Những vấn đề lý luận về phạt vi phạm trong hợp đồng cho vay
Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới kể từ ngày 11/01/2007, nên cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó có lãi suất, để thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc ban hành các văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của mình. Hiện nay, lãi suất cho vay được các tổ chức tín dụng thỏa thuận với khách hàng và được xác định cụ thể trong hợp đồng/ thỏa thuận cho vay/hợp đồng tín dụng trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự 2015, Luật tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài vấn đề lãi suất trong hợp đồng cho vay, phạt vi phạm cũng là một trong các nội dung chủ yếu của hợp đồng cho vay. Trong các hình thức trách nhiệm dân sự trong hợp đồng dân sự thì phạt vi phạm hợp đồng là hình thức trách nhiệm thông dụng nhất. Đây là hình thức trách nhiệm dân sự do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng, nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Thực tế giao kết hợp đồng dân sự hiện nay, hầu hết đều có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, thỏa thuận về các điều khoản này như thế nào để đúng pháp luật và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết hơn để các chế định này thật sự phát huy hiệu quả trong giao kết hợp đồng dân sự.
1. Quy định của pháp luật
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong một sự việc hay lĩnh vực nào đó. Nếu hợp đồng trong lĩnh vực dân sự (như mua bán nhà, xe ô tô …) giữa các cá nhân với nhau, thì gọi là “hợp đồng dân sự”. Nếu hợp đồng giao kết mà trong đó ít nhất một bên tham gia có mục đích sinh lợi, thương mại và có đăng ký kinh doanh, chẳng hạn như công ty A bán sản phẩm do mình sản xuất cho công ty B, thì gọi là “hợp đồng thương mại”. Nếu hợp đồng trong những lĩnh vực được chuyên biệt hóa, có luật riêng, thì hợp đồng sẽ mang tên lĩnh vực đó. Chẳng hạn như, hợp đồng thi công xây dựng công trình ký giữa hai công ty, thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Xây dựng, thì gọi là “hợp đồng xây dựng”.
Vi phạm hợp đồng là hành vi một bên vi phạm (một hoặc nhiều) nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Việc phạt vi phạm hợp đồng không mang tính bắt buộc, mà do các bên thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên thỏa thuận này (nếu có) phải được thể hiện rõ trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng không có nội dung này thì xem như hai bên không thỏa thuận.
Phạt vi phạm hay còn gọi là phạt vi phạm hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm trong hợp đồng dân sự do hai bên thỏa thuận, còn trong thương mại và xây dựng thì căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% hoặc 12%.
Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015, quy định về thỏa thuận phạt vi phạm:
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Theo quy định tại Điều 418 BLDS năm 2015, thì các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận trước về việc bồi thường thiệt hại cũng như xác định trước trong hợp đồng một mức bồi thường cụ thể bằng tiền.
Xuất phát từ bản chất của phạt vi phạm là biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế hành vi vi phạm (khi vi phạm chưa xảy ra), đồng thời cũng là một biện pháp nhằm trừng phạt bên vi phạm hợp đồng (đã xảy ra hành vi vi phạm). Với ý nghĩa trên, pháp luật tôn trọng và tạo điều kiện để các bên tự thỏa thuận, sao cho mức phạt vi phạm có thể phát huy được đầy đủ ý nghĩa của mình. Tuy nhiên, thỏa thuận mức phạt vi phạm và mức bồi thường thiệt hại thế nào là hợp lý lại là một vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Theo một số quan điểm, để đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, BLDS hiện hành đã không giới hạn trần mức phạt vi phạm. Nhưng nếu không có giới hạn mức phạt vi phạm, để cho các bên tự do thỏa thuận thì các bên có thể thỏa thuận một mức phạt lên đến 100%; 300%; 500% hoặc cao hơn nữa, về mặt lý là không sai, nhưng sẽ không có tính khả thi, từ đó, rất khó để bên vi phạm có thể thực hiện nghĩa vụ, điều này đồng nghĩa chế định này sẽ không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu ban hành hướng dẫn quy định về phạt vi phạm phù hợp hơn với thực tiễn.
Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng:
“1. Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Thông tư này.
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Điều 74 Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại như sau: Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết. Như vậy, CISG cho phép các bên có thể dự liệu về mức bồi thường thiệt hại vào lúc kí kết hợp đồng bên cạnh việc đưa ra các nguyên tắc xác định khác (các nguyên tắc này tương tự như các nguyên tắc xác định thiệt hại được quy định trong Luật Thương mại năm 2005). Việc thừa nhận thỏa thuận bồi thường cố định cho thấy quan điểm tương đồng của CISG với pháp luật của một số nước như Anh và Mỹ. Theo đó, mức bồi thường cố định phải được dự liệu vào lúc kí kết hợp đồng, và công ước cũng cho rằng, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra thì mức bồi thường thiệt hại được đề nghị không được cao hơn mức bồi thường đã được dự liệu trước trong hợp đồng. Việc dự liệu trước này trong một số trường hợp sẽ là một là căn cứ để giới hạn mức bồi thường thiệt hại trong thực tế. Với tư cách là một thành viên của Công ước Viên 1980 kể từ tháng 11/2015, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của điều ước quốc tế này không còn là vấn đề tự nguyện; nội luật hóa các quy định của CISG bao gồm quy định cho phép các bên dự liệu trước mức bồi thường thiệt hại là vấn đề không thể không lưu tâm.
2. Hạn chế, vướng mắc
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng tín dụng trong thời gian qua có một số hạn chế, vướng mắc như hợp đồng tín dụng được thực hiện theo nguyên tắc do các bên thỏa thuận. Theo nguyên tắc này thì lãi suất, lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận; phạt vi phạm cũng do các bên thỏa thuận.
Có thể thấy, lãi suất, lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm đều được quy định trong Bộ luật dân sự và các luật có liên quan như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thương mại…Tuy nhiên, trong thời gian qua, trong hệ thống Tòa án, chưa có sự nhận thức thống nhất về các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng. Vì vậy, dẫn đến tình trạng trong thực tiễn xét xử, cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thỏa thuận về lãi suất (bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất nợ quá hạn), thỏa thuận phạt vi phạm nhưng có Tòa án xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm; có Tòa án xử chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm vì cho rằng tính lãi suất quá hạn đồng thời phạt vi phạm là “lãi chồng lãi”, “phạt chồng phạt”.
Về thời điểm và cách tính lãi để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án: thực chất, đây là xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án. Khi quyết định về vấn đề này, do không có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015 nên nhiều Tòa án đã vận dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử và thi hành án về tài sản (Thông tư liên tịch này hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự 1995 và đã hết hiệu lực thi hành) để quyết định về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc vận dụng theo án lệ. Như vậy, có thể dẫn đến tình trạng không thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Điều 362 BLDS năm 2015 quy định: “Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”. Có thể thấy, sự bất lợi cho bên có quyền và nếu áp dụng trong thực tế sẽ không khả thi. Bởi theo quy định, bên có quyền phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra, có thể bị bên vi phạm lợi dụng dẫn tới việc bên bị vi phạm có thể sẽ không nhận được khoản tiền bồi thường thiệt hại nào cả.
3. Kiến nghị, đề xuất
Từ những phân tích trên, có thể thấy nhu cầu điều chỉnh quy định pháp luật về cách thức xác định giá trị bồi thường thiệt hại là một vấn đề cấp bách trong bối cảnh các quan hệ hợp đồng đang phát triển ngày một đa dạng và phát sinh nhiều tình huống mới nằm ngoài dự liệu của các nhà làm luật. Tác giả hoàn toàn đồng tình với quan điểm cho rằng việc để các bên tự do thỏa thuận về một mức bồi thường thiệt hại cố định sẽ dễ dàng dẫn đến sự lạm dụng quy định này, đặc biệt là đối với những hợp đồng mà một trong các bên tham gia là bên yếu thế hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ vì lí do này mà hạn chế quyền tự do hợp đồng của các bên thì quả là một điều rất đáng tiếc. Xuất phát từ nhu cầu thực tế và yêu cầu hạn chế những rủi ro trong việc lạm dụng các quy định pháp luật, bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng, chúng tôi có một số kiến nghị và đề xuất, cụ thể như sau:
- Về xác định khoản tiền lãi và phạt vi phạm: các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật các tổ chức tín dụng và Luật thương mại đã khá rõ ràng, nhưng chưa có các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn cụ thể về lãi suất, lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm nên dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật trên thực tế.
