Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là một hoạt động bảo hiểm mang đầy rủi ro, do vậy, thông thường Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức BHTG để bảo vệ quyền lợi của công chúng khi họ gặp rủi ro về tiền gửi. Đây là một biện pháp phòng ngừa rủi ro được nhiều quốc gia thiết lập nhằm bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp một ngân hàng mất khả năng chi trả. Ở hầu hết các nước, hệ thống BHTG được thành lập bởi chính phủ hoặc ngân hàng trung ương. Chính vì vậy, tổ chức BHTG là sự an toàn, là sự tin cậy, là sự đảm bảo cho các khoản tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tổ chức BHTG còn thực hiện một nhiệm vụ quan trọng khác là ngăn ngừa, xử lý những khủng hoảng của ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn vi mô cho toàn bộ hệ thống tài chính.
Luật Bảo hiểm tiền gửi được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/6/2012. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Để luật này kịp thời phát huy tác dụng khi đi vào cuộc sống, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/2013/NĐ-CP 28/6/2013, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi; Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư 24/2014/TT-NHNN ngày 06/9/2014 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi (viết tắt Thông tư 24/2014/TT-NHNN) Trong hơn 3 năm qua, việc triển quy định pháp luật về BHTG đã mang lại nhiều ý nghĩa về mặt kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, cũng đã bộc lộ một số bất cập như hạn mức chi trả tiền gửi quá thấp, phí BHTG được áp dụng theo cơ chế đồng hạng không đảm bảo yếu tố thị trường và công bằng đối với các tổ chức tham gia BHTG; quy định liên quan đến địa vị pháp lý, mô hình của tổ chức BHTG Việt Nam chưa đầy đủ; quy định về cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính chưa rõ ràng minh bạch, vai trò của tổ chức BHTG Việt Nam trong việc xử lý đổ vỡ tín dụng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của thị trường tài chính Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số bất cập trên và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về BHTG trong thời gian tới.
Thứ nhất: Theo quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm; Xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm tại Điều 24, Điều 27 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012
“1. Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
2. Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ.”
“Số tiền gửi của người được bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật.”
Khoản 3 Điều 21 Nghị định số 68/2013/NĐ-CP 28/6/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi:
“Các quy định về phí bảo hiểm tiền gửi, số tiền bảo hiểm được trả tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định về khung phí bảo hiểm tiền gửi, hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi.”
Tại khoản 3 Điều 1 của Nghị định 109/2005/NĐ-CP:
“1. Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thuộc đối tượng quy định tại Điều 3 của Nghị định này, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng.
2. Việc thay đổi số tiền bảo hiểm tối đa quy định tại khoản 1 Điều này do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính."
Theo những quy định này, cho dù người gửi tiền có gửi 1 tỷ đồng tại một tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nếu bị phá sản, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) sẽ chỉ chi trả cho người gửi tiền trên tối đa là 50 triệu đồng bao gồm cả gốc và lãi. Con số 50 triệu đồng này quá ít so với hiện tại. Tất nhiên tiền gửi của người dân không chỉ trông chờ vào BHTGVN, mà phần nhiều trông chờ vào tiền thu được từ hoạt động thanh lý tài sản ngân hàng khi phá sản. Theo trình tự ưu tiên, trước hết, ngân hàng sẽ tiến hành chi trả cho chủ nợ là các khoản vay đặc biệt đầu tiên, kế đến là người gửi tiền, tiếp theo là các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng, rồi đến người sở hữu trái phiếu ngân hàng, theo sau là các nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ và cuối cùng là cổ đông của ngân hàng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, quá trình tiến hành phá sản ngân hàng, đặc biệt là hoạt động thanh lý tài sản, có thể mất một khoảng thời gian dài, gây ra tâm lý tiêu cực cho người gửi tiền, khiến họ đổ xô rút tiền ngay và khó đoán trước kêt quả, nếu người gửi tiền chịu tác động hiệu ứng domino. Để ngăn chặn nguy cơ đó, cần có cam kết bảo lĩnh từ Nhà nước hoặc hạn mức chi trả BHTG đủ lớn từ BHTGVN. Với vai trò điều phối, Chính phủ có thể đứng ra bảo lãnh thanh toán trước cho người gửi tiền nếu như các thỏa thuận thanh lý tài sản với các đối tượng mua đã hoàn tất.
Bên cạnh đó, Điều 23 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012, quy định về thời hạn trả tiền bảo hiểm:
“Trong thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.”
