đều không được coi là hành vi phòng vệ.
Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ. Ví dụ: Một cảnh sát đuổi bắt một tên tội phạm nguy hiểm, người cảnh sát này đã bắn chỉ thiên, hô đứng lại, nhưng tên tội phạm vẫn cố tình chạy trốn, buộc người cảnh sát phải nổ súng bắn què tên tội phạm để bắt hắn. Nhưng khi người cảnh sát đến gần, hắn bất ngờ rút dao trong người ra đâm người cảnh cát trọng thương. Hành vi của tên tội phạm này không được coi là hành vi phòng vệ, vì hành vi của người cảnh sát được pháp luật cho phép.
Hành vi trái pháp luật, trước hết là hành vi phạm tội và những hành vi khác trái với quy định của pháp luật thuộc các ngành luật khác như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật Dân sự, Luật Hành chính, Luật Kinh tế và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi phạm tội nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A thò tay vào túi B để trộm cắp, nhưng B phát hiện được liền rút dao ra đâm A một nhát vào bụng làm A chết. Hành vi của B không được coi là phòng vệ chính đáng mặc dù hành vi xâm phạm của A là hành vi phạm tội (tội trộm cắp tài sản). Ngược lại, có những hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi phạm tội, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng, Ví dụ: Một người trèo tường vào khu vực cấm định hái một ít hoa. Người chiến sĩ bảo vệ phát hiện đã hô đứng lại, bắn chỉ thiên để bắt người này, nhưng vì hoảng sợ nên vẫn bỏ chạy buộc chiến sỹ bảo vệ phải bắn vào chân người này làm họ bị gẫy chân. Sau khi bị bắt, mới biết người này trèo tường vào khu vực cấm chỉ là để hái hoa và không biết đây là khu vực quan trọng cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Như vậy, khi xem xét hành vi của người đang xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, không nhất thiết chỉ căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm mà phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ, đồng thời phải xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả để xác định sự chống trả trong trường hợp cụ thể đó có được coi là phòng vệ chính đáng hay không ?
Pháp luật các nước nói chung và nước ta nói riêng không coi hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật, bởi vì người mắc bệnh tâm thần (người điên) họ không nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội nên họ không có lỗi. Tuy nhiên, nếu một người bị người mắc bệnh tâm thần tấn công, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ mình, nhưng nếu còn có thể bỏ chạy mà không chạy lại chống trả gây thiệt hại cho người bị tâm thần thì không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu tấn công mình hoặc tấn công người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say rượu lại được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, theo pháp luật nước ta vần bị coi là hành vi trái pháp luật.
Thứ hai, về phía người phòng vệ
Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: A đi làm về thấy hai tên thanh niên đang hãm hiếp con gái mình, tiện có chiếc cuốc trên tay, A đã dùng cuốc bổ vào đầu một tên làm cho tên này bị trọng thương. Hành vi của A được coi là hành vi phòng vệ trong trường hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác (con gái) đang bị xâm phạm.
Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác (thường là người thân của người có hành vi xâm phạm), thì không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Văn Q bị Phạm Thanh B đánh, nhưng Q không đánh B mà lại đánh H (con của B) bị thương tích nặng. Hành vi của Q không được coi là hành vi phòng vệ.
Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, thì cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Hoàng Công Đ bị Trần Văn T dùng dao đuổi đánh, để ngăn chặn việc T đuổi đánh mình nên Đ đã dùng bật lửa đốt nhà của T. Hành vi của Đ không được coi là hành vi phòng vệ vì Đ không gây thiệt hại đến tính mạng hay sức khoẻ đối với T mà gây thiệt hại về tài sản của T.
Cũng không coi là phòng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác cũng gây thiệt hại lại cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: Nguyễn Văn K ra thăm đồng thấy Bùi Quốc T đang nhổ lúa trên thửa ruộng nhà mình vì hai bên đang có tranh chấp về thửa ruộng này. K chạy về lấy dao ra chặt phá cây trong khu vườn của gia đình T. Hành vi của cả K và T là hành vi cố ý huỷ hoại tài sản, K không thể lấy lý do: “mày nhổ lúa nhà tao thì tao chặt cây nhà mày”.