- Về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án: trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án trước đây được quy định tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 nhưng đã hết hiệu lực thi hành và hiện nay chưa có văn bản nào thay thế. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án, tránh tình trạng người phải thi hành án chây ì không thi hành án, cần tiếp thu những yếu tố hợp lý của của Thông tư 01/TTLT nêu trên để hướng dẫn việc xác định trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ của người thi hành án trong vụ án tranh chấp dân sự nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng cho phù hợp với quy định tại Điều 357 của BLDS năm 2015 và khoản 5 Điều 3, khoản 1 Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
- Kiến nghị sửa đổi quy định của pháp luật cho phép thỏa thuận của các bên về một mức bồi thường thiệt hại cố định tại thời điểm kí kết hợp đồng, đó có thể là một khoản tiền nhất định hoặc là một cách tính thiệt hại được dự liệu từ trước; thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại cố định sẽ bị tuyên vô hiệu nếu việc dự liệu có dấu hiệu cho thấy nhằm mục đích trừng phạt bên vi phạm hợp đồng khi quy định khoản tiền quá lớn hoặc không hợp lí so với thiệt hại thực tế xảy ra; trong trường hợp hợp đồng được thiết lập giữa thương nhân và người tiêu dùng hoặc một bên yếu thế hơn, thỏa thuận cũng có thể bị tuyên vô hiệu nếu số tiền bồi thường thiệt hại do người tiêu dùng hoặc bên yếu thế hơn phải trả cao một cách bất cân xứng.
Những vấn đề lý luận về phạt vi phạm trong hợp đồng cho vay
19/07/2018
Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới kể từ ngày 11/01/2007, nên cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó có lãi suất, để thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc ban hành các văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của mình. Hiện nay, lãi suất cho vay được các tổ chức tín dụng thỏa thuận với khách hàng và được xác định cụ thể trong hợp đồng/ thỏa thuận cho vay/hợp đồng tín dụng trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự 2015, Luật tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài vấn đề lãi suất trong hợp đồng cho vay, phạt vi phạm cũng là một trong các nội dung chủ yếu của hợp đồng cho vay. Trong các hình thức trách nhiệm dân sự trong hợp đồng dân sự thì phạt vi phạm hợp đồng là hình thức trách nhiệm thông dụng nhất. Đây là hình thức trách nhiệm dân sự do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng, nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Thực tế giao kết hợp đồng dân sự hiện nay, hầu hết đều có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, thỏa thuận về các điều khoản này như thế nào để đúng pháp luật và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết hơn để các chế định này thật sự phát huy hiệu quả trong giao kết hợp đồng dân sự.
1. Quy định của pháp luật
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong một sự việc hay lĩnh vực nào đó. Nếu hợp đồng trong lĩnh vực dân sự (như mua bán nhà, xe ô tô …) giữa các cá nhân với nhau, thì gọi là “hợp đồng dân sự”. Nếu hợp đồng giao kết mà trong đó ít nhất một bên tham gia có mục đích sinh lợi, thương mại và có đăng ký kinh doanh, chẳng hạn như công ty A bán sản phẩm do mình sản xuất cho công ty B, thì gọi là “hợp đồng thương mại”. Nếu hợp đồng trong những lĩnh vực được chuyên biệt hóa, có luật riêng, thì hợp đồng sẽ mang tên lĩnh vực đó. Chẳng hạn như, hợp đồng thi công xây dựng công trình ký giữa hai công ty, thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Xây dựng, thì gọi là “hợp đồng xây dựng”.