Theo quy định tại Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-NHNN, về thủ tục trả tiền bảo, như sau:
“1.Trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải gửi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm. Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm do người đại diện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi quy định tại khoản 2 Điều này ký, bao gồm:
a) Văn bản đề nghị trả tiền bảo hiểm theo mẫu quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam;
b) Danh sách người được bảo hiểm tiền gửi theo mẫu quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, trong đó ghi rõ số tiền gửi được bảo hiểm (bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi) và khoản nợ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (nếu có, bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi) của từng người được bảo hiểm tiền gửi tính đến ngày phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; số tiền bảo hiểm đề nghị trả cho từng người được bảo hiểm tiền gửi.
c) Bản sao văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền của Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại Điều 8 Thông tư này.
2. Người đại diện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các thủ tục đề nghị trả tiền bảo hiểm:
a) Sau khi Ngân hàng Nhà nước có văn bản văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản, người đại diện theo pháp luật của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tiếp tục là người đại diện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để thực hiện các thủ tục đề nghị Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền.
b) Trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị khuyết người đại diện theo pháp luật hoặc trong trường hợp cần thiết khác, Ngân hàng Nhà nước chỉ định cán bộ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc cán bộ của Ngân hàng Nhà nước là người đại diện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thực hiện các thủ tục đề nghị trả tiền bảo hiểm.
3.Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều này, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tiến hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác định số tiền bảo hiểm phải chi trả.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm cung cấp hồ sơ, chứng từ theo yêu cầu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để phục vụ việc kiểm tra, xác định số tiền chi trả.
Trường hợp kiểm tra chứng từ, sổ sách để xác định số tiền chi trả phát hiện dấu hiệu vi phạm vượt quá thẩm quyền xử lý của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam báo cáo, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét, kiểm tra, thanh tra, xử lý.
Căn cứ kết quả kiểm tra của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cung cấp, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam lập danh sách người được trả tiền bảo hiểm và số tiền bảo hiểm trả cho từng người.
4.Trong thời hạn 10 (mười) ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra theo quy định tại khoản 3 Điều này, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phải có phương án trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi; thông báo công khai về địa điểm, thời gian, phương thức trả tiền bảo hiểm trên ba số liên tiếp của một tờ báo trung ương, một tờ báo địa phương nơi đặt trụ sở chính, các chi nhánh của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và trên một báo điện tử của Việt Nam; niêm yết danh sách người được trả tiền bảo hiểm và số tiền bảo hiểm trả cho từng người tại địa điểm đã thông báo.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Thông tư 24/2014/TT-NHNN, nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Dù trên thực tế BHTGVN chưa một lần áp dụng quy định này, nhưng qua nghiên cứu các mốc thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 3 và khoản 4 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-NHNN, tác giả thấy rằng, vướng mắc chắc chắn sẽ xảy ra theo hướng chậm trễ so với thời gia chi trả quy định tại Điều 23 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012, mà không thể quy kết trách nhiệm đối với cơ quan có liên quan. Vì:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-NHNN, trong thời hạn 10 ngày làm việc sau khi Ngân hàng nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản…, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mới tiến hành lập hồ sơ và hồ sơ này sẽ được BHTGVN chính thức thụ lý sau khi qua kiểm tra, bảo đảm rằng thủ tục đã đầy đủ theo quy định. Vấn đề đặt ra, nếu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn thực hiện đúng trong phạm vi 10 ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Thông tư này, còn việc hồ sơ có sai sót hoặc cập nhật dữ liệu về người, tổ chức gửi tiền chưa chính xác,…cần có thời gian rà soát bổ sung, thời gian hoàn tất có thể kéo dài đến 20 ngày hay lâu hơn. Sự chậm trễ này sẽ kéo theo hàng loạt sự chậm trễn khác, như thời hạn BHTGVN tiến hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác định số tiền bảo hiểm phải chi trả, đó là chưa kể đến trường hợp kiểm tra chứng từ, sổ sách để xác định số tiền chi trả phát hiện dấu hiệu vi phạm vượt quá thẩm quyền xử lý của BHTGVN, buộc phải báo cáo, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét, kiểm tra, thanh tra, xử lý. Đáng lưu ý, quy định trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-NHNN, BHTGVN phải có phương án trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG, vậy thời hạn quy định BHTGVN phải kiểm tra xong là bao lâu? 10 ngày, 20 ngày hay 25 ngày,... pháp luật chưa quy định cụ thể. Chính “
kẽ hở” này nguy cơ quyền lợi của người được BHTG chi trả không được thực hiện triệt để mà chưa có chế tài quy định xử phạt nghiêm.
Nghiên cứu pháp luật của một số nước quy định về BHTG, cho thấy:
Tổng công ty BHTG Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) chi trả cho tất cả người gửi tiền tại NH với hạn mức lên tới 250.000USD (5,5 tỷ VNĐ), đồng thời cùng với FED (Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ) và các cơ quan có thẩm quyền khác giám sát hoạt động của các NH, nên người dân luôn yên tâm gửi tiền. Với hạn mức chi trả BHTG cao, dù có NH phá sản người dân cũng yên tâm gửi tiền, còn với hạn mức chi trả thấp, người dân sẽ mất niềm tin và tiền sẽ bị rút ra.
Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền trong vòng 07 ngày trong trường hợp ngân hàng tiết kiệm bị đình chỉ. Mà theo đó, tháng 12/2015, KDIC đã ký thỏa thuận với các ngân hàng để phát triển một hệ thống mạng tích hợp và vận hành hệ thống này từ ngày 23/11/2016. Bằng việc tích hợp mạng này, các ngân hàng tiết kiệm sẽ cung cấp thông tin tài chính cho KDIC và cho phép KDIC rút ngắn thời gian tính toán cho việc chi trả tiền bảo hiểm đối với người gửi tiền từ 05 tháng như hiện nay xuống còn 07 ngày làm việc
[1].
Tháng 11/2016, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Philippines (PDIC) đã giới thiệu đến người gửi tiền những thói quen tiết kiệm thông minh. Để là một người tiết kiệm thông minh, PDIC khuyến khích người gửi tiền tìm hiểu thông tin về hoạt động ngân hàng như: Thông tin về chủ sở hữu và đội ngũ nhân viên, tình hình tài chính, các sản phẩm của ngân hàng (các loại hình tiết kiệm, kỳ hạn gửi). PDIC lưu ý người gửi tiền cần chắc chắn ngân hàng đó đã đăng ký với BSP và là thành viên của PDIC. Bên cạnh đó, PDIC khuyến nghị người gửi tiền tìm hiểu các thông tin cần thiết về ngân hàng qua các kênh như: PDIC, BSP, Ủy ban Chứng khoán & Hối đoái, website, báo giấy, tạp chí, các kênh phát thanh và truyền hình.
Một người gửi tiền thông minh nên hiểu rõ nhu cầu của mình để lựa chọn dịch vụ ngân hàng phù hợp, và điều quan trọng là cần tìm hiểu kỹ về các mức phí ngân hàng áp dụng. Các thông tin cá nhân và hồ sơ ngân hàng như sổ tiết kiệm, thẻ ATM, chứng chỉ tiền gửi, séc… cần được duy trì bảo mật mọi lúc và cập nhật thường xuyên. PDIC khuyến cáo người gửi tiền nên thường xuyên kiểm tra sao kê tài khoản. Người gửi tiền chỉ nên giao dịch tại ngân hàng với nhân viên được ủy quyền và trong quá trình thực hiện giao dịch, cần yêu cầu các nhân viên xuất trình thẻ cán bộ và đảm bảo mỗi giao dịch đều có đầy đủ chứng từ giao dịch xác nhận phiếu gửi tiền/rút tiền đi kèm.
Ngoài ra, mỗi người gửi tiền phải cần hiểu rõ về các loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức trả bảo hiểm tiền gửi của PDIC là 500.000 Peso (khoảng 10.314 USD, tương đương 219 triệu VNĐ). Cũng theo khuyến nghị của PDIC, lãi suất quá cao thường tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đây là những tư vấn thiết thực, bổ ích của PDIC để giúp người gửi dân đảm bảo tốt nhất lợi ích của mình khi gửi tiền vào ngân hàng
[2].
Các quốc gia phát triển rất linh hoạt trong việc điều chỉnh hạn mức chi trả BHTG theo tình hình kinh tế-xã hội từng thời kỳ, và thường đáp ứng các chỉ số như tỷ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số người gửi tiền được bảo hiểm phải trên 80%; tỷ lệ số tiền gửi được bảo hiểm toàn bộ trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm khoảng 20-30%; tỷ lệ hạn mức BHTG trên GDP bình quân đầu người từ 2,5 đến 5 lần…
Theo các tài liệu hướng dẫn của IADI, việc tính toán hạn mức trả tiền bảo hiểm phải tuân thủ hai mục tiêu cơ bản là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ, thiếu thông tin về hoạt động ngân hàng và góp phần đảm bảo ổn định tài chính. Hạn mức chi trả phù hợp là hạn mức chi trả không quá thấp để khuyến khích người gửi tiền yên tâm gửi tiền vào ngân hàng và không quá cao để kiểm soát rủi ro đạo đức. Các căn cứ để tính toán hạn mức bao gồm:
1) GDP bình quân đầu người và các yếu tố liên quan như lạm phát, tỷ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính;
2) tỷ lệ phần trăm người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền;
3) tỷ lệ phần trăm giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ trên tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm;
4) mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế.
