Tư tưởng phân quyền trong tổ chức và hoạt động BMNN Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013

29/06/2017
Tư tưởng phân quyền hay nguyên tắc tam quyền phân lập được các nhà triết học đặt ra từ thời La Mã cổ đại, với đại diện tiêu biểu là nhà bác học vĩ đại Aristote (384 - 322 tr.CN). Tuy nhiên, tư tưởng/nguyên tắc này chỉ trở thành một lý thuyết toàn diện và độc lập trong thời kỳ Khai sáng. Người khai sinh ra học thuyết này là triết gia người Anh, John Loke (1632-1704) và người có đóng góp lớn nhất trong việc phát triển nó một cách hoàn chỉnh là nhà luật học người Pháp S. Montesquieu (1689-1755).
Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước không phải là một thể thống nhất, mà phân chia thành 3 quyền gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau. Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực sẽ xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực. Theo học thuyết tam quyền phân lập, quyền lực nhà nước phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không chỉ để chuyên môn hoá các quyền mà quan trọng hơn là để giữa các quyền có sự giám sát, chế ước lẫn nhau, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan công quyền. Mỗi cơ quan được quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình, không có quyền trong lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác. Quyền lực ngăn chặn quyền lực chính là điểm cốt yếu của nguyên tắc phân chia quyền lực. Có thể nói, ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết tam quyền phân lập là tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước. Những giá trị mang tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ chức quyền lực của nhiều nước, không phân biệt điều kiện kinh tế, văn hoá và chế độ chính trị.
Trước hết phải khẳng định, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, nơi việc phân chia quyền lực kèm theo sự đối trọng quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bản chất của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân công gắn liền với phối hợp và sự kiểm soát quyền lực không nhằm tạo nên sự đối trọng mà chủ yếu là điều kiện để thực hiện tốt sự phân công, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Tuy nhiên các quy định của Hiến pháp cũng đã thể hiện tư tưởng phân quyền đảm bảo phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống của nước ta. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 2013 thể hiện tư tưởng này rõ ràng và đậm nét hơn so với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992 ở chỗ đã đề cập đến ba quyền đó (theo Hiến pháp năm 1992), phân định rõ hơn ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (theo Hiến pháp 2013), cụ thể:
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Như vậy, Hiến pháp  năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) mới chỉ quy định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà chưa quy định việc kiểm soát lẫn nhau giữa ba loại cơ quan này. Tuy nhiên, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế trên cơ sở nguyên tắc này trong một mức độ nhất định đã hàm chứa những yếu tố của sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc quy định chức năng, thẩm quyền và mối quan hệ quyền lực giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương. Trong khi đó, Hiến pháp 2013 đã bổ sung nội dung quan trọng đó là: kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc này là cơ sở hiến định để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói rằng, việc bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc này là một bước hoàn thiện quan trọng, tạo cơ sở để khắc phục sự yếu kém trong việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân ủy quyền. Với sự hoàn thiện này, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta được xác định bởi bốn nội dung quan trọng: thống nhất quyền lực, phân công quyền lực, phối hợp quyền lực, kiểm soát quyền lực.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 định danh cụ thể các cơ quan thực hiện tương ứng các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp 2013 đều quy định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vị trí và vai trò của Quốc hội được Hiến pháp 2013 quy định phù hợp hơn đối với một Quốc hội của nhà nước pháp quyền, khắc phục một bước những yếu tố của một Quốc hội có toàn quyền trong mô hình nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước"   thay vì quy định như Hiến pháp năm1992:  "Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp" (lập hiến và lập pháp đồng nhất là một quyền – Điều 83). Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn chức năng của Quốc hội - cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, đồng thời củng cố mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp.
Về vị trí, vai trò của Chính phủ, Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội". Điều này có nghĩa là: Hiến pháp năm 2013 đã xác lập rõ vị trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức bộ máy thực hiện quyền lực nhà nước. Trong khi đó, Hiến pháp 1992 không xác định rõ cơ quan nào thực hiện quyền hành pháp. Mặt khác, vị trí của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp được xếp lên trước. Vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp được cụ thể hóa qua các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các khoản 2, 3, 6 và 7 Điều 96 Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 hiến định quyền lập quy độc lập của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng - thành viên Chính phủ trong việc quyết định chính sách theo thẩm quyền (Khoản 2 Điều 96) và ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật (Điều 100) bởi quyền lập quy cũng là bộ phận không thể thiếu của quyền hành pháp.
