Việc BLHS năm 2015 bổ sung trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân đã đánh dấu bước phát triển mang tính đột phá trong chính sách hình sự và tư duy lập pháp hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền thống về tội phạm và hình phạt. Trên cơ sở cân nhắc một cách thận trọng những điều kiện cụ thể của Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, chế định TNHS của pháp nhân được quy định trong BLHS năm 2015, đáp ứng yêu cầu cấp bách từ thực tiễn khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian qua, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế.
Tại khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015, quy định:
“a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.”
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, quy định: “
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Mặt khác, Điều 74 BLHS năm 2015, khẳng định một nguyên tắc quan trọng là khi xem xét vấn đề truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại phạm tội thì trước tiên phải căn cứ vào các quy định trong Chương XI, đồng thời căn cứ vào các quy định khác trong phần quy định chung của BLHS mà không trái với quy định của này. Điều đó có nghĩa là về cùng một vấn đề mà nếu các quy định trong Phần Những quy định chung của BLHS khác với quy định của Chương này thì áp dụng quy định của chương này. Ví dụ: quy định về mức tối thiểu của hình phạt tiền tại các điều 35 và 77; quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS quy định tại các điều 51, 52, 84, 85 BLHS năm 2015). Còn những điều khoản khác trong Phần những quy định chung của BLHS quy định về những vấn đề mà không được quy định trực tiếp trong chương này hoặc không trái với tinh thần quy định của chương này thì vẫn được áp dụng. Ví dụ: thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 27), về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47),...
Về điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại, theo quy định tại Điều 75 BLHS năm 2015: Pháp nhân thương mại phải chịu TNHS khi có đủ 04 điều kiện, trong đó 03 điều kiện là các căn cứ đặc thù khi xác định TNHS của pháp nhân và 01 điều kiện là căn cứ áp dụng chung cho cả cá nhân và pháp nhân. Cụ thể:
Một là,
hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại, nghĩa là, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội dưới danh nghĩa của pháp nhân. Nếu dưới danh nghĩa của cá nhân thì không thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân ngay cả khi họ là người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Người thực hiện hành vi nhân danh pháp nhân có thể là người lãnh đạo, người điều hành pháp nhân hoặc người được pháp nhân ủy quyền.
Tại các khoản 1, 2, 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014, có quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, như sau:
“1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
3. Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.”
Bên cạnh đó, tại Điều 14 Luật này có quy định trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cụ thể: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;
b) Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
c) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp khác.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Hai là,
hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại, nghĩa là, mục đích của việc thực hiện hành vi phạm tội đó là mang lại lợi ích chung cho pháp nhân, kể cả trong trường hợp lợi ích của pháp nhân không phải là duy nhất. Ví dụ như: giảm chi phí nộp thuế cho pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân khi thực hiện hành vi thao túng giá chứng khoán. Trường hợp thực hiện hành vi trên danh nghĩa pháp nhân nhưng lại mang lại lợi ích cho cá nhân thì cũng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Ba là,
hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để xác định một pháp nhân có bị truy cứu TNHS hay không. Nói cách khác, căn cứ này phản ánh dấu hiệu “lỗi” của pháp nhân thông qua việc đánh giá ý thức chủ quan của người đứng đầu, ban lãnh đạo pháp nhân. Như vậy, pháp nhân chỉ phải chịu TNHS khi người đứng đầu pháp nhân hoặc Ban lãnh đạo của pháp nhân nhận thức được hành vi của người thực hiện là trái pháp luật mà vẫn chỉ đạo, trực tiếp điều hành hoặc chấp thuận cho người đó thực hiện hành vi nhằm phục vụ cho lợi ích chung của pháp nhân.
Bốn là,
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS.
Khoản 2 Điều 75 của BLHS năm 2015 quy định nguyên tắc không loại trừ TNHS của cá nhân khi xử lý TNHS của pháp nhân. Điều này có nghĩa là TNHS của pháp nhân không thay thế, làm loại bỏ hoặc ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS đối với cá nhân. Không được coi việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại về hành vi phạm tội là để thay thế cho việc truy cứu TNHS đối với cá nhân về hành vi phạm tội đó mà cá nhân phải đồng chịu trách nhiệm với pháp nhân về hành vi phạm tội theo nguyên tắc:
- Người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội luôn phải chịuTNHS về cùng tội danh với pháp nhân trừ trường hợp người đó thuộc diện không phải chịu TNHS hoặc được miễn TNHS theo quy định của BLHS.