Trong giai đoạn kinh tế bình thường, IADI khuyến nghị hạn mức BHTG nên bảo vệ toàn bộ được 90% đến 95% số người gửi tiền; đồng thời tỷ lệ “Hạn mức/GDP bình quân đầu người” nên tối thiểu bằng 2 và tương đương với mức trung bình của các quốc gia có cùng trình độ phát triển dịch vụ ngân hàng.
Ở nước ta, quy định hạn mức chi trả tiền bảo hiểm thể hiện chính sách của Nhà nước, được xây dựng trong từng thời kỳ và việc xác định hạn mức cần đảm bảo đồng thời 2 nguyên tắc sau: i) Hạn mức cần đủ cao để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng; ii) Hạn mức cần đủ thấp để những người gửi tiền quy mô lớn không chủ quan với các hoạt động ngân hàng thiếu an toàn và rủi ro, qua đó kiểm soát và điều tiết rủi ro đạo đức, tránh tình trạng mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mức BHTG được xây dựng dựa trên nhiều tiêu chí, nhưng có 2 tiêu chí quan trọng không thể bỏ qua.
Một là, phải hướng đến bảo vệ số đông người gửi tiền, những người thiếu thông tin về hoạt động của ngân hàng.
Hai là, mức tiền bảo hiểm được so sánh với mức thu nhập bình quân đầu người, thường gấp 3 lần mức thu nhập bình quân đầu người.
Ngoài ra, việc xác định hạn mức cần tính tới cá yếu tố có liên quan như: thu nhập GDP bình quân đầu người, lạm phát, tỷ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; tỷ lệ % người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền; tỷ lệ % giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ trên tổng tiền gửi; mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế. Với quy định mức tối đa 50 triệu đồng về chi trả tiền bảo hiểm như hiện nay không còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay và là nguyên nhân làm giảm tính hiệu quả trong việc kích thích nguồn vốn nhàn rỗi huy động trong dân, không khuyến khích người gửi tiền, bởi hiện mức tiền gửi của số đông người dân vào khoảng 150 triệu đến 200 triệu đồng, nhưng Nhà nước chỉ khi trả BHTG tối đa 50 triệu cả gốc lẫn lãi là không phù hợp. Xét ở các yếu tố như thu nhập GDP bình quân đầu người, tình trạng lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng tiền gửi… và chưa bảo vệ được hết quyền lợi của người gửi tiền nhưng cũng bù đắp được một phần rủi ro và hạn mức này đang được đề nghị nâng lên mức cao hơn để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, duy trì niềm tin công chứng và tránh không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của tổ chức tín dụng.
Khi so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, hạn mức chi trả BHTG của Việt Nam đang thấp nhất về số tiền tuyệt đối và hầu hết các tiêu chí khác như Hạn mức/GDP bình quân đầu người, tỷ lệ phần trăm người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ, tỷ lệ phần trăm giá trị tiền gửi được bảo vệ toàn bộ. Cụ thể:
[3]
Quốc gia |
Hạn mức chi trả BHTG (nguyên tệ) |
Hạn mức chi trả BHTG (USD) |
Hạn mức/GDP bình quân đầu người năm 2016 |
Thái Lan |
25.000.000 (THB) |
709.220 |
125,3 |
Indonesia |
2.000.000.000 (IDR) |
153.257 |
42,2 |
Malaysia |
250.000 (MYR) |
59.666 |
6,3 |
Singapore |
50.000 (SGD) |
35.971 |
0,7 |
Philippin |
500.000 (PHP) |
10.346 |
3,5 |
Việt Nam |
50.000.000 (VNĐ) |
2.242 |
1,0 |
Để đảm bảo tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, ổn định tâm lý, tạo dựng niềm tin công chúng vào các ngân hàng, cần nghiên cứu nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm, hạn mức chi trả hợp lý vào khoảng 3 lần thu nhập bình quân người/năm (Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2016 ước tính là 2.200 USD (xấp xỉ 50 triệu đồng), cao hơn thu nhập bình quân đầu người 45,7 triệu đồng (tương đương 2.109 USD) năm 2015)
[4]. Như vậy, mức BHTG cần được điều chỉnh lên 150 triệu hoặc cao hơn là mới hợp lý
Thứ hai: Điều 20 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định: Thủ tướng quy định khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN. Căn cứ khung phí BHTG, NHNN quy định mức phí cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này (nghĩa là trên cơ sở rủi ro). Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 109/2005/NĐ-CP, phí bảo hiểm tiền gửi áp dụng đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tín dụng là 0,15%/năm tính trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm bình quân tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Mức phí đồng hạng là 0,15% trên tổng tiền gửi được bảo hiểm cho tất cả các tổ chức tín dụng tham gia BHTG, hình thức đóng phí này có ưu điểm là không phải đánh giá phân loại các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tỷ lệ phí BHTG đồng hạng quy định theo kiểu cào bằng đối với mọi tổ chức tín dụng, không phân biệt quy mô, hình thức sở hữu, cũng như mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm, mà chưa có sự phân hạng theo mức độ rủi ro, hoạt động của các tổ chức tín dụng, tạo ra sự ỷ lại, không có tác dụng khuyến khích các tổ chức tín dụng đua nhau thực hiện tốt, an toàn để hưởng phí BHTG thấp, thúc đẩy tổ chức tín dụng chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động của mình. Đến nay, NHNN cũng chưa có hướng dẫn gì trong việc thực hiện quy định này. Mặc dù, việc thu phí trên cơ sở rủi ro có những ưu điểm là đối xử bình đẳng giữa các TCTD, góp phần hạn chế rủi ro, đặc biệt là rủi ro đạo đức trong các ngân hàng. Ở nhiều nước, việc điều chỉnh mức phí, xếp hạng, phân loại các tổ chức tín dụng là do BHTG thực hiện.