          Hiến pháp năm 2013 cũng có bổ sung quan trọng nhằm bảo đảm vị thế, tính độc lập của hoạt động tư pháp và tiến thêm một bước trong việc tạo ra những yếu tố của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; thể hiện nhận thức mới về vai trò và nhiệm vụ của tòa án và viện kiểm sát, phù hợp với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền tư pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó quyền con người, quyền công dân được bảo vệ và bảo đảm tốt nhất bằng việc thực hiện quyền tư pháp. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện quyền tư pháp”; như vậy, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định về vị trí của tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân bảo đảm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và cải cách tư pháp; quy định có tính nguyên tắc về mô hình tổ chức tòa án theo thẩm quyền và cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Như vậy, việc Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xác định rõ Chính phủ thực hiện quyền hành pháp cùng với quy định Quốc hội thực hiện quyền lập pháp và Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp là bước tiến quan trọng trong việc tạo cơ sở hiến định nhằm cụ thể hóa cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền, góp phần khắc phục một trong những bất cập lớn của Hiến pháp năm 1992. Đây là điều kiện tiên quyết để nhân dân có cơ sở để kiểm soát và đánh giá hiệu lực, hiệu quả của mỗi cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực được nhân dân giao phó thông qua Hiến pháp.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 phân định rõ ràng nhiệm vụ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
          Hiến pháp năm 2013 cũng xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của những cơ quan này theo hướng xác định rõ ràng và minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, bảo đảm sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở đó, sự phân công thẩm quyền giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương rõ ràng, minh bạch, phù hợp với chức năng của từng cơ quan để các cơ quan này phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả hơn. Bằng việc Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp cũng xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bổ sung một số quyền liên quan đến quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, để đảm bảo phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tòa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan tư pháp và nâng cao vị thế của thẩm phán tòa án nhân dân tối cao theo tinh thần cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7 Điều 70). Trong hoạt động lập pháp, Hiến pháp 2013 đã bỏ quy định về việc Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh đáp ứng nhu cầu của thực hiện..v..v…
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đã bước đầu thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực trong việc thực hiện quyền hành pháp
Việc kiểm soát từ phía Quốc hội (lập pháp) đối với Chính phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp được thể hiện ở các phương diện khác nhau như kiểm soát đối với phạm vi hoạt động của Chính phủ (Hiến pháp 2013 phân định rõ hơn thẩm quyền quyết định chính sách của Quốc hội và của Chính phủ, xác định ranh giới giữa quyền lập pháp và quyền lập quy); kiểm soát nội dung hoạt động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Quốc hội có thẩm quyền thông qua hoặc không thông qua các chính sách, dự án luật do Chính phủ ban hành, bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái Hiến pháp, pháp luật...v.v..); kiểm soát đối với tổ chức thực thi quyền hành pháp (Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của chính phủ và chính quyền địa phương, quyết định cơ cấu và số lượng thành viên Chính phủ); kiểm soát đối với cá nhân thực thi quyền hành pháp (Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ...). Hiến pháp 2013 không có quy định trực tiếp về cơ chế kiểm soát của tòa án tư pháp đối với hoạt động thực hiện quyền hành pháp. Bằng việc quy định về tổ chức và thẩm quyền xét xử của các tòa án có thể thấy cơ chế luật định về kiểm soát tư pháp thông qua xét xử của tòa án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính và cá nhân có thẩm quyền của các cơ quan đó….
Hiện nay, trên thế giới không có một khuôn mẫu cố định của nguyên tắc tam quyền phân lập để áp dụng cho mọi nhà nước. Việc thiết kế cấu trúc của quyền lực nhà nước phải xem xét đến những yếu tố tác động như truyền thống chính trị, môi trường lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển…Mặc dù bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà vẫn theo nguyên tắc tập quyền, tuy nhiên trong chừng mực nào đó đã áp dụng, vận dụng linh hoạt tư tưởng phân quyền, nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở nước ta, việc kiểm soát thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân là chủ trương quan trọng của Đảng, là nguyên tắc pháp luật không ngừng được bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và được thể hiện rõ nhất trong Hiến pháp năm 2013. Bản chất của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là phân công gắn liền với phối hợp và sự kiểm soát quyền lực. Nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước được thể hiện trong tất cả các chương của Hiến pháp và hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực, trong đó quyền của nhân dân với tư cách là chủ nhân của tất cả quyền lực nhà nước được đề cao và sự mở rộng các hình thức dân chủ; là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi hiệu lực, hiệu quả, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời để nhân dân có cơ sở hiến định giám sát quyền lực nhà nước. Sự thiếu rõ ràng, rành mạch về phân công nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã làm ảnh hưởng đến việc tổ chức, hiệu quả hoạt động của các cơ quan này và của cả bộ máy nhà nước trên thực tế. Chính vì vậy, so với Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013 đã thể hiện đậm nét hơn tư tưởng phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước./.
                                                                                  N.Thảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 1992;
2. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);
3. Hiến pháp năm 2013;
4. Nguyễn Hoài Phương, Hiến pháp năm 2013 và việc hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí luật học số 9/2014;
5. Dương Thị Thanh Mai, Chế định Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí luật học số 9/2014;
6. Đỗ Đức Minh, Hiến pháp năm 2013 – Bước phát triển quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí luật học số 9/2014;
7. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu tuyên truyền Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014;
8. Website: http://web.truongchinhtrithanhhoa.gov.vn/s/?noi-dung-co-ban-cua-hoc-thuyet-tam-quyen-phan-lap-va-y-nghia-trong-to-chuc-hoat-dong-cua-nha-nuoc-ta-hien-nay&tp=news&region_id=16&keyword=0&masterid=0&id=8103