Thứ ba, hành vi chống trả phải là cần thiết
Cần thiết không có nghĩa là ngang bằng theo cách xác định của toán học như: Bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế, ví dụ: A đấm B vào mặt hai cái thì B cũng chỉ được đấm A vào mặt hai cái hoặc A gây thương tích cho B 23% thì B cũng chỉ được gây thương tích cho A 23%, mà trong hoàn cảnh cụ thể người có hành vi xâm phạm có thể chỉ mới đe doạ gây thiệt hại ngay tức khắc cho người phòng vệ hoặc cho người khác nhưng người phòng vệ có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ cho người xâm hại cũng được coi là cần thiết. Ví dụ: A đang dùng súng uy hiếp những người trên xe ô tô để cướp tài sản thì bị một chiến sĩ cảnh sát được trang bị vũ khí (Súng K54) là một trong những hành khách trên xe nổ súng bắn chết tên cướp thì hành vi bắn chết tên cướp được coi là chống trả cần thiết.
Cần thiết cũng khác với tương xứng, vì tương xứng là một đại lượng dùng để chỉ sự cân đối giữa sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác. Ví dụ: Bố cục của văn bản không tương xứng với nội dung của văn bản; hành vi chống trả không tương xứng với hành vi xâm phạm; lực lượng phòng thủ không tương xứng với sự tấn công của địch.v.v... Khi nói đến sự tương xứng là nói đến sự cân đối. Tuy trước đây trong các văn bản hướng dẫn về phòng vệ chính đáng cũng nêu tương xứng không có nghĩa là ngang bằng, nhưng không lý giải được thế nào là sự tương xứng giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ. Trong khi đó, nhiều trường hợp rõ ràng là hành vi phòng vệ không tương xứng với hành vi xâm phạm nhưng vẫn được coi là phòng vệ chính đáng, và như vậy giữa khái niệm về phòng vệ chính đáng với thực tiễn xét xử đã có những nhân tố không phù hợp.
Pháp luật Việt Nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng người gian...Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường (giết người hoặc cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng người phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ đáng kể. Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt người trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chuồng gà và cho dòng điện 220 Vol chay qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận; trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. đến đêm thứ 9 thì Bùi Văn T vào trộm gà và bị điện giật chết, trên tay T còn cầm một bao tải trong đựng 5 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự vể tội giết người theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự, nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì người bị chết là “đáng đời”, ai bảo đi ăn trộm. Ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội, cũng giống như trường hợp đánh chết người trộm cắp khi bị bắt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy rằng các nhà làm luật cũng nên tính cả đến các yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt Nam trong trường hợp “phòng vệ trước”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp tội phạm do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. Phòng vệ trước cũng là trường hợp phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trách nhiệm hình sự đối với họ được giảm nhẹ rất nhiều so với trường hợp tội phạm không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Bộ luật Hình sự quy định hai trường hợp tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, đó là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126) và cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136) được coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt (tình tiết vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là dấu hiệu định tội của hai tội danh này). Tuy nhiên, hành vi phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, ngoài hai trường hợp đã được quy định tại Điều 126 và Điều 136, thì không có trường hợp tội phạm nào thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nữa.
- Nếu căn cứ vào điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì hành vi gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng không bị coi là hành vi trái pháp luật và do đó người thực hiện hành vi này không bị coi là có lỗi. Tuy nhiên, để xác định một hành vi gây thiệt hại được coi là phòng vệ chính đáng thì cần lưu ý những điểm sau:
Một là, có hành vi trái pháp luật xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc xâm phạm tới lợi ích của chính bản thân người phòng vệ chính đáng.
Hai là, hành vi trái pháp luật của người khác đang gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho đối tượng bị xâm hại. Nếu thiệt hại đã xảy ra mà người bị thiệt hại mới có hành vi chống trả và gây thiệt hại ngược trở lại thì không thể coi là phòng vệ chính đáng.
Ba là, hành vi phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại (trước tiên là tính mạng, sức khỏe, trong những trường hợp nhất định có thể là tài sản của người có hành vi xâm phạm). Nếu gây thiệt hại cho người không có hành vi xâm hại thì không coi là phòng vệ chính đáng mà có thể coi là gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết nếu thỏa mãn đủ các điều kiện nhất định.