Xu hướng của các tổ chức BHTG trên thế giới là chuyển sang phương pháp tính phí theo rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm. Theo số liệu khảo sát của IADI, đến cuối năm 2013, trên thế giới có khoảng 102 tổ chức BHTG, trong đó 35 tổ chức áp dụng mức phí điều chỉnh theo rủi ro hoặc kết hợp. Hệ thống phí BHTG theo mức độ rủi ro được xây dựng một cách phù hợp có thể tính mức phí cao hơn đối với tổ chức tham gia bảo hiểm có nhiều rủi ro và mức phí thấp hơn đối với những tổ chức hoạt động an toàn hơn. Như vậy, việc áp dụng thành công hệ thống phí BHTG theo mức độ rủi ro sẽ đạt được hai mục tiêu: i) Khuyến khích TCTD giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự công bằng cho các TCTD tham gia BHTG (nếu chấp nhận rủi ro cao thì nộp phí cao hơn và ngược lại); ii) Đẩy nhanh quá trình tích lũy quỹ BHTG (ví dụ chia các TCTD thành 4 nhóm với mức phí thu khác nhau là 0,15% - 0,2% - 0,25% - 0,3%).
Về lâu dài, ở Việt Nam khi mà BHTG có đủ năng lực, kinh nghiệm thì cũng nên trao quyền này cho BHTG chủ động. Mà theo đó, sẽ tính phí theo mức độ rủi ro của ngân hàng tham gia bảo hiểm. Ngân hàng nào rủi ro cao, thì phải chịu phí cao, ngân hàng nào an toàn hơn, thì chịu phí thấp. Khi tính phí theo chất lượng ngân hàng như vậy, ngân hàng sẽ phấn đấu đạt hạng tốt để được hưởng mức phí thấp, giảm giá thành chi phí. Theo các chuyên gia lĩnh vực ngân hàng, việc tính toán hạn mức chi trả BHTG phù hợp không khó. Khó là ở việc xây dựng và áp dụng cơ chế phí dựa trên mức độ rủi ro của TCTD, gắn liền với việc chuyển đổi hoạt động của cơ quan BHTG từ mô hình chi trả (Pay-box) sang mô hình giảm thiểu rủi ro (Risk-Minimiser). Đối với việc xây dựng cơ chế phí dựa trên mức độ rủi ro của TCTD, trước mắt nên chăng thực hiện những
“bài kiểm tra” mô phỏng và tiếp thu ý kiến đóng góp từ các TCTD và chuyên gia. Sau đó có thể tiến hành thí điểm đối với một số TCTD trước khi áp dụng thực tế.
Thứ ba: Về quyền của người được BHTG và nghĩa vụ của tổ chức BHTG.
Về quyền của người được BHTG, khoản 3 Điều 11 Luật này quy định:
“Yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi.”
Về nghĩa vụ của tổ chức BHTG, khoản 14, Điều 13 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 có quy định:
“Tổ chức tuyên truyền chính sách, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ và phương thức quản lý phù hợp với yêu cầu phát triển của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.”