- Đối với người đứng đầu pháp nhân thì tùy từng trường hợp cụ thể để xử lý. Nếu những người này đều biết và thống nhất chỉ đạo, chấp thuận cho thực hiện thì họ cùng chịu trách nhiệm chung về tội danh với pháp nhân và người trực tiếp thực hiện tội phạm. Nếu có căn cứ cho rằng, trong số họ có người không biết hoặc phản đối việc thực hiện hành vi này thì họ không phải chịu trách nhiệm chung tội danh với pháp nhân.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định TNHS của pháp nhân, cần làm rõ các tình tiết hành vi, hậu quả của tội phạm và trách nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý TNHS đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, để bảo đảm việc xử lý TNHS đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm, người và pháp nhân phạm tội.
Về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại, Điều 76 của BLHS năm 2015 quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS đối với 31 tội danh thuộc hai nhóm tội phạm là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về môi trường
[1]. Các tội phạm này cũng tương đồng với lĩnh vực hoạt động chủ yếu của pháp nhân thương mại và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về tính phổ biến và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Vấn đề đặt ra, do luật không quy định nên đây đang là nội dung gây tranh cải xoay quanh thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng nào, khi mà những pháp nhân thương mại này là doanh nghiệp, công ty thuộc quyền quản lý của Quân đội, lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể là dệt may, sửa chữa tàu biển, y tế,... Với trường hợp Công ty dệt may hoặc nhà máy sửa chữa tàu quân sự, bệnh viện của Quân đội vừa hoạt động bảo đảm nhiệm vụ quốc phòng được giao, vừa tham gia sản xuất, kinh doanh trên cơ sở tuân thủ quy định của pháp luật mà vi phạm về thuế; in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn; gây ô nhiễm mối trường; vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên;… thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân hay Tòa án quân sự ? Xoay quanh vấn đề này, hiện có các loại ý kiến sau:
+ Loại ý kiến thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016), mà theo đó, thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự chỉ là cá nhân người bị buộc tội, bao gồm:
“a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;
b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.”
Theo quy định này, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, bao gồm:
a. Quân nhân tại ngũ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;
b. Công chức quốc phòng bao gồm những công dân được tuyển dụng vào phục vụ trong Quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển sang và do các đơn vị, doanh nghiệp quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;
c. Công nhân quốc phòng bao gồm:
- Những công dân được tuyển dụng thuộc biên chế của các đơn vị, doanh nghiệp quân đội;
- Những công dân có hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các đơn vị, doanh nghiệp quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo hợp đồng;
đ. Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo quy định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên;
e. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân, tự vệ;
g. Những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng các nhu cầu đó.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 272 BLTTHS năm 2015, những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng quy định vừa nêu, chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, nếu họ phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội, cụ thể là:
- Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người vừa nên trên;
- Gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội. Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử dụng, kể cả trường hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào khác quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ quân sự. Cũng được coi là gây thiệt hại cho Quân đội trong trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam do Quân đội quản lý mà lại tiếp tục phạm tội.
Do vậy, những người ủng hộ loại ý kiến này, cho rằng dù là doanh nghiệp, công ty đó do Quân đội thành lập và quản lý, nhưng một khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, nghĩa là pháp nhân thương mại mà vi phạm một trong các tội danh được liệt kê tại điều 76 BLHS năm 2015, thì đều thuộc thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng không phải của Quân đội.
+ Loại ý kiến thứ hai: Dù BLTTHS năm 2015 không quy định rõ thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đối với pháp nhân thương mại do Quân đội thành lập và quản lý khi vi phạm các tội quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015, nhưng do tính chất đặc thù các doanh nghiệp đó chủ yếu hoạt động vì mục đích quốc phòng – an ninh, hơn nữa, đều có quy định riêng về bảo đảm bí mật khi thực hiện nhiệm vụ trên giao, do vậy, nếu để các cơ quan tiến hành tố tụng bên ngoài thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì chắc chắn rằng, yếu tố bí mật liên quan đến thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của doanh nghiệp, công ty đó không được bảo đảm. Chính vì lẽ đó, sẽ là hợp lý nhất nếu như thẩm quyền xét xử này thuộc về Tòa án quân sự.
Mỗi loại ý kiến đều có nhân tố hợp lý, tuy nhiên, để tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, nhất là xác định rõ ràng hợn về thẩm quyền giải quyết những trường hợp vừa nêu, căn cứ vào khoản 4 Điều 275 BLTTHS năm 2015, tác giả đề xuất đề nghị Chánh án TANDTC quyết định theo hướng giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội được toàn quyền xử lý theo thẩm quyền mà pháp luật hình sự và tố tụng hình sự quy định là hợp lý nhất.
Võ Văn Trung - Tòa án quân sự Khu vực 1 – Quân khu 9
[1] Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã); Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).