Vi phạm hợp đồng là hành vi một bên vi phạm (một hoặc nhiều) nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Việc phạt vi phạm hợp đồng không mang tính bắt buộc, mà do các bên thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên thỏa thuận này (nếu có) phải được thể hiện rõ trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng không có nội dung này thì xem như hai bên không thỏa thuận.
Phạt vi phạm hay còn gọi là phạt vi phạm hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm trong hợp đồng dân sự do hai bên thỏa thuận, còn trong thương mại và xây dựng thì căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% hoặc 12%.
Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015, quy định về thỏa thuận phạt vi phạm:
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Theo quy định tại Điều 418 BLDS năm 2015, thì các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận trước về việc bồi thường thiệt hại cũng như xác định trước trong hợp đồng một mức bồi thường cụ thể bằng tiền.
Xuất phát từ bản chất của phạt vi phạm là biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế hành vi vi phạm (khi vi phạm chưa xảy ra), đồng thời cũng là một biện pháp nhằm trừng phạt bên vi phạm hợp đồng (đã xảy ra hành vi vi phạm). Với ý nghĩa trên, pháp luật tôn trọng và tạo điều kiện để các bên tự thỏa thuận, sao cho mức phạt vi phạm có thể phát huy được đầy đủ ý nghĩa của mình. Tuy nhiên, thỏa thuận mức phạt vi phạm và mức bồi thường thiệt hại thế nào là hợp lý lại là một vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Theo một số quan điểm, để đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, BLDS hiện hành đã không giới hạn trần mức phạt vi phạm. Nhưng nếu không có giới hạn mức phạt vi phạm, để cho các bên tự do thỏa thuận thì các bên có thể thỏa thuận một mức phạt lên đến 100%; 300%; 500% hoặc cao hơn nữa, về mặt lý là không sai, nhưng sẽ không có tính khả thi, từ đó, rất khó để bên vi phạm có thể thực hiện nghĩa vụ, điều này đồng nghĩa chế định này sẽ không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu ban hành hướng dẫn quy định về phạt vi phạm phù hợp hơn với thực tiễn.
Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng:
“1. Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Thông tư này.
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Điều 74 Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại như sau: Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu qủa của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu qủa có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết. Như vậy, CISG cho phép các bên có thể dự liệu về mức bồi thường thiệt hại vào lúc kí kết hợp đồng bên cạnh việc đưa ra các nguyên tắc xác định khác (các nguyên tắc này tương tự như các nguyên tắc xác định thiệt hại được quy định trong Luật Thương mại năm 2005). Việc thừa nhận thỏa thuận bồi thường cố định cho thấy quan điểm tương đồng của CISG với pháp luật của một số nước như Anh và Mỹ. Theo đó, mức bồi thường cố định phải được dự liệu vào lúc kí kết hợp đồng, và công ước cũng cho rằng, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra thì mức bồi thường thiệt hại được đề nghị không được cao hơn mức bồi thường đã được dự liệu trước trong hợp đồng. Việc dự liệu trước này trong một số trường hợp sẽ là một là căn cứ để giới hạn mức bồi thường thiệt hại trong thực tế. Với tư cách là một thành viên của Công ước Viên 1980 kể từ tháng 11/2015, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của điều ước quốc tế này không còn là vấn đề tự nguyện; nội luật hóa các quy định của CISG bao gồm quy định cho phép các bên dự liệu trước mức bồi thường thiệt hại là vấn đề không thể không lưu tâm.
2. Hạn chế, vướng mắc
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng tín dụng trong thời gian qua có một số hạn chế, vướng mắc như hợp đồng tín dụng được thực hiện theo nguyên tắc do các bên thỏa thuận. Theo nguyên tắc này thì lãi suất, lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận; phạt vi phạm cũng do các bên thỏa thuận.