Trong gần 04năm qua, công tác thông tin tuyên truyền của BHTGVN được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào kết quả và sự phát triển của BHTGVN. Công tác tuyên truyền được chỉ đạo và triển khai thực hiện chặt chẽ, bài bản từ trụ sở chính tới các chi nhánh; hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú. Website và tờ Thông tin là hai sản phẩm chính thống của BHTGVN đã chuyển tải nhiều cơ chế, chính sách về BHTG và tài chính, ngân hàng tới công chúng. Thông qua báo chí trong và ngoài ngành Ngân hàng, các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, các cuộc tiếp xúc thực tế tại các TCTD và khách hàng của họ… để tuyên truyền tới nhiều đối tượng. Tuy nhiên, sự phối hợp tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTG giữa BHTGVN và TCTD tới người gửi tiền vẫn còn hạn chế. Hiện nay, phần lớn các phòng giao dịch của các tổ chức tham gia BHTG chỉ trưng bày chứng nhận BHTG, chưa có việc cung cấp thông tin cho người gửi tiền về chính sách BHTG. Theo khảo sát của chính DIV (BHTGVN), khách hàng gởi tiền vì uy tín thương hiệu ngân hàng chiếm 14%, lãi suất chiếm 19%, được bảo hiểm tiền gửi là 9%, còn lại là tất cả các nhân tố trên. Đây cũng là một thực tế bất cập, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa BHTGVN với tổ chức tham gia BHTG trong việc cung cấp thông tin về chính sách BHTG tới người gửi tiền một cách thường xuyên, công khai, minh bạch.
Nhằm bảo vệ người gửi tiền và đóng góp vào sự ổn định tài chính, tiền tệ, cần đảm bảo rằng công chúng thường xuyên, liên tục được cập nhật thông tin đầy đủ về chính sách, pháp luật BHTG. Theo tiêu chuẩn của Hiệp hội BHTG quốc tế, tổ chức BHTG là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc nâng cao nhận thức công chúng về hệ thống BHTG, các thông tin, kiến thức về hoạt động ngân hàng, tài chính trong và ngoài nước.Vì vậy, BHTGVN cần tổ chức thường xuyên các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức công chúng, phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng, các cơ quan quản lý Nhà nước để thống nhất chương trình, kế hoạch và nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức công chúng. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu các văn bản hướng dẫn, các cơ chế phối hợp và kinh phí thực hiện, bởi để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi phải đa dạng hóa hình thức tuyên truyền và kinh phí rất lớn. Để từng bước nâng cao nhận thức công chúng, ổn định tâm lý, tạo niềm tin cho người gửi tiền, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách BHTG phải liên tục được đẩy mạnh. Khi nhận thức của công chúng nâng cao, niềm tin được tăng cường sẽ góp phần ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, đồng thời tiền gửi của công chúng được đảm bảo.
Mục đích của BHTG là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Đây là mục tiêu hết sức lớn, cao cả và đầy tính nhân văn. Vì vậy, ngoài những thiết chế đảm bảo cho hệ thống BHTG có tiềm lực tài chính, một bộ máy tổ chức cũng như nhân lực đủ mạnh để có thể tham gia vào quá trình giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, kịp thời cảnh báo, phát hiện và ngăn ngừa rủi ro, cần khẩn trương xây dựng, bổ sung quy định tiếp cận, chia sẻ thông tin một cách thường xuyên giữa BHTGVN với Ngân hàng Nhà nước và các TCTD; đồng thời thực hiện tuyên truyền chính sách BHTG thường xuyên, sâu rộng tới công chúng và người gửi tiền
Thứ tư: Về bản chất, tổ chức BHTG dù được tổ chức và hoạt động dưới bất kỳ hình thức nào: là tổ chức tài chính thuộc Chính phủ hay thuộc Quốc hội; một định chế tài chính độc lập… họat động của tổ chức BHTG vẫn cơ bản dựa theo nguyên lý của hoạt động bảo hiểm là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho số ít. Đây là một hoạt động bảo hiểm mang đầy rủi ro, do vậy, thông thường Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức BHTG để bảo vệ quyền lợi của công chúng khi họ gặp rủi ro về tiền gửi.
Trong kinh tế hiện đại, BHTG có và phải thực hiện được vai trò nhất định trong việc tham gia quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tham gia bảo hiểm khác, và hơn nữa là có vai trò trong giám sát và góp phần bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia. Ở các nước phát triển, tham gia giám sát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính quốc gia thường bao gồm 5 cơ quan là:
Bộ Tài chính; Ngân hàng trung ương; cơ quan quản lý, giám sát thị trường chứng khoán; tổ chức BHTG và cơ quan giám sát quốc gia về tài chính – tiền tệ. Trong đó, tổ chức BHTG có vai trò không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ giám sát an toàn, phối hợp hoạt động, chia sẻ thông tin và cùng chịu trách nhiệm với các cơ quan khác về sự an toàn và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính – tiền tệ. Nhưng với nước ta, nói về vai trò của tổ chức BHTGVN một câu hỏi được đặt ra “dường như, sự tồn tại của BHTG đang là gánh nặng?”. Nếu điều đó xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến an toàn tài chính quốc gia. Bởi theo mô hình mạng an toàn tài chính quốc gia, BHTGVN với bốn trụ cột vững vàng với khung pháp lý vững chắc, phân chia chức năng nhiệm vụ rõ ràng và cơ chế phối hợp hiệu quả mới tạo thế ổn định tài chính, đó là: Bộ Tài chính, tổ chức bảo hiểm tiền gửi, NHTW, và tổ chức giám sát khác. Riêng ở nước ta, trụ cột Ngân hàng nhà nước đang gánh vác hầu như toàn bộ 3 trụ cột còn lại. Theo các chuyên gia tài chính khuyến nghị, nếu chỉ một trụ cột “
không chóng thì chầy” sẽ dẫn đến những bất ổn định tài chính trong thời gian tới. Hoạt động của ngành BHTG ở nước ta còn khá mờ nhạt và chưa đúng tầm. Nguyên nhân có thể là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức BHTGVN với các cơ quan thanh tra, giám sát để giải quyết những khó khăn của ngành ngân hàng.