Bốn là, hành vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải là cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại. Nếu không cần thiết hoặc không tương xứng thì người gây thiệt hại vẫn phải bồi thường thiệt hại.
2.2. Đối với vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại (khoản 2 Điều 594 BLDS).
Hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng ở đây được hiểu là khi bị người khác gây thiệt hại, người phòng vệ chính đáng đã có hành vi gây thiệt hại ngược trở lại nhưng có sự sai lầm trong việc đánh giá mức độ của sự tấn công, điều kiện hoàn cảnh của hành vi tấn công và hành vi chống trả, do đó vượt quá giới hạn cần thiết nên đã gây ra thiệt hại ban đầu. Do đó, hành vi của họ đã vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng. Việc vượt quá giới hạn đó bị coi là trái pháp luật, vì vậy họ phải bồi thường thiệt hại.
Trong thực tiễn đã có hai luồng ý kiến về mức bồi thường đối với trường hợp này:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng chỉ phải bồi thường phần thiệt hại vượt quá giới hạn. Bởi vì ở trong giới hạn, hành vi của họ không bị coi là trái pháp luật, hơn nữa, đây là trường hợp bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại cũng có một phần lỗi.
- Ý kiến thứ hai cho rằng, người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Bởi vì, việc xác định hành vi nằm trong giới hạn hay vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng phải dựa vào tính chất, mức độ của hành vi và chỉ có một hành vi được thực hiện nên không thể phân đoạn hành vi để xem đoạn nào nằm trong giới hạn, đoạn nào vượt quá giới hạn. Hơn nữa, bồi thường thiệt hại khi người bị thiệt hại cũng có lỗi là trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi để cho thiệt hại xảy ra với chính mình. Tuy nhiên, đối với trường hợp này, người bị thiệt hại có lỗi tấn công người khác chứ không phải có lỗi để thiệt hại xảy ra với mình, chỉ có người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng mới bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra.
Ví dụ, A vay của B 50 triệu đồng, do làm ăn thua lỗ nên A không có khả năng trả cho B. B thuê 1 nhóm gồm 5,6 người đến nhà A đòi nợ. A xin khất sẽ trả sau nhưng nhóm người đó không đồng ý và đã lao vào đấm, đá A, do bị đánh hội đồng nên A vớ được ngay con dao dựa và quơ đi quơ lại để tự vệ, không may đã gây thương tích cho một người với tỉ lệ thương tích là 50%.
Với tình huống trên, căn cứ quy định tại Điều 22 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về phòng vệ chính đáng và Mục II Nghị quyết số 02 - HĐTP-TANDTC/QĐ của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao ban hành ngày 05 tháng 01 năm 1986 hướng dẫn về chế định phòng về chính đáng thì được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau đây: (1) Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội; (2) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ; (3) Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại; (4) Hành vi phòng vệ phải cần thiết với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Như vậy, hành vi bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Áp dụng vào trường hợp của A: Xét về không gian, hoàn cảnh, tương quan lực lượng thì hành vi 5,6 người cùng xông vào đánh, đấm A là nguy hiểm cho xã hội và đang xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của A. Vì vậy, pháp luật cho phép A phòng vệ chính đáng trong trường hợp này. Tuy nhiên, để chống trả lại hành vi nguy hiểm đó A đã dùng dao chống trả lại quá mức cần thiết gây tổn hại sức khỏe cho một người mà tỉ lệ tổn thương cơ thể là 50%. Vì vậy, căn cứ tại Khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2017) trong trường hợp này, A đã thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Đoàn Thị Ngọc Hải
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Xem, Bộ luật Dân sự năm 2015;
2. Xem, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
3. Xem, PGS. TS Nguyễn Văn Cừ & PGS.TS Trần Thị Huệ “Bình luận khoa học BLDS năm 2015”, NXB Công an nhân dân;
4. Xem, Trường Đại học Luật Hà Nội “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – tập II”, NXB Công an nhân dân – 2017;
5. Xem, TS. Nguyễn Minh Oanh – Khoa pháp luật dân sự, Đại học Luật HN “Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, đăng tải trên Trang thông tin pháp luật dân sự (5/4/2010).