Có thể thấy, lãi suất, lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm đều được quy định trong Bộ luật dân sự và các luật có liên quan như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thương mại…Tuy nhiên, trong thời gian qua, trong hệ thống Tòa án, chưa có sự nhận thức thống nhất về các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng. Vì vậy, dẫn đến tình trạng trong thực tiễn xét xử, cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thỏa thuận về lãi suất (bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất nợ quá hạn), thỏa thuận phạt vi phạm nhưng có Tòa án xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm; có Tòa án xử chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm vì cho rằng tính lãi suất quá hạn đồng thời phạt vi phạm là “lãi chồng lãi”, “phạt chồng phạt”.
Về thời điểm và cách tính lãi để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án: thực chất, đây là xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án. Khi quyết định về vấn đề này, do không có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2015 nên nhiều Tòa án đã vận dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử và thi hành án về tài sản (Thông tư liên tịch này hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự 1995 và đã hết hiệu lực thi hành) để quyết định về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc vận dụng theo án lệ. Như vậy, có thể dẫn đến tình trạng không thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Điều 362 BLDS năm 2015 quy định: “Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”. Có thể thấy, sự bất lợi cho bên có quyền và nếu áp dụng trong thực tế sẽ không khả thi. Bởi theo quy định, bên có quyền phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra, có thể bị bên vi phạm lợi dụng dẫn tới việc bên bị vi phạm có thể sẽ không nhận được khoản tiền bồi thường thiệt hại nào cả.
3. Kiến nghị, đề xuất
Từ những phân tích trên, có thể thấy nhu cầu điều chỉnh quy định pháp luật về cách thức xác định giá trị bồi thường thiệt hại là một vấn đề cấp bách trong bối cảnh các quan hệ hợp đồng đang phát triển ngày một đa dạng và phát sinh nhiều tình huống mới nằm ngoài dự liệu của các nhà làm luật. Tác giả hoàn toàn đồng tình với quan điểm cho rằng việc để các bên tự do thỏa thuận về một mức bồi thường thiệt hại cố định sẽ dễ dàng dẫn đến sự lạm dụng quy định này, đặc biệt là đối với những hợp đồng mà một trong các bên tham gia là bên yếu thế hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ vì lí do này mà hạn chế quyền tự do hợp đồng của các bên thì quả là một điều rất đáng tiếc. Xuất phát từ nhu cầu thực tế và yêu cầu hạn chế những rủi ro trong việc lạm dụng các quy định pháp luật, bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng, chúng tôi có một số kiến nghị và đề xuất, cụ thể như sau:
- Về xác định khoản tiền lãi và phạt vi phạm: các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật các tổ chức tín dụng và Luật thương mại đã khá rõ ràng, nhưng chưa có các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn cụ thể về lãi suất, lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm nên dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật trên thực tế.
- Về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án: trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án trước đây được quy định tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 nhưng đã hết hiệu lực thi hành và hiện nay chưa có văn bản nào thay thế. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án, tránh tình trạng người phải thi hành án chây ì không thi hành án, cần tiếp thu những yếu tố hợp lý của của Thông tư 01/TTLT nêu trên để hướng dẫn việc xác định trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ của người thi hành án trong vụ án tranh chấp dân sự nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng cho phù hợp với quy định tại Điều 357 của BLDS năm 2015 và khoản 5 Điều 3, khoản 1 Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
- Kiến nghị sửa đổi quy định của pháp luật cho phép thỏa thuận của các bên về một mức bồi thường thiệt hại cố định tại thời điểm kí kết hợp đồng, đó có thể là một khoản tiền nhất định hoặc là một cách tính thiệt hại được dự liệu từ trước; thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại cố định sẽ bị tuyên vô hiệu nếu việc dự liệu có dấu hiệu cho thấy nhằm mục đích trừng phạt bên vi phạm hợp đồng khi quy định khoản tiền quá lớn hoặc không hợp lí so với thiệt hại thực tế xảy ra; trong trường hợp hợp đồng được thiết lập giữa thương nhân và người tiêu dùng hoặc một bên yếu thế hơn, thỏa thuận cũng có thể bị tuyên vô hiệu nếu số tiền bồi thường thiệt hại do người tiêu dùng hoặc bên yếu thế hơn phải trả cao một cách bất cân xứng.