Cũng cần phải phân biệt rõ rằng, vai trò tham gia giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia của BHTG không phải với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay mà là một định chế tài chính độc lập cùng gánh vác và chia sẻ trách nhiệm đó với các cơ quan nhà nước và các định chế tài chính khác thông qua hoạt động nghiệp vụ BHTG. Với vị trí và vai trò này, tổ chức BHTG có những chức năng và mục tiêu sau đây:
Một là, chức năng tổ chức nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Đây là chức năng chủ yếu của BHTG. Tổ chức BHTG sinh ra là để thực hiện chức năng bảo hiểm cho tiền gửi của những người gửi tiền ở các tổ chức có huy động tiền gửi trong dân cư. Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản thì tổ chức BHTG đứng ra chi trả tiền bảo hiểm cho người dân. Để thực hiện chức năng này, tổ chức BHTG tiến hành các nhiệm vụ như: cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cho các tổ chức tham gia BHTG; thu phí bảo hiểm; cung cấp thông tin, tư vấn cho người gửi tiền; thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản và cuối cùng là tiến hành xử lý (thanh lý và thu nợ) đối với tổ chức tham gia BHTG bị đóng cửa.
Hai là, chức năng tham gia giám sát, đánh giá rủi ro. Trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, góp phần bảo đảm an toàn và sự phát triển bình thường của hệ thống tài chính – tín dụng. Đây là chức năng không thể thiếu của tổ chức BHTG và có tính chất bổ trợ cho chức năng bảo hiểm nói trên. Để thực hiện tốt chức năng bảo hiểm, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí cũng như phòng chống đổ vỡ, ngăn chặn trước những sự kiện bảo hiểm có thể xẩy ra, tổ chức BHTG phải tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Từ kết quả giám sát, tổ chức BHTG đưa ra những khuyến nghị cho các tổ chức tham gia BHTG nhằm ngăn ngừa rủi ro, hạn chế đổ vỡ và trong giới hạn cho phép, tổ chức BHTG còn có thể hỗ trợ, thậm chí có quyền can thiệp vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG khi có dấu hiệu mất an toàn.
Ba là, chức năng đầu tư kinh doanh. Đây là một chức năng còn nhiều tranh cãi, nhất là trong nghiên cứu xây dựng mô hình BHTG ở các nước đang phát triển. Có quan điểm thứ nhất cho rằng, BHTG chỉ đơn thuần là một công cụ trong tay Chính phủ để thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền cho dân cư khi có một tổ chức tín dụng bị đổ vỡ. Và do vậy, tổ chức BHTG không phải là một tổ chức có chức năng kinh doanh, không đầu tư, không tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong điều kiện của kinh tế hiện đại, tổ chức BHTG ở các nước phát triển không phải chỉ đơn thuần là công cụ của Chính phủ nhằm hạn chế những đổ vỡ tín dụng mang tính dây chuyền mà còn là một định chế tài chính độc lập, được quản trị và điều hành như một công ty và hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Và khả năng tài chính của tổ chức BHTG không phải chỉ lệ thuộc vào những đồng vốn ngân sách luôn ít ỏi của Chính phủ mà nó phải tăng cường năng lực tài chính từ chính hoạt động của mình. Vì vậy, BHTG cần phải có và phải làm tốt chức năng đầu tư tự tìm kiếm lợi nhuận, để tự tăng cường năng lực tài chính để bảo đảm có đủ khả năng xử lý rủi ro mà không cần đến sự hỗ trợ thường xuyên của Chính phủ.
Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào từng thời kỳ mà xác định chức năng này của BHTG là khác nhau. Chẳng hạn như ở nước ta, BHTGVN hiện nay là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng trong tương lai chắc chắn đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp khi tổ chức BHTG đã thực sự lớn mạnh.
BHTG nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, bảo đảm sự an toàn của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia, tránh đổ vỡ dây chuyền hoặc khủng hoảng. Tạo ra một cơ chế BHTG chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng.
Trước hết, tổ chức này tạo ra cơ chế giám sát, cảnh báo, ngăn chặn và hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG phòng tránh rủi ro trong kinh doanh. Từ đó góp phần rất lớn vào bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia và tránh được những đổ vỡ có tính dây chuyền, thường là căn nguyên của những cuộc khủng hoảng tài chính, thậm chí là khủng hoảng kinh tế.
Tính đến thời điểm này, trên thế giới đã có khoảng 100 quốc gia có tổ chức BHTG và khoảng 20 quốc gia khác đang xúc tiến việc nghiên cứu thành lập. Ở nhiều quốc gia, tổ chức BHTG hoạt động như những doanh nghiệp thực sự, tự chịu trách nhiệm và có đủ năng lực tài chính để xử lý những đổ vỡ ngân hàng, Chính phủ không cần thiết phải can thiệp hoặc chỉ can thiệp, hỗ trợ khi có khủng hoảng, đổ vỡ hàng loạt. Có nước, tổ chức BHTG lớn mạnh đến mức sử dụng lợi nhuận của mình để chia lại cho các tổ chức tham gia BHTG, tức là chia lại lợi nhuận cho các ngân hàng là những người tham gia bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm. Ngoài ra, việc thu phí bảo hiểm được áp dụng theo cơ chế định phí trên cơ sở định mức tín nhiệm. Ngân hàng nào hoạt động an tòan, có uy tín càng cao thì mức phí bảo hiểm phải nộp càng thấp, và ngược lại. Từ đó, tạo ra sự công bằng cũng như động lực cho sự cạnh tranh trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG
[5].
Việc xác định mô hình tổ chức BHTG VN trong giai đoạn tới cần tính tới các mô hình hiện đại theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đồng thời cũng phải phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Theo tác giả, BHTG Việt Nam nên được tổ chức, quản trị và điều hành theo mô hình công ty, có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành (Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc) và bộ máy giúp việc. Trên thế giới hiện nay có 3 mô hình hoạt động đối với các tổ chức BHTG, đó là:
+Mô hình chuyên chi trả. Theo mô hình này, tổ chức BHTG được thành lập chỉ nhằm thực hiện một nhiệm vụ duy nhất đó là chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản. Mô hình này thường tồn tại ở các nước đang phát triển, tổ chức BHTG mới được thành lập và còn nhỏ bé cả về quy mô tổ chức lẫn năng lực tài chính.
+Mô hình chi trả với quyền hạn được mở rộng. Theo đó, BHTG còn được trao thêm một số quyền hạn mở rộng, như: hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn trong thanh toán; theo dõi và khuyến nghị sự cẩn trọng và phòng tránh rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG; tham gia xử lý nợ và thu hồi nợ của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản… Qua đó cũng làm tăng thêm các mục tiêu cần đạt được của chính sách công như hạn chế rủi ro, tránh đổ vỡ hệ thống hoặc khủng hoảng tài chính, gia tăng niềm tin của công chúng… BHTGVN hiện nay về cơ bản được tổ chức và hoạt động theo mô hình này.
+Mô hình giảm thiểu rủi ro. Đây là một mô hình tiên tiến và cũng khá phổ biến trên thế giới. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro còn tham gia cùng với các cơ quan nhà nước và ngân hàng trung ương vào hoạt động giám sát và đánh giá rủi ro của các ngân hàng và các định chế tài chính khác, góp phần bảo đảm sự an toàn và hoạt động bình thường của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia; tính phí bảo hiểm dựa trên cơ sở định mức tín nhiệm của tổ chức tài chính; tiếp nhận xử lý nợ và thu hồi nợ đối với các tổ chức tham gia BHTG bị phá sản; được trao các nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư nhằm bảo toàn phát triển vốn ban đầu cũng như tăng cường sức mạnh tài chính, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách của Chính phủ. Theo tác giả, BHTGVN tới đây cần nghiên cứu, học tập mô hình này. Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 khi sửa đổi sắp tới không chỉ kế thừa những ưu điểm của chính sách BHTG hiện hành mà còn tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xu hướng phát triển hệ thống BHTG trên thế giới, nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc của thị trường tài chính Việt Nam để xây dựng một hệ thống BHTG phù hợp.
Phạm Thị Hồng Đào
[3] Trang web của cơ quan BHTG các nước và World Economic Outlook, Database (IMF, 10, 2016)
[4] http://www.doisongphapluat.com/kinh-doanh/thi-truong/thu-nhap-binh-quan-cua-nguoi-viet-nam-2016-khoang-50-trieu-a143826.html
[5] Nguồn: http://www.bsc.com.vn/News/2010/1/7/77558